Saturday 31 December 2011

Điều hành kinh tế vĩ mô năm 2012 – Đừng để biện pháp hành chính thành chính thống (Bai dang tren Dai bieu Nhan dan)

http://www.daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=234276

Năm 2011 sắp khép lại với nhiều dư âm. Trong số này phải kể đến những cái “lần đầu tiên”. Lần đầu tiên cụm từ “bình ổn giá vàng” được chính thức đưa ra và thị trường vàng bị đưa vào “kỷ cương” với hàng loạt biện pháp hành chính cấm đoán, hạn chế hòng làm cho giá vàng trong nước tiếp cận sát sao với giá vàng thế giới. Lần đầu tiên, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mạnh tay xử lý hành động vượt trần lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại bằng cách buộc thôi việc cán bộ liên quan. Tương tự, lần đầu tiên trên thị trường ngoại hối, cả chính thức lẫn tự do, các giao dịch ngoại tệ trái phép, vượt trần cũng bị chế áp mạnh tay như xử lý người quản lý hoặc tịch thu tang vật và xử phạt.

Trong các lĩnh vực khác, các biện pháp hành chính tuy phần lớn không phải là lần đầu tiên, nhưng đều có đặc điểm là cũng được tăng cường về mức độ và tần suất sử dụng. Ví dụ như chuyện kiểm soát giá cả trong nỗ lực kiềm chế lạm phát. Những biện pháp như bắt buộc các quầy hàng niêm yết giá, cho doanh nghiệp thương mại vay với lãi suất 0% để doanh nghiệp tích trữ hàng bình ổn, không cho các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đầu mối tăng giá các hàng hóa và dịch vụ của mình v.v... là một trong nhiều biện pháp hành chính đã và đang được ưa chuộng như là một công cụ vĩ mô (chứ không phải là vi mô nữa) để kiềm chế lạm phát.
Các biện pháp hành chính trên được ưa dùng, thậm chí còn bị lạm dụng vì tính dễ dàng áp đặt và thực thi ngay tức thời nhằm vá ngay được những lỗ hổng trong hệ thống pháp lý, trong nền kinh tế mà thông thường để giải quyết được bằng những công cụ và biện pháp kinh tế thì cần phải có thời gian và phải có năng lực thi hành tốt. Với lợi thế đó, các công cụ và biện pháp hành chính đã và đang dường như trở thành những công cụ và biện pháp chính thống để giải quyết các vấn đề kinh tế ở Việt Nam, vốn đòi hỏi phải có những công cụ và biện pháp kinh tế để giải quyết được tận gốc rễ của vấn đề.

Tuy nhiên, một trong những lý do hiển nhiên để các công cụ hành chính không nên được lạm dụng là tính không minh bạch và không bền vững của chúng. Vì đã là công cụ hành chính nên chúng sẽ phải kèm theo các biện pháp cấm đoán, hạn chế, cấp phép, giám sát và xử phạt v.v... Những quyền này sẽ tập trung vào tay một số người/nhóm người, tạo thành đặc quyền, đặc lợi, tùy tiện hành xử cho họ mà không dễ bị phát hiện và xử lý bởi pháp luật hiện hành. Đây cũng là những kẽ hở để các đối tượng bị chế tài “lách” qua bằng các thủ đoạn thông đồng, hối lộ v.v... Các biện pháp hành chính cũng không thể kéo dài, không có tính bền vững vì các đối tượng bị chế tài luôn có những động cơ khuyến khích tìm ra những kẽ hở hợp pháp hoặc thậm chí là bất hợp pháp để qua mặt được các cơ quan chức năng nhằm thu được lợi ích mong muốn. Các biện pháp hành chính còn làm méo mó thị trường, giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư.

Ví dụ cho tình trạng không minh bạch và hiệu quả của các công cụ hành chính có nhiều. Ở đây có thể nêu ra chuyện áp đặt trần lãi suất huy động. Sau khi NHNN mạnh tay xử lý các tổ chức tín dụng vi phạm quy định trần lãi suất huy động, tình hình chạy đua lãi suất nhốn nháo trước đây đã tỏ ra tĩnh lặng hơn, nhưng chỉ được một thời gian ngắn, một hai tháng, rồi mới gần đây báo chí lại vạch ra những bằng chứng cho thấy làn sóng ngầm trong cuộc đua vượt trần lãi suất huy động chưa bao giờ ngừng nghỉ và đang có dấu hiệu trở lại mạnh.

Không ít người đã cố gắng nhìn nhận vấn đề này bằng một cái nhìn đơn giản hóa, tuồng như tình trạng vượt rào lãi suất chỉ là một hiện tượng cá biệt, mang tính chụp giật của một số ít ngân hàng dưới những quy kết như “cạnh tranh không lành mạnh”. Lẽ ra, người ta phải thấy rằng trong bối cảnh lạm phát ở mức cao gần nhất thế giới trong năm nay, 18,5%/năm, trong khi tình hình lạm phát trong năm sau vẫn còn là một dấu hỏi lớn, thì việc áp đặt trần lãi suất huy động 14%/năm (thậm chí người ta còn đang xem xét hạ tiếp xuống nữa), là một việc làm rất duy ý chí, thiếu khôn ngoan và thận trọng. Trong bối cảnh như thế này, lẽ ra điều cần làm là phải nhấn mạnh vào việc khôi phục và củng cố lòng tin vào VNĐ, vào hệ thống ngân hàng, bằng những chính sách và công cụ kinh tế như chính sách tiền tệ (thắt chặt), lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng bằng việc tăng cường công tác quản trị rủi ro, góp phần làm giảm nhiệt lạm phát rồi từ đó mới tính đến chuyện nới lỏng chính sách tiền tệ để làm giảm lãi suất huy động và cả cho vay. Nếu làm được như vậy rồi thì việc thi hành trần lãi suất huy động vừa là một việc làm vô ích, vừa thậm chí là có hại vì tiếp tục làm tăng áp lực lạm phát (tiền thoát ra khỏi hệ thống ngân hàng), làm lợi cho ngân hàng nào “lách” được trần lãi suất này.

Cũng rất may là người đứng đầu Chính phủ đã sớm nhận thức và vạch ra được một số bất ổn trong công tác điều hành kinh tế vĩ mô, nhất là liên quan đến ngành tài chính, ngân hàng. Thủ tướng đã có những nhận định rất đáng hoan nghênh như không được chủ quan với nguy cơ lạm phát cao sẽ quay trở lại (trong khi rất nhiều người tự tin với dự báo lạm phát dưới 10%/năm trong năm tới); và giảm lãi suất cho vay (chứ không phải lãi suất huy động như nhiều người đang vận động) theo sát diễn biến của lạm phát (tức là chỉ giảm lãi suất khi lạm phát đã giảm, chứ không phải mù quáng giảm lãi suất để “cứu” doanh nghiệp như người ta đang hô hào).

Như vậy, nếu những chỉ đạo trên đây của Thủ tướng được hiểu và chấp hành nghiêm túc thì có thể thấy một số trong những biện pháp hành chính của NHNN được áp dụng trong thời gian vừa qua là biện pháp “quẫn”, thậm chí là sai lầm. Nếu đã trót ban hành và thực thi rồi thì rất nên có ngay lộ trình triệt thoái sớm nhất có thể, và tuyệt đối không nên tiếp tục áp dụng thêm với tư cách là các công cụ chính sách trong thời gian tính bằng nhiều tháng nữa.

Điều tương tự cũng sẽ đúng với nhiều biện pháp hành chính khác đã và đang được áp dụng tại Việt Nam. Gốc rễ của các vấn đề tồn tại vẫn là những bất ổn, yếu kém mang tính kinh tế và chỉ có thể giải quyết triệt để bằng các biện pháp mang tính kinh tế. Đây cần phải được coi là một định hướng quan trọng trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô năm 2012 mới mong đạt được một cách bền vững những mục tiêu vĩ mô mà Chính phủ vạch ra.

Tuesday 20 December 2011

Hiểu rõ để phòng chống bóng ma lạm phát trở lại (dang tren Dai bieu Nhan dan)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=233276

07:41 | 21/12/2011

Lạm phát có xu hướng hạ nhiệt trong những tháng gần đây. Nhưng điều này không có nghĩa là giá cả đang giảm đi, mà chỉ là tăng chậm lại. Bóng ma lạm phát vẫn đe dọa quay trở lại khi năm 2012 đang đón chờ với nhiều thách thức từ bất ổn vĩ mô trong và ngoài nước, từ lòng tin vào nội tệ còn mong manh, và từ công cuộc tái cấu trúc nền kinh tế chưa hoặc mới chỉ được bắt đầu. Bởi vậy, hiểu rõ nguyên nhân gây ra lạm phát để có đối sách hữu hiệu là một yêu cầu cấp thiết.

Như trong Nghị quyết 11 của Chính phủ ban hành cuối tháng 2 năm nay, chính sách tiền tệ được xác định rõ là một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua. Tuy nhiên, chúng ta sẽ thấy thêm rằng chính sách tiền tệ mở rộng quá mức (với tốc độ tăng trưởng tín dụng cho toàn bộ nền kinh tế lên tới trên 30% năm trước) là nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát cao ở Việt Nam, chứ không chỉ chung chung là một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát như vẫn thường được nêu ra, ví dụ như chính sách tài khóa nới lỏng do đầu tư công lớn và không hiệu quả.

Tất nhiên, một số yếu tố khác cũng có thể góp mặt trong việc gây ra lạm phát, nhưng chúng thường không phải là nguyên nhân chính thống hoặc quan trọng. Ví dụ về những yếu tố này gồm có: tín dụng đã đổ nhiều một cách bất cân đối vào khu vực phi sản xuất (gồm chủ yếu bất động sản và chứng khoán); chi phí đầu vào tăng do giá xăng dầu, điện, than tăng; hệ thống phân phối bất cập; thiên tai, dịch bệnh; hay do “sự trượt giá của VND” (ví dụ, so với USD) làm tăng chi phí nhập khẩu v.v... (Lưu ý, ở đây ta không xét đến lý do mà vẫn được không ít người nêu ra là áp lực lên lạm phát tăng vì... lãi suất tăng. Đơn giản vì quan hệ nhân quả là theo chiều ngược lại). Nói cách khác, có thể nói hầu như yếu tố tiền tệ có mặt đằng sau mọi yếu tố dẫn đến lạm phát, như nói dưới đây.

Về yếu tố đầu tư công, cần thừa nhận rằng đầu tư công luôn ở mức rất cao, lên tới trên 40% GDP trong mấy năm gần đây, và rằng đầu tư công thường không hiệu quả, gây ra lãng phí lớn, thất thoát nhiều. Nhưng đầu tư công không phải là nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp gây ra lạm phát. Đầu tư công sẽ không gây ra áp lực lạm phát lớn nếu chính sách tiền tệ không mở rộng tương ứng để đáp ứng tối đa nhu cầu tín dụng của đầu tư công.

Giả sử như chính sách tiền tệ được nới rộng ở mức thận trọng (ví dụ, với tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế dưới 10%/năm, thay vì lên đến trên 30%, thậm chí trên 40%/năm) trong thời gian qua. Giả sử thêm rằng Ngân hàng Nhà nước có và duy trì được tính độc lập với Chính phủ (được phép, ví dụ, nói “không” với yêu cầu bơm tiền vào hệ thống ngân hàng thương mại để cho Chính phủ vay, hoặc trực tiếp mua trái phiếu của Chính phủ), còn Chính phủ trung ương và địa phương không được phép can thiệp vào quyết định cho vay của hệ thống ngân hàng thương mại (như vẫn thấy hiện nay trên thực tế). Trong hoàn cảnh đó, Chính phủ và khối doanh nghiệp nhà nước (DNNN) cũng sẽ phải cạnh tranh sòng phẳng, bình đẳng với khu vực kinh tế tư nhân và FDI trong thu hút vốn đầu tư, thông qua thị trường chứng khoán/giấy tờ có giá hoặc qua kênh tín dụng từ ngân hàng thương mại, theo lãi suất vay thương mại.
Ngay cả khi ta giả thiết rằng Chính phủ và khối DNNN vì một lợi thế ngầm định hoặc công khai nào đó đã lấn lướt được khu vực tư nhân và FDI để thu hút hầu hết vốn tín dụng ngân hàng tăng thêm hàng năm (giả thiết là dưới 10%/năm), áp lực lạm phát cũng không vì thế mà tăng lên dữ dội, vì tổng tín dụng cho nền kinh tế chỉ tăng dưới 10%/năm, như so với trường hợp chính sách tiền tệ nới lỏng với tốc độ tăng trưởng tín dụng lên đến trên 30%/năm trên thực tế vừa qua.

Phân tích sâu hơn nữa, khi tín dụng đã bị hút vào DNNN và đầu tư công thì sẽ làm tổng cầu của khu vực này tăng lên. Nhưng đồng thời, theo logic, đầu tư vào khu vực kinh tế tư nhân và FDI phải giảm đi tương ứng vì tổng lượng tín dụng cung cấp ra cho nền kinh tế chỉ có từng đó. Đến lượt nó, điều này lại làm giảm tổng cầu từ khu vực này. Như vậy, về tổng thể, áp lực lạm phát tăng lên do tổng cầu tăng ở khu vực DNNN và đầu tư công tăng sẽ bị trung hòa bởi tổng cầu giảm đi ở các bộ phận còn lại của nền kinh tế. Tất nhiên, tình hình sẽ khác đi hoàn toàn nếu NHNN vì một lý do nào đó tìm cách thỏa mãn nhu cầu tín dụng của tất cả các bộ phận và khu vực kinh tế, làm cho tổng cầu của toàn nền kinh tế tăng vọt, như đã thấy với mức tăng tín dụng lên tới trên 30%-40%/năm như đã thấy.

Có người sẽ lập luận rằng do đầu tư công và DNNN không hiệu quả bằng đầu tư từ khu vực tư nhân nên cùng một lượng vốn đầu tư sẽ cho hiệu quả thấp hơn và vì thế áp lực tạo lạm phát sẽ lớn hơn. Tuy điều này có thể đúng, nhưng như đã nói, với lượng tín dụng có hạn bơm ra bởi NHNN (giả thiết nhỏ hơn 10%/năm), áp lực tổng thể lên lạm phát không thay đổi đáng kể, vì tổng cầu cũng sẽ chỉ thay đổi ở mức hạn chế. Đương nhiên là nếu ta cải thiện được hiệu quả của đầu tư công và DNNN thì áp lực tạo lạm phát còn giảm đi nữa, nhưng đây là câu chuyện của dài hạn, chứ không phải là giải pháp kiềm chế lạm phát trong ngắn và trung hạn. Ngoài ra, nâng cao hiệu quả đầu tư công/DNNN sẽ còn tốn công sức hơn là việc thắt chặt kỷ luật tài khóa và buộc Chính phủ không được vay mượn trực tiếp từ NHNN hoặc thông qua hệ thống ngân hàng thương mại (và bằng các mệnh lệnh hành chính).

Như vậy, có thể kết luận rằng đầu tư công/DNNN chỉ được mở rộng quá mức như ở Việt Nam vừa qua (và làm tăng thêm áp lực lạm phát) khi và chỉ khi chính sách tiền tệ cũng được/cũng bị nới lỏng quá mức nhằm cung cấp tín dụng (một cách dễ dãi) cho nhu cầu đầu tư của DNNN và Chính phủ. Nói cách khác, chính sách tiền tệ nới lỏng quá mức vẫn là nguyên nhân chủ yếu và gốc rễ của lạm phát cao ở Việt Nam.

Điều tương tự cũng có thể được áp dụng cho câu chuyện tín dụng chảy vào bất động sản và chứng khoán, vốn vẫn được nhiều người nhìn nhận như một nguyên nhân gây ra lạm phát vì đây là lĩnh vực “phi sản xuất”. Cũng với những giả định và lập luận như trên, nếu có tăng tín dụng cho 2 khu vực này thì áp lực lạm phát cũng sẽ không tăng lên mạnh, vì tổng lượng tín dụng cho nền kinh tế cũng chỉ có vậy, và áp lực tăng lạm phát từ khu vực bất động sản và chứng khoán sẽ bị trung hòa do tổng cầu từ bộ phận còn lại của nền kinh tế cũng sẽ phải giảm đi tương ứng. Hơn nữa, cơn sốt chứng khoán và bất động sản chỉ thường gắn liền với trạng thái tăng trưởng nóng của nền kinh tế, khi tín dụng ngân hàng tăng mạnh. Trong hoàn cảnh tổng tín dụng cho nền kinh tế tăng có chừng mực thì nó sẽ không kích thích tín dụng đổ vào bất động sản và chứng khoán.

Đối với những nguyên nhân (không chính thống) khác gây ra lạm phát như nói ở trên, có thể dễ dàng chứng minh rằng chúng hoặc không phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra lạm phát, hoặc không phải là nguyên nhân quan trọng.

Về lý do cho rằng giá xăng dầu nhập khẩu tăng nên làm đội chi phí sản xuất kinh doanh trong nước và do đó làm tăng lạm phát, điều này có thể là có thật, nhưng không phải là lý do quan trọng, vì đơn giản là ngay những nước lân bang phụ thuộc nặng nề vào xăng dầu nhập khẩu mà lạm phát của họ còn ở một khoảng cách rất xa của ta.

Điều tương tự là thiên tai, dịch bệnh làm giảm cung một số mặt hàng nào đó. Có thể đúng như vậy, nhưng nhìn ra xa hơn những nước mới đây phải gánh chịu những thảm họa thiên tai còn lớn hơn những gì đã xảy ra ở Việt Nam nhiều lần mà chắc chắn rằng lạm phát của họ không tăng đột biến ở mức như của Việt Nam. Một trong những lý do logic đằng sau chuyện này là cung một số mặt hàng giảm nhưng đồng thời cầu của một số mặt hàng (khác) cũng giảm, thậm chí còn lớn hơn. Ví dụ, thảm họa kép sóng thần và động đất ở Đông Bắc Nhật Bản vừa rồi tuy hủy hoại một phần quan trọng sức sản xuất công nghiệp và nông nghiệp của Nhật, nhưng cũng đồng thời làm tụt giảm nhu cầu một số hàng hóa, ví dụ như than, thép, quặng, điện năng, sản phẩm công nghiệp chế tạo v.v... đơn giản vì đã mất đi phần cầu từ các cơ sở sản xuất công nông nghiệp bị phá hủy, và hơn thế nữa, thông qua tác động dây chuyền làm ảnh hưởng đáng kể đến tổng cầu của Nhật.

Về lý do lạm phát là do tăng giá điện, than, nước v.v..., đây là những hàng hóa sản xuất trong nước nên dễ thấy chúng thường được điều chỉnh tăng khi có lạm phát và ở mức cao, không thể không điều chỉnh được khi giá các yếu tố sản xuất đầu vào cũng tăng. Mà như thế, xét cho cùng, quan hệ nhân quả vẫn là từ chính sách tiền tệ nới lỏng gây ra lạm phát rồi từ đó mới làm giá điện, than, nước tăng theo vì chi phí sản xuất cũng đã/phải tăng theo.

Về lý do do hệ thống phân phối yếu kém, làm chi phí trung gian giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng cuối cùng, điều này có thể tồn tại trên thực tế, nhưng câu hỏi được đặt ra ở đây là tại sao vẫn cùng một hệ thống phân phối yếu kém thậm chí còn hơn bây giờ mà lạm phát những năm trước đây không cao đến như vậy? Nếu suy nghĩ một cách cực đoan hơn, xin hỏi những tác giả của luồng ý kiến này rằng liệu có hệ thống phân phối nào “tinh vi” và phức tạp hơn hệ thống phân phối thời bao cấp ở Việt Nam không? Vậy mà lạm phát vẫn nổ ra, và thậm chí còn ghê gớm hơn rất nhiều thời bây giờ!

Về lý do “trượt giá của VND” so với ngoại tệ, làm tăng chi phí nhập khẩu các nguyên vật liệu, từ đó làm tăng giá thành sản xuất và do đó, giá bán, thì xét cho cùng, đây cũng là do nguyên nhân của chính sách tiền tệ nới lỏng (quá mức). Nếu NHNN thi hành một chính sách tiền tệ thận trọng, chặt chẽ, với cung tiền tăng ở mức thấp, hoặc không tăng, thì cái sự “trượt giá VND” đã không xảy ra, thậm chí là ngược lại, với VND lên giá so với ngoại tệ, khi mà luồng vốn ngoại tệ vẫn tiếp tục đổ vào Việt Nam, gây áp lực tăng giá VND trong bối cảnh NHNN không tăng cung VND lên (một cách tương ứng).

Nói tóm lại, chính sách tiền tệ nới lỏng quá mức vẫn là gốc rễ chính của căn bệnh lạm phát ở Việt Nam. Những yếu tố khác, nếu có, chỉ là góp mặt thêm vào đó, chứ không phải là nhân tố quyết định. Một khi đã xác định được như vậy rồi thì phương thuốc trị căn bệnh lạm phát rất rõ ràng: thắt chặt chính sách tiền tệ (và hậu quả đương nhiên là lãi suất phải tăng lên), đi kèm với đó, nếu có thể, là sự tạo lập và duy trì tính độc lập của NHNN với Chính phủ trong chính sách tiền tệ của mình, thắt chặt kỷ luật tài khóa, và, trong dài hạn hơn, là nâng cao hiệu quả đầu tư công/DNNN. Ngược lại, nếu nới lỏng chính sách tiền tệ quá sớm khi vẫn còn nhiều bất trắc vĩ mô thì bóng ma lạm phát chắc chắn sẽ nhanh chóng quay trở lại.

Sunday 18 December 2011

Đồng chí Thủ tướng kính yêu đã ủng hộ tớ (một phần) đấy nhé!

2 bài viết trước của tớ về chủ đề lạm phát và lãi suất đã bị rất nhiều đồng chí nhân dân (hay quan chức nữa, tớ cũng chả biết) phang cho tơi tả (mời các đồng chí xem phần comment trên VEF và đâu đó, như của Vietstock forum). Chủ yếu vẫn là phang cái quan điểm của tớ rằng lạm phát cao và kỳ vọng lạm phát vẫn còn đó thì đừng có dại dột, mạo hiểm mà đi hạ lãi suất huy động và/hoặc nới lỏng cung tiền. Các đồng chí này cho rằng lạm phát là do nhiều yếu tố khác tạo ra, chứ không phải là do chủ yếu bởi chính sách tiền tệ nới lỏng như tớ chỉ ra. Vì thế, không nên chỉ tập trung vào chính sách tiền tệ, và nếu tiếp tục duy trì lãi suất cao thì chỉ có làm cho doanh nghiệp phá sản và, do đó, nào là lạm phát sẽ tăng lên (vì cung giảm đi), nào là an sinh xã hội giảm v.v...
Hôm nay tớ mới đọc được cái tin về Hội nghị triển khai nhiệm vụ ngành ngân hàng năm 2012 được đồng chí Thủ tướng kính yêu và lỗi lạc của chúng ta tham dự và chỉ đạo (http://www.tuoitre.vn/Giam-lai-suat-cho-vay-tu-dau-nam-2012/7562764.epi).
Theo báo chí đưa tin, đồng chí Thủ tướng đã rất sáng suốt (giống hệt tớ!) khi nhận định: “Xét cho cùng lạm phát là do tiền". (Đồng chí nào nghi ngờ rằng tớ không sáng suốt đến độ nói huỵch toẹt rằng lạm phát CHỦ YẾU là do NHNN đã tăng cung tiền quá mức thì đợi xem nhé. Đầu tuần trước tớ đã viết hẳn một bài riêng về cái kết luận này và gửi cho VEF, nhưng rất tiếc là họ không đăng với lý do lãng xẹt rằng thì là mà. Tớ đã gửi đi nơi khác, nhưng nếu ở đó họ cũng không đăng nốt thì tớ sẽ post lên blog này vậy). Các đồng chí lưu ý thêm là đồng chí Thủ tướng đã không một lời đề cập đến các yếu tố khác vẫn thường được cho là những nguyên nhân gây ra lạm phát.
Đồng chí Thủ tướng kính yêu cũng đã nhấn mạnh rằng: “Chính sách tiền tệ phải phục vụ mục tiêu kiềm chế lạm phát. Do vậy, Thủ tướng gợi ý tổng dư nợ tín dụng năm 2012 chỉ nên tăng khoảng 15%, thay cho mức 15-17% mà Ngân hàng Nhà nước đề xuất”. Với cái gợi ý này, đồng chí Thủ tướng đã sáng suốt cụ thể hóa quan niệm của mình rằng “lạm phát là do tiền”.
Tớ cũng thở đánh phào một phát khi đồng chí Thủ tướng cho rằng không có lý do gì không hạ được lãi suất cho vay xuống khi liên tục trong sáu tháng qua, chỉ số giá tiêu dùng tăng không quá 1%. Nói tớ thở phào vì đồng chí Thủ tướng đã rất sáng suốt không ra lệnh cho NHNN tìm cách hạ lãi suất huy động, mà chỉ hạ lãi suất cho vay. Ấy thế mà chẳng hiểu làm sao dư luận và cả giới chuyên gia vẫn cứ nhăm nhăm cái chủ trương hạ lãi suất huy động, rõ là “trứng khôn hơn vịt”!
Tuy nhiên, cần phải nói đây cũng là lý do tớ chỉ nói đồng chí Thủ tướng ủng hộ tới một phần, vì tớ còn muốn NHNN không can thiệp vào lãi suất cho vay mà hãy để thị trường, ngân hàng thương mại làm cái việc tính đúng lãi suất cho vay từng đối tượng. Nếu tớ là 1 ngân hàng thương mại nào đó thì làm sao mà tớ cho vay một người/pháp nhân nào đó đầy rủi ro (tuy có tài sản thế chấp nhưng giá trị tài sản đó rất biến động. Đôi khi chẳng có tài sản thế chấp mà chỉ là tín chấp, hoặc do một ai đó chỉ đạo từ xa, buộc phải cho vay) với lãi suất chỉ cao hơn một chút lãi suất tính cho các đối tượng khác an toàn hơn, dưới cái “gông” trần lãi suất cho vay được?
Tớ chắc cũng sẽ còn sướng hơn nữa nếu đồng chí Thủ tướng sáng suốt chỉ đạo NHNN hạ thấp thêm nữa mục tiêu tăng tổng dư nợ tín dụng và cung tiền như đã chỉ đạo (15% tăng trưởng tổng dư nợ tín dụng), trừ khi đó chỉ là mục tiêu chứ không phải là sự cho phép hay bắt buộc NHNN thực hiện đúng bằng mọi giá, trong mọi hoàn cảnh (một thực tế đã thấy trong năm nay khi người ta thấy tăng trưởng tín dụng chỉ mới 12% so với mức mục tiêu 20% đặt ra đầu năm nên đòi NHNN nới lỏng tín dụng hơn nữa).
Tóm lại, từ nay tớ thề sẽ không được một phút lung lạc trước sức ép các đồng chí trong dư luận phang tớ, vì tớ chắc rằng đâu đó, đồng chí Thủ tướng anh minh vẫn theo dõi và đại để là ủng hộ tớ!

Sunday 11 December 2011

Hạ lãi suất: Đừng mạo hiểm đánh đổi (Bài đăng trên VEF, tiếp nối bài hôm trước vốn bị “ném đá” khá nhiều)

http://www.vef.vn/2011-12-11-ha-lai-suat-dung-mao-hiem-danh-doi

(VEF.VN) - Điều quan trọng là phải nhận thức được và hành động đúng để kiềm chế được lạm phát, bằng chính sách lãi suất cao. Không nên vì sự hy sinh trong ngắn hạn để kêu gọi làm ngược lại, hạ lãi suất khi lạm phát đang ở mức cao.


Bài này được viết ra như một lời phúc đáp, tuy không phải là tổng quát và đầy đủ, cho luồng ý kiến kêu gọi Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hạ lãi suất cho vay (thông qua nới lỏng chính sách tiền tệ) để "cứu" các doanh nghiệp và các ngành như bất động sản, ngân hàng và chứng khoán. Thường có hai lý do chính được đưa ra để biện minh cho lời kêu gọi này là:

1. Thứ nhất, với lãi suất cao như hiện nay sẽ là thảm họa cho nền kinh tế, làm mất sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam, làm các doanh nghiệp phá sản vì không doanh nghiệp nào làm ra lãi với tỷ suất lợi nhuận bằng hoặc lớn hơn lãi suất đi vay, ví dụ, lên tới trên 18%/năm. Và tiếp theo là thảm họa đến với các ngân hàng. Doanh nghiệp phá sản thì sẽ làm giảm tăng trưởng, gia tăng thất nghiệp, gia tăng tội phạm..v.v...

2. Thứ hai, để hạ lãi suất cho vay thì phải hạ lãi suất huy động. Nếu hạ lãi suất huy động (ví dụ, bằng công cụ trần lãi suất huy động như hiện tại đang áp dụng) thì cũng không sợ bị người dân rút tiền gửi ra khỏi ngân hàng vì người dân cũng chẳng còn lựa chọn khả dĩ nào khác (Ví dụ, đầu tư vào vàng, bất động sản, ngoại tệ thì cũng không có lãi vì giá đã ở mức cao). Ngụ ý tức là cứ mạnh dạn mà hạ lãi suất huy động đi, không cần phải bận tâm chuyện thiếu hụt thanh khoản trong hệ thống ngân hàng hay áp lực lạm phát gia tăng vì tiền không còn chui vào hệ thống ngân hàng nữa.

Tuy nhiên, điều này cần phải được phản biện bằng các tính toán cẩn thận, bằng các thực tế đã chứng thực không nên chủ quan. Phần tiếp theo đây sẽ đưa ra một số lập luận để phản biện lại luồng ý kiến này.

Lãi suất cao nhưng kinh tế vẫn tăng trưởng khả quan

Chúng ta bắt đầu bằng việc nêu ra một con số rất phổ thông. Đó là tốc độ tăng trưởng GDP trong năm nay, được dự đoán ở mức xung quanh 6%. Con số này có ý nghĩa thế nào trong bối cảnh lãi suất cho vay thực tế đứng ở mức rất cao như cả năm vừa qua (cứ cho là ở mức trung bình 18%/năm)?

Theo luồng ý kiến kêu gọi hạ lãi suất nêu trên, thì lẽ ra với mức lãi suất "chết chóc" như thế thì nền kinh tế phải "đình trệ" (là từ khá được ưa dùng mới cách đây vài tháng). Nhưng với tốc độ tăng trưởng GDP lên tới mức 6% thì kết luận này, nói cho đơn giản, là sai hoàn toàn. Tốc độ này cũng chỉ thấp hơn 1 hoặc 2 điểm phần trăm so với những thời kỳ "cực thịnh" của nền kinh tế Việt Nam khi nó tăng trưởng với tốc độ trung bình trên 7% trong nhiều năm với lãi suất thường không bao giờ quá 2 chữ số. Cũng cần lưu ý thêm rằng tốc độ tăng trưởng trong thời vàng son như đã qua là rất gần với tốc độ "chụp giật" nếu xét đến cách thức và nguồn lực tăng trưởng, và nền kinh tế kiểu đó sớm hay muộn cũng bị "gãy cánh", không thể kéo dài hàng thập kỷ, từ thập kỷ này qua thập kỷ khác.

Lãi suất cao không dẫn đến đổ vỡ trong nền kinh tế và DN phá sản hàng loạt

Ta cũng phải thừa nhận rằng quả là có một số doanh nghiệp gặp khó khăn, đóng cửa, ngừng hoạt động, hoặc phá sản (con số sơ bộ khoảng gần 50.000 doanh nghiệp phá sản trong năm nay). Nhưng ta cũng không được bỏ qua thực tế rằng còn lớn hơn thế là con số doanh nghiệp mới được thành lập thêm, cũng trong năm nay (dù ít hơn mọi năm nhưng vẫn có hơn 70.000 doanh nghiệp mới ra đời).

Điều này tự thân nó nói lên rằng lãi suất cao không nhất thiết gây ra đổ vỡ. Lãi suất cao chỉ gây ra đổ vỡ trong nền kinh tế và buộc hàng loạt doanh nghiệp phải phá sản khi và chỉ khi doanh nghiệp không được tăng/tăng được giá bán sản phẩm và dịch vụ của mình. Điều này dễ thấy là không hề xảy ra trên thực tế, và vì thế mới có lạm phát và lạm phát mới có xu hướng tăng! Ngay đến cả hàng bình ổn giá mà người ta cũng còn đòi được tăng giá và đã được cho phép tăng giá trên thực tế cơ mà?

Lãi suất cao không có nghĩa là DN không làm ra lợi nhuận đủ trả lãi vay

Như trên đã nói, ta rất hay thấy kiểu lập luận rằng với lãi suất cho vay đến. Ví dụ 18%/năm trong khi lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp không quá 18% nên càng sản xuất càng lỗ, dẫn đến doanh nghiệp phải đóng cửa hàng loạt, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Không khó để thấy cái sai trong lập luận này. Đại đa số doanh nghiệp hoạt động dựa trên đòn bẩy tài chính. Họ chỉ có một đồng vốn nhưng đi vay ngân hàng hoặc phát hành chứng khoán, cổ phiếu để huy động thêm một hoặc nhiều hơn một đồng vốn khác. Trong khi đó, mức lợi nhuận mà người ta thường hay nhắc đến có thể chỉ là tỷ suất lợi nhuận ròng tính trên tổng doanh thu, chứ không phải là tỷ suất lợi nhuận ròng tính trên vốn chủ sở hữu/vốn tự có của chủ doanh nghiệp. Vì vậy, thậm chí mức lợi nhuận ròng 10% tính trên tổng doanh thu (chứ chưa nói đến mức 18%) cần phải hiểu là một mức lợi nhuận rất khả quan rồi. Ngay cả với nhiều ngân hàng ở Việt Nam được cho là có lãi "khủng" thì tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu cũng chỉ mong được ở mức 18% này thì đã được coi là thành công rồi.

Tóm lại, cho dù lãi suất đi vay có là trên 18% chăng nữa thì cũng không hề đồng nghĩa với việc doanh nghiệp không có lãi hoặc lãi không đủ đề bù đắp tiền trả lãi vay. Nói cách khác, doanh nghiệp vẫn hoàn toàn có thể sống khỏe với lãi suất trên 18% hoặc hơn nữa.

Tất nhiên, những doanh nghiệp nào có tỷ lệ đòn bẩy tài chính càng cao thì càng dễ phải đối mặt với rủi ro phá sản cao hơn vì không trả được nợ khi đến hạn. Nhưng điều này là thuộc về phương châm kinh doanh và lề lối quản trị của doanh nghiệp, và sự phá sản, nếu có, của những doanh nghiệp này âu cũng là một cuộc sàng lọc tự nhiên để còn lại những doanh nghiệp lành mạnh, sống khỏe bằng thực lực của mình.

Lãi suất cao không nhất thiết làm giảm an sinh xã hội

Cũng cần phải nói thêm, những người ủng hộ hạ lãi suất và nới lỏng tiền tệ cũng hay dùng lý lẽ "đảm bảo an sinh xã hội", với lập luận rằng khi lãi suất tăng cao sẽ làm giảm tăng trưởng. Kết quả là làm gia tăng thất nghiệp, giảm tốc độ tăng tiền lương (gắn liền với tăng trưởng kinh tế) trong bối cảnh giá cả tăng cao, tức là làm giảm an sinh xã hội.

Thực tế không phải luôn như vậy. Với chính sách để cho lãi suất lên cao, lạm phát sẽ giảm dần vì tổng cầu bị thu hẹp, đến lượt nó lại có tác dụng kéo lãi suất đi xuống vì cầu tín dụng giảm đi (với giả sử NHNN giữ nguyên cung tiền). Quá trình này là tự diễn tiến với kết cục là cả lạm phát và lãi suất trở về mức "bình thường" và tăng trưởng nhờ đó được phục hồi cùng với cầu được phục hồi. Thời gian phục hồi/quay trở về mức bình thường của lạm phát, lãi suất, tổng cầu và tăng trưởng sẽ phụ thuộc phần lớn vào mức độ quyết liệt của NHNN trong việc nâng và duy trì lãi suất cao và sự phục hồi lòng tin của giới đầu tư vào triển vọng nền kinh tế nói chung và tính minh bạch của Chính phủ và NHNN nói riêng.

Nếu suôn sẻ, thất nghiệp do lãi suất tăng cao nếu có thì chỉ là trong ngắn hạn để rồi sẽ biến mất khi tăng trưởng phục hồi (mà thực ra cho đến giờ đã có thống kê đáng tin cậy nào cho thấy nạn thất nghiệp đang gia tăng đáng kể đâu, cho dù tăng trưởng có giảm đi một chút. Và người ta cũng thường "quên" không nói đến số việc làm mới được tạo ra, mà chỉ chăm chăm vào số việc làm mất đi). Tiền lương thực tế nếu có bị bào mòn dưới thời lạm phát cao sẽ không còn bị bào mòn nữa khi lạm phát chững lại nhờ chính sách lãi suất cao. Và tiền lương thực tế cũng sẽ tiếp tục cải thiện khi tăng trưởng phục hồi trở lại với lạm phát thấp.

Như vậy, với chính sách lãi suất cao, an sinh xã hội nếu có bị ảnh hưởng thì rất có thể chỉ là trong ngắn hạn cho đến khi nền kinh tế quay trở lại quỹ đạo phát triển lành mạnh trong dài hạn của nó.

Lãi suất cao không nhất thiết làm gia tăng áp lực lạm phát

Tiếp theo, xin bàn đến lập luận của rất nhiều người cho rằng lãi suất cao sẽ làm tăng áp lực lạm phát vì lãi suất cao sẽ làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh, và tức là làm tăng giá bán hàng hóa dịch vụ.

Nhưng như vậy người ta mới chỉ nhìn ở góc độ cung mà quên mất phía cầu. Khi giá hàng hóa dịch vụ tăng lên mà tiền lương chưa kịp tăng tương ứng (tiền lương thường được điều chỉnh với độ trễ so với lạm phát) thì tổng cầu có xu hướng giảm do thu nhập khả dụng thực tế của dân cư giảm đi. Minh họa hiển nhiên là người lao động ngày càng phải "thắt lưng buộc bụng" trong cơn bão giá. Mà tổng cầu giảm đi sẽ đem lại hiệu ứng giảm lạm phát như nói ở trên. Tổng cầu còn giảm bởi lãi suất tăng cao làm mọi chủ thể kinh tế khác phải đắn đo khi đi vay với lãi suất cao để chi tiêu, đầu tư.

Ngược lại, hạ lãi suất quá sớm không nhất thiết mang lại lợi ích cho nền kinh tế

Nếu máy móc hoặc cố tình hạ lãi suất khi lạm phát đang ở mức cao thì có nghĩa là chúng ta và NHNN đã tự mình tước đi một công cụ chính trong công cuộc chống lạm phát, và, nguy hại hơn, sẽ càng làm tăng áp lực lạm phát theo cơ chế tự diễn tiến (lãi suất giảm, tiền thoát khỏi hệ thống ngân hàng càng nhiều hơn, vòng quay lưu thông tiền càng lớn hơn, áp lực gia tăng giá cả/lạm phát càng nhiều lên, NHNN càng phải in thêm tiền để thỏa mãn nhu cầu thanh khoản của hệ thống ngân hàng, nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp nói chung và khu vực kinh tế nhà nước nói riêng...).

Liên quan đến ý trên, nhiều người cho rằng nếu có hạ lãi suất huy động (nhằm làm cơ sở để giảm lãi suất cho vay) thì cũng không sợ bị dân rút tiền gửi ra khỏi hệ thống ngân hàng, vì họ cũng chẳng biết đầu tư vào đâu, khi thị trường vàng, ngoại tệ và bất động sản đều khó khăn, rủi ro.

Đây là một kết luận rất chủ quan. Các thị trường trên có khó khăn, rủi ro thì cũng không đồng nghĩa với không có cơ hội sinh lời, hoặc ít nhất là bảo toàn giá trị tài sản (so với gửi tiền vào ngân hàng với lãi suất thấp, thậm chí còn thấp hơn cả mức lạm phát). Lập luận đại loại như giá vàng đã lên đỉnh rồi thì người dân cũng chẳng mua vào làm gì nữa cũng là kiểu lập luận rất phi kinh tế, vì đã không ít người trên quả đất này sai lầm về đỉnh của giá vàng trong suốt mấy thập kỷ qua. Chưa kể, giá vàng tính theo VND ở hầu hết mọi thời điểm còn tăng nhanh hơn cả lạm phát ở Việt Nam trong cùng kỳ nên giữ vàng vẫn có lợi hơn, đặc biệt khi lãi suất huy động bị bóp méo so với lạm phát.

Thêm nữa, khi lãi suất tiền gửi không hấp dẫn, người ta sẵn sàng mạo hiểm hơn để tìm những cơ hội sinh lời lớn hơn, và thị trường tín dụng "đen" là một ví dụ điển hình, nơi cung thật và cầu thật gặp nhau tại một cái giá thật. Nói chung, thực tiễn lâu dài sống chung với lạm phát ở Việt Nam đã cho thấy người dân khôn ngoan, thực dụng thế nào và công cụ lãi suất quan trọng thế nào trong việc chống lạm phát. Vì thế, xin đừng mạo hiểm đánh cuộc với sự khôn ngoan, thực dụng của người dân trước nhu cầu chính đáng bảo toàn giá trị tài sản của họ.

Từ những con số biết nói và những phân tích ở trên, có thể kết luận rằng, tuy đúng là có một số doanh nghiệp gặp khó khăn, nhưng đó không phải là hiện tượng phổ quát cho cả nền kinh tế. Vậy, cũng không phải là quá vội vã khi kết luận rằng lãi suất cao đã không dẫn đến sự sụp đổ của nền kinh tế như người ta hoặc là đe dọa, hoặc là e sợ. Vì thế, xin đừng lấy đó (lãi suất cao làm doanh nghiệp phá sản) làm cái cớ để vận động chính sách đi ngược lại lợi ích chung của cả nền kinh tế. Còn những người điêu hành kinh tế cũng không được nao núng với những cái cớ như vậy để ra những chính sách làm phương hại cả nền kinh tế.

Trên hết, điều quan trọng là phải nhận thức được và hành động đúng để kiềm chế được lạm phát, bằng chính sách lãi suất cao. Không nên vì sự hy sinh trong ngắn hạn (chưa được chứng thực) để kêu gọi làm ngược lại, hạ lãi suất khi lạm phát đang ở mức cao.

Friday 9 December 2011

Cần cẩn trọng xem xét kỳ vọng lạm phát (bài đăng trên Đại biểu Nhân dân)

http://www.daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=232220

07:34 | 10/12/2011

Lạm phát trong mấy tháng nay đã giảm tốc, với tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) hàng tháng ở mức dưới 1%/tháng so với cùng kỳ năm trước, đặc biệt là 2 tháng gần đây (nhỏ hơn 0,4%/tháng). Có lẽ, dựa trên sự giảm tốc này mà Chính phủ và nhiều chuyên gia đã đặt ra mục tiêu lạm phát dưới 2 chữ số trong năm sau, và Chính phủ cũng đồng thời tỏ ra hết sức tự tin với mục tiêu này.

Điều đáng nói là mục tiêu này lại được đem ra làm cơ sở để điều chỉnh (chính xác là nới lỏng) chính sách tiền tệ, với kế hoạch tăng trưởng tín dụng do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố ở mức 15% - 17% trong năm 2012, cao hơn mức mục tiêu 12% năm 2011. Song song với đó, trần lãi suất huy động cũng đang được xem xét giảm từ mức 14%/năm như hiện tại xuống còn 12%, (như dư luận đang đồn đoán).

Như vậy, có thể thấy đang có sự nhầm lẫn giữa nguyên nhân và kết quả.

Lạm phát ở Việt Nam có phần lớn là nguyên nhân tiền tệ, mà trực tiếp là do chính sách tiền tệ nới lỏng gây ra. Lạm phát già nửa đầu năm nay rất cao là vì mức tăng trưởng tín dụng quá lớn, trên 30%, trong năm 2010 gây ra. Lý do lạm phát được kiềm chế “chỉ” ở mức 18% như năm nay là một phần lớn sự thức tỉnh kịp thời của Chính phủ đã hạn chế tăng trưởng tín dụng (tuy vẫn còn tăng trên 10% tính đến tháng 11).

Có điều, dường như giới hữu trách và nhiều chuyên gia đang có quan niệm ngược lại rằng chính sách tiền tệ phải bám sát mục tiêu và diễn biến của lạm phát. Dường như vẫn còn thống trị quan điểm rằng lạm phát là yếu tố khách quan, do những nguyên nhân từ bên ngoài, nào là giá thế giới tăng, nào là thiên tai bão lụt v.v... Song hành với nó vẫn là quan điểm phải đảm bảo tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá, đặc biệt là từ đóng góp của tăng trưởng tín dụng, ngoài mục đích đảm bảo an sinh, còn để tăng cung, giảm áp lực lạm phát.

Dễ hiểu, từ trên quan điểm sai lầm này, kế hoạch tăng trưởng tín dụng ở mức cao hơn và động thái hạ trần lãi suất huy động đã được chính thức công bố.

Điều nguy hiểm đi kèm với quan điểm sai lầm này là sự tăng mạnh kỳ vọng lạm phát. Kỳ vọng lạm phát là yếu tố hun nóng thêm câu chuyện lạm phát và đồng thời cũng làm câu chuyện lạm phát chậm giảm nhiệt. Trong hoàn cảnh đầy bất trắc của kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước, cộng thêm chính sách vĩ mô sai lầm và cách điều hành thiếu nhất quán của các cơ quan chức năng, cũng như mức lạm phát hiện tại vẫn ở mức cao (mặc dù người ta đang cố làm mờ nó đi bằng nhiều thủ thuật, trong đó có việc nhấn mạnh vào tốc độ tăng chậm lại của lạm phát theo tháng), dư luận vẫn kỳ vọng rằng lạm phát sẽ còn đó, áp lực gây ra lạm phát vẫn chưa giảm đi nhiều, kéo sang cả năm 2012 khi chính sách tiền tệ - cái van điều chỉnh lạm phát – vẫn được mở rộng.

Tất nhiên, Chính phủ đã và đang có nhiều động thái để cố gắng dẹp bỏ kỳ vọng lạm phát này, nhưng chủ yếu là bằng các liệu pháp tinh thần, bằng sự thuyết phục, chứ không phải bằng những giải pháp kinh tế hữu hiệu. Những tuyên bố như phấn đấu (và hoàn toàn tự tin sẽ) kiềm chế lạm phát ở mức 1 con số, triển vọng ổn định tỷ giá là sáng sủa vì thu chi ngoại tệ về cơ bản là không biến động nhiều v.v... là điều thường được nghe thấy. Nhưng, lòng tin vào chính sách và khả năng điều hành chính sách của Chính phủ đã không ít lần bị tổn thương vì sự bất nhất cũng như sự bất lực, và còn vì sự thực rằng chúng ta không có, không còn nhiều nguồn lực, nhiều dư địa chính sách nữa.

Bởi vậy, hoàn toàn không có gì đảm bảo rằng nếu sang năm 2012, khi NHNN cứng nhắc bơm tiền ra nền kinh tế với mức theo kế hoạch, mục tiêu lạm phát dưới 10% sẽ thực hiện được.

Cộng thêm vào đó, hành động hạ trần lãi suất huy động quá sớm – thực chất là một cách san sẻ cưỡng bức gánh nặng thua lỗ, khó khăn của giới doanh nghiệp và ngân hàng lên vai người gửi tiền – trong khi kỳ vọng lạm phát vẫn còn đó, triển vọng về lạm phát vẫn còn rất mù mờ sẽ càng làm nạn chuyển đổi tài sản từ VND sang vàng, ngoại tệ, bất động sản hoặc các tài sản có giá khác. Điều này, đến lượt nó, lại làm tăng áp lực lạm phát gây ra bởi tăng vòng quay tiền, giảm thanh khoản trong hệ thống ngân hàng, tăng áp lực bơm thêm tiền từ NHNN. Bởi vậy, mục tiêu lạm phát dưới 10% càng trở nên mong manh hơn.

Gộp tất cả các vấn đề lại, có thể thấy chúng ta đang đi những nước cờ mang tính may rủi là chính chứ không phải xuất phát từ sự tính toán cẩn trọng trên cái nền kiến thức và hiểu biết đầy đủ, sâu sắc. Để cho khách quan, và cũng là thay cho kết luận, xin trích dẫn lời của Giám đốc điều hành Ngân hàng Thế giới phát biểu hôm 3.12 vừa qua rằng: “Lúc này vẫn còn quá sớm để Chính phủ Việt Nam đảm bảo sự tự tin với mục tiêu đưa lạm phát 2012 xuống một con số. Do đó, Chính phủ cần cẩn trọng xem xét kỳ vọng của mình có đạt được hay không”.

Thursday 8 December 2011

Quá sớm để hạ lãi suất huy động (bai dang tren VEF)

http://www.vef.vn/2011-12-07-qua-som-de-ha-lai-suat-huy-dong

(VEF.VN) - Khi áp lực lạm phát còn lớn và kỳ vọng lạm phát còn cao, việc hạ trần lãi suất huy động quá sớm sẽ làm trầm trọng thêm làn sóng rút tiền gửi ở ngân hàng đầu tư vào những tài sản bảo toàn giá trị. Mục tiêu lạm phát dưới 10%/năm càng trở nên mong manh.


Trước diễn biến lạm phát có dấu hiệu giảm nhiệt trong những tháng gần đây, Chính phủ đã có những chỉ đạo hạ lãi suất, mà việc đầu tiên là nhắm tới hạ trần lãi suất huy động dự kiến từ 14%/năm xuống còn 12%/năm, trên cơ sở dự báo rằng lạm phát năm 2012 chỉ ở dưới mức 10%/năm.

Trong bối cảnh nhiều bất trắc như hiện nay, dự báo về lạm phát dưới mức 10%/năm và kèm đó là động thái hạ lãi suất huy động xem ra là hơi lạc quan và quá sớm.

Để giải thích cho nhận định trên, trước tiên, ta xuất phát từ quan sát rằng dường như chúng ta vẫn chưa đạt được một đồng thuận về nguyên nhân gây ra lạm phát cao ở Việt Nam và cách thức chống lạm phát.

Mục đích chính của việc ban hành Nghị quyết 11 là kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô bằng chính sách tiền tệ thắt chặt - "tội đồ" chủ yếu gây ra lạm phát ở Việt Nam. Nhưng đến tận hôm nay, vẫn thấy những phát biểu của không ít người quy lạm phát bởi những nguyên nhân như hệ thống phân phối (mà lạ thế, trước đây cho đến tận giờ hệ thống phân phối vẫn thế mà lạm phát đâu có cao?). Thậm chí, lạm phát còn bởi thiếu hụt cung do chính sách tiền tệ thắt chặt, lãi suất tăng cao làm doanh nghiệp phá sản (chắc người ta quên mất rằng lãi suất tăng cao cũng sẽ làm giảm tổng cầu, và do đó, cán cân cung cầu không nhất thiết xấu đi, nếu không muốn nói ngược lại).

Đấy là chưa kể những nguyên nhân khách quan rất được ưa dùng bởi cơ quan quản lý giá cả như thiên tai, dịch bệnh, giá hàng hóa và xăng dầu quốc tế tăng (chắc người ta quên mất các nước nhập khẩu khác không có mức lạm phát cao như Việt Nam).

Nhiều người còn chỉ ra những lý do "vĩ mô" hơn như cơ cấu kinh tế không hợp lý với sự phụ thuộc nặng nề vào nguyên vật liệu nhập khẩu (chắc người ta quên trả lời câu hỏi, tại sao vẫn cùng một cơ cấu kinh tế như vậy mà trước đây lạm phát đã không cao như hiện nay?).

Tóm lại, thời gian càng trôi đi kể từ lúc ra Nghị quyết 11, nhận thức về gốc rễ của lạm phát là chính sách tiền tệ mở rộng càng phai nhạt, và những giải thích không chính thống lại càng trỗi dậy trở thành rất có ảnh hưởng lên hướng đi chính sách. Bằng chứng, ngày càng nghe thấy những lời kêu gọi Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cần nới lỏng chính sách tiền tệ để cứu cái này, cái kia, với lời đe dọa rằng nếu không thì sẽ xảy ra phá sản, đổ vỡ, khủng hoảng, tệ nạn xã hội..v..v... Và dường như, tiếng kêu này đã thấu đến tai những người có trách nhiệm, với chính sách tiền tệ đã có xu hướng nới lỏng quá sớm.

Nói chính sách tiền tệ bị nới lỏng quá sớm vì dự báo lạm phát dưới 10%/năm này (dựa trên diễn biến lạm phát giảm nhiệt gần đây) lại được đem ra làm cơ sở để xây dựng kế hoạch tăng trưởng tín dụng của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), dự kiến ở mức 15%-17% trong năm 2012, cao hơn mức mục tiêu 12% năm 2011 này. Song song với đó, trần lãi suất huy động cũng được dự kiến giảm từ mức 14%/năm xuống còn 12%.

Như vậy, có thể thấy sự chông chênh lớn/mâu thuẫn về hoạch định và điều hành chính sách. NHNN xây dựng chính sách tiền tệ (thực chất là nới lỏng, với kế hoạch tăng trưởng tín dụng lớn, ở mức 15%-17% năm 2012) dựa trên mục tiêu lạm phát dưới 10%, mà mục tiêu lạm phát đó lại chỉ có thể đạt được khi chính sách tiền tệ phải là thắt chặt về bản chất (đảm bảo để đưa lạm phát về dưới 10% - một ngưỡng vẫn còn rất lớn).

Góp phần thêm vào mâu thuẫn này là sự có mặt của kỳ vọng lạm phát. Kỳ vọng lạm phát là yếu tố hun nóng thêm câu chuyện lạm phát và đồng thời cũng làm câu chuyện lạm phát chậm giảm nhiệt. Kỳ vọng lạm phát vẫn còn nguyên đó trong bối cảnh bất trắc vĩ mô, sai lầm về hoạch định và điều hành bất nhất các chính sách vĩ mô, cũng như mức lạm phát hiện tại vẫn ở mức cao, đặc biệt khi chính sách tiền tệ - cái van điều chỉnh lạm phát - vẫn được mở rộng ngay thời điểm này kéo dài sang năm tới. Một bằng chứng là ngay với trần lãi suất 14%/năm, bất chấp các cam kết, dự báo của Chính phủ rằng lạm phát trong năm tới chỉ ở một con số, số dư tiền gửi trong hệ thống ngân hàng, theo một số báo cáo, đã giảm (mạnh).

Trong hoàn cảnh hiện tại với áp lực lạm phát còn lớn và kỳ vọng lạm phát còn cao, hành động hạ trần lãi suất huy động quá sớm - thực chất là một cách san sẻ cưỡng bức gánh nặng thua lỗ, khó khăn của giới doanh nghiệp và ngân hàng lên vai người gửi tiền - sẽ làm trầm trọng thêm làn sóng rút tiền gửi ở ngân hàng đầu tư vào những tài sản bảo toàn giá trị. Mục tiêu lạm phát dưới 10%/năm càng trở nên mong manh.

Tóm lại, hành động nới lỏng chính sách tiền tệ và hạ lãi suất huy động tại thời điểm này là chưa xuất phát từ những nhận thức đúng đắn và cân nhắc cẩn trọng. Không phải vô cớ mà Giám đốc điều hành Ngân hàng Thế giới phát biểu hôm 3/12 vừa rồi rằng: "Lúc này vẫn còn quá sớm để Chính phủ Việt Nam đảm bảo sự tự tin với mục tiêu đưa lạm phát 2012 xuống một con số. Do đó, Chính phủ cần cẩn trọng xem xét kỳ vọng của mình có đạt được hay không".

Tuesday 6 December 2011

Cổ phần hoá BIDV: Còn chần chừ gì? (Dang tren VEF)

http://www.vef.vn/2011-12-06-co-phan-hoa-bidv-co-gi-chan-chu-gi-

(VEF.VN) - Cho dù các đợt IPO theo kế hoạch của hàng loạt doanh nghiệp và ngân hàng lớn có trì hoãn thêm một thời gian nữa thì cũng chẳng ích lợi gì. Lý do, nguồn vốn khả dụng để "nghênh đón" các đợt IPO này vẫn chỉ có chừng đó.


Mới đây, tin BIDV công bố IPO (phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng) ngay trong tháng 12 này đã gây ra không ít sửng sốt trong dư luận. Đáng chú ý nhất là tính gấp gáp của việc này trong bối cảnh thị trường chứng khoán trầm lắng còn hệ thống ngân hàng thì đang ở ngưỡng cửa "tái cấu trúc" - được hiểu là sẽ có những vụ sáp nhập, với những xáo trộn lớn.

Có người cho rằng, do từ lúc công bố đến lúc tiến hành đấu giá cổ phần BIDV chỉ là dưới 1 tháng nên nhà đầu tư khó có điều kiện để phân tích sâu sắc về một ngân hàng vốn ít công bố thông tin. Bởi vậy, dư luận dường như hoài nghi rằng IPO của BIDV sẽ bị ảnh hưởng, và có lẽ có không ít người, trong và ngoài cuộc, muốn tiếp tục trì hoãn đợt IPO tới đây.

Thực ra, vấn đề có nên tiếp tục hay không tiến hành IPO khi thị trường chứng khoán trầm lắng không phải là mới. Hồi tháng 6 và tháng 7/2007, ngay khi thị trường chứng khoán có dấu hiệu chựng lại, và IPO của Bảo Việt và Bảo hiểm Dầu khí được thực hiện ở mức giá khiêm tốn so với kỳ vọng, người ta đã kêu gọi không tiến hành IPO các "đại gia" khác. Tại thời điểm đó, tôi đã viết 2 bài cùng chủ đề (1), khuyến nghị tiếp tục nên tiến hành các đợt IPO khác.

So sánh tình hình của hai thời kỳ, tôi thấy một số lập luận trong hai bài viết này vẫn còn nguyên giá trị nên xin được nêu lại ở đây nhằm hỗ trợ cho lời khuyến nghị phải nhanh chóng thực hiện IPO của BIDV và các "đại gia" doanh nghiệp nhà nước (DNNN) khác sớm nhất có thể.

1. IPO đã được Chính phủ lên kế hoạch từ không phải là nhiều tháng mà từ nhiều năm. Cho dù hiện nay có thể có một số yếu tố nào đó được cho là không thuận lợi cho một đợt IPO quy mô lớn như vậy, nhưng việc ngừng hoặc trì hoãn IPO nhiều khả năng sẽ mang đến những hậu quả tai hại khác không thể lường trước. Ngoài việc trì hoãn liên tục sẽ làm cho uy tín của Chính phủ bị sứt mẻ, việc này còn tạo ra những tiền lệ, những cái cớ khả dĩ cho những cá nhân hoặc nhóm lợi ích "không thích" cổ phần hóa.

Xét về lập luận này, phát biểu của ông Trần Bắc Hà, Chủ tịch Hội đồng thành viên BIDV: "Một trong những đột phá trong tái cơ cấu DNNN là đẩy nhanh công tác cổ phần hóa. Thời điểm này chúng tôi lựa chọn thực ra là đã trễ hẹn. Đáng lý là từ năm ngoái, được Chính phủ gia hạn thêm một lần" đã tỏ ra rất phù hợp, để dư luận hiểu rằng không thể và không nên trì hoãn IPO (các DNNN) nữa.

2. IPO BIDV và các DNNN khác sẽ mang lại thêm nhiều lựa chọn (có thể là tốt) cho các nhà đầu tư, ngoài những lựa chọn không mấy hấp dẫn trên thị trường chứng khoán hiện tại. Việc này sẽ tạo thành một hiệu ứng tích cực lôi kéo nhà đầu tư trở lại với thị trường chứng khoán vốn đang rất thiếu sinh khí. Do đó, việc IPO BIDV và các DNNN khác ít nhất cũng sẽ mang lại lợi ích chung cho thị trường chứng khoán.

3. Cần lưu ý rằng vai trò của Chính phủ đối với thị trường chứng khoán không chỉ là tối đa hóa nguồn thu cho ngân sách nhà nước thông qua IPO các DNNN, mà còn có trách nhiệm kiểm soát và can thiệp, giữ ổn định cho thị trường hoạt động lành mạnh. Đôi khi Chính phủ phải chấp nhận đánh đổi một số lợi ích ngắn hạn để đạt được những mục đích khác có thể sẽ đem lại những lợi ích trong dài hạn.

Về điểm này, ông Hà cũng đã thẳng thắn và nhìn nhận đúng đắn tác dụng tích cực của IPO, không chỉ bó hẹp ở chuyện thu về bao nhiêu tiền cho ngân sách.

"IPO trong bối cảnh thị trường xấu, cái này mình cũng cần phải nói một cách hết sức sòng phẳng. Mục tiêu đầu tiên không phải là nhà nước thu tiền về, mà mục tiêu chính là để nâng cao quản trị, cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước qua con đường cổ phần hóa", ông Hà nói.

4. Quan trọng nhất, nếu phải trì hoãn IPO thì biết hoãn đến bao giờ? Ai có thể dự đoán và chỉ ra thời điểm thích hợp nhất để tiến hành IPO? Và cho dù có làm được điều này thì tại thời điểm được cho là thích hợp nhất này, các doanh nghiệp sẽ đua nhau tiến hành IPO để chớp thời cơ lúc thị trường đang thăng hoa. Nhưng nếu vậy thì lại lặp lại vấn đề cung lớn hơn cầu mà người ta đang lo ngại. Để tránh tình trạng đua tranh này, chắc là phải làm một "danh sách" ưu tiên ai được IPO trước, ai phải IPO sau ư? Cơ sở nào để làm vậy?

Ông Hà đã có một lập luận rất logic và giống với lập luận ở trên khi ông đặt ngược câu hỏi: "Còn nói thị trường xấu, nhỡ đâu năm tới nó còn xấu hơn thì sao, thì có phải chúng tôi khôn không. Cái này là thuộc về thị trường và khó nói trước".

Thực tế cũng chứng tỏ điều này. Nếu đếm ngược được thời điểm 2007, cho dù có những lúc thị trường chứng khoán có đi xuống nhưng chắc chắn chỉ số VN Index lúc đó là mơ ước không chắc có ngày lặp lại ở Việt Nam. Lúc đó, nếu người ta cứ "bỏ ngoài tai" những lời bàn chùn và mạnh dạn tiến hành IPO thì có phải là "vẹn cả đôi đường" không?

5. Ngoài ra, nếu cho rằng nguồn vốn trong dân đúng là đã tới hạn (chính xác hơn là bị giới hạn bởi tốc độ tăng trưởng thu nhập dân cư, là điều phụ thuộc vào tốc độ tăng GDP), và cứ cho là nguồn vốn từ ngân hàng đã và sẽ bị cắt giảm mạnh bởi quy định của Ngân hàng Nhà nước hạn chế tín dụng cho khu vực phi sản xuất, thì cho dù các đợt IPO theo kế hoạch của hàng loạt doanh nghiệp và các ngân hàng thương mại nhà nước lớn có được trì hoãn thêm một thời gian nữa thì cũng chẳng có ích lợi gì. Lý do, nguồn vốn khả dụng để "nghênh đón" các đợt IPO này vẫn chỉ có chừng đó, và rốt cuộc các đợt IPO chắc chắn cũng sẽ không mang lại kết quả khả quan hơn hiện tại.

Để tránh tình trạng này, dường như chỉ còn một giải pháp duy nhất là ngừng vô thời hạn IPO của một bộ phận lớn trong số các tổng công ty và các doanh nghiệp để đảm bảo cung không vượt quá cầu. Mà điều này chắc chắn là không tưởng, vì nó đồng nghĩa với việc quay lưng lại với tiến trình cổ phần hóa của Đảng và Nhà nước - vốn luôn được cam kết đẩy mạnh, nhưng đã và đang được tiến hành rất chật vật so với kế hoạch.

6. Cuối cùng, về lập luận rằng nhà đầu tư có quá ít thời gian để phân tích sâu về BIDV để có quyết định đầu tư hay không, ông Hà đã có giải thích một phần. Ở đây tôi chỉ bổ sung thêm một điều là nhiều nhà đầu tư vào một cổ phiếu nào đó đâu có cần/quan tâm đến/biết phân tích những số liệu "lằng nhằng" đâu? Việc này đôi khi không quan trọng bằng việc nghe ngóng thị trường và hỏi nhà đầu tư bên cạnh xem là họ bỏ giá bao nhiêu!

Tóm lại, IPO các DNNN nói chung và BIDV nói riêng cho dù có gấp gáp thì nó là việc lẽ ra đã phải làm từ lâu. Và nếu xét đến tính bất trắc, rủi ro không tiên liệu được của nền kinh tế quốc gia, của thị trường chứng khoán thì tiến hành IPO được lúc nào thì cũng nên tiến hành ngay lúc đó, chẳng có cớ gì phải chần chừ nữa!
__________________________

(1) Tham khảo:
http://vneconomy.vn/69356P0C7/ipo-co-gi-phai-tri-hoan.htm
http://vneconomy.vn/68091P7C708/van-nen-tiep-tuc-ipo.htm

Saturday 3 December 2011

Trao đổi với ĐBQH Đặng Thành Tâm (dang tren Dai bieu Nhan dan)

07:25 | 04/12/2011

Trong kỳ họp Quốc hội vừa qua, ĐBQH Đặng Thành Tâm đã chất vấn Thủ tướng với câu hỏi: “Thời gian qua, Chính phủ đã thực hiện rất tốt chống lạm phát và duy trì tăng trưởng. Không ai ngờ Việt Nam có thể giữ được lạm phát 18% mà tăng trưởng gần 6%; 6 tháng cuối năm lạm phát chỉ 3%. Vậy Thủ tướng có thông điệp quan trọng gì cần đưa ra cho cử tri cả nước, và Thủ tướng có định hướng hay lời khuyên nào cho doanh nghiệp nên tập trung vào ngành nào trong thời gian tới?”.


Câu hỏi của ông Tâm đã bị dư luận phê phán rằng nó vừa không thể hiện tính đại biểu cho các tầng lớp nhân dân ở Quốc hội (ông là đại biểu Quốc hội mà hỏi như thể ông là đại biểu chỉ cho các doanh nghiệp), vừa không đúng tính chất của chất vấn trước Quốc hội (như thể ông đang xin ý kiến chỉ đạo, chứ không phải chất vấn đối với Thủ tướng. Mà kể cũng lạ, tại sao Thủ tướng lại phải khuyên doanh nghiệp nên “tập trung vào ngành nào” nhỉ? Nếu giả sử là Thủ tướng làm như vậy, hóa ra những ngành không được Thủ tướng “bật đèn xanh” thì…).

Chắc cảm thấy bị “oan” quá nên ông Tâm đã có bài phản biện gửi đến một loạt báo, rồi đăng đàn trả lời phỏng vấn trên báo chí để thanh minh cho câu hỏi của mình.

Tuy nhiên, tôi, với tư cách là một thường dân được ông đại diện, lại thấy có thêm nhiều cái “dở” trong các bài viết, trả lời phỏng vấn của ông, và trộm nghĩ, giá mà ông đừng nói gì thêm nữa thì có phải là tốt hơn cho ông không.

Trong bài trả lời phỏng vấn trên Người đưa tin, ông so sánh tốc độ tăng trưởng tín dụng giảm đi trong 11 tháng qua (“chỉ” tăng 9,1%) với lạm phát (vẫn khoảng 18%) để kết luận rằng “Ngân hàng Nhà nước không đưa một đồng tín dụng nào ra nền kinh tế thì lạm phát vẫn cao”, với ngụ ý rằng tăng trưởng tín dụng (nới lỏng chính sách tiền tệ) không phải là nguyên nhân gây ra lạm phát.

Có đúng thế không? Chắc ông không thể không biết rằng người ta vẫn nói tăng trưởng tín dụng sẽ có tác động “trễ” lên lạm phát. Bởi vậy, với con số tăng trưởng tín dụng tới trên 30% năm 2010 mà cũng chính ông đưa ra trong bài trả lời phỏng vấn của mình thì lẽ ra ông phải thừa nhận rằng lạm phát năm nay (có phần lớn) là do tăng trưởng tín dụng quá cao của năm trước gây ra. Hơn nữa, ông phải lấy làm mừng vì tăng trưởng tín dụng 11 tháng qua chỉ mới là 9,1% nên nó mới không làm cho lạm phát tăng vọt lên trên 20%, thậm chí đến gần 30% chứ chẳng chơi, như nhiều dự đoán đưa ra trước đây (lưu ý là 11 tháng là đủ dài để chính sách thắt chặt tiền tệ phát huy tác dụng lên lạm phát). Tôi đảm bảo với ông rằng nếu tăng trưởng tín dụng 11 tháng qua là 0% hoặc 1% hoặc con số nào đó thấp hơn 9,1% thì chắc chắn lạm phát 11 tháng sẽ thấp hơn (nhiều) con số 18% trên thực tế. Nếu không tin, ông có chứng minh ngược lại được không?

Ông giải thích rằng: “Vấn đề lạm phát của năm 2011 nguyên nhân chính là do thiếu hụt ngoại tệ trong cán cân thanh toán 5 tỷ USD, do đó đã gây ra trượt giá tiền Việt lên tới 9,3%. Điều này kéo theo hệ lụy dây chuyền làm cho hàng nhập tăng giá, chi phí tăng, giá thành sản phẩm tăng…”. Không rõ ông hiểu mối liên hệ giữa “thiếu hụt ngoại tệ trong cán cân thanh toán” với cái sự “trượt giá tiền Việt” như thế nào, nhưng ông có thể trả lời giùm tôi rằng nếu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) không tăng cung tiền Việt (tức là nới lỏng chính sách tiền tệ) thì cái sự “trượt giá tiền Việt” (tỷ giá VND/USD tăng) liệu có xảy ra không?

Ông chỉ ra rất đúng rằng: “Một nguyên nhân nữa là do chúng ta chưa chú trọng đến ngành sản xuất công nghiệp phụ trợ khiến cho giá trị hàng công nghiệp, hàng điện tử xuất khẩu tăng rất thấp vì phải nhập linh kiện, phụ kiện đến 70 - 80%”. Nhưng ông trả lời thế nào cho câu hỏi tại sao cũng vẫn cái cơ cấu sản xuất phụ thuộc nặng nề vào nhập khẩu linh kiện, phụ kiện như cả hơn 2 thập kỷ trước đây (thậm chí còn nặng nề hơn bây giờ) mà lạm phát không cao như năm nay?

Ông nói rằng: “Nhìn lại năm 2009, tổng tăng trưởng tín dụng là hơn 40%, năm 2010 hơn 30% thì thấy 11 tháng qua mà tăng trưởng tín dụng chỉ có hơn 9% là quá nhỏ đã dẫn đến triệt tiêu sản xuất, kinh doanh, đẩy nền kinh tế đến tình trạng khá nhiều bất cập”. “Bất cập” thứ nhất ông đề cập đến là: “Doanh nghiệp tin theo thông báo của NHNN là tăng trưởng tín dụng 20% nên đã xây dựng kế hoạch mở rộng sản xuất kinh doanh theo mức tăng trưởng tín dụng 20%. Rồi đùng một cái tăng trưởng tín dụng chỉ còn một nửa và ngân hàng hiện nay không giải ngân nữa làm công trình dở dang vừa lãng phí vừa gây hậu quả cho doanh nghiệp”.

Thưa ông, chắc ông biết rằng, ví dụ, Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (FRB) thường không cho biết trước hướng đi của chính sách tiền tệ của FRB, và/hoặc không hiếm khi FRB đột ngột điều chỉnh chính sách tiền tệ của mình. Vậy ông có biết doanh nghiệp Mỹ nào phàn nàn rằng họ bị động, thua lỗ vì cái sự hành xử “bất trắc”, “bất nhất” này của FRB không? Cứ theo ý ông mà suy diễn ra, có lẽ FRB nên đặt ra công khai một mục tiêu tăng trưởng tín dụng và lãi suất cụ thể nào đó và cố gắng thực hiện bằng được để cho các doanh nghiệp Mỹ còn lập kế hoạch sản xuất kinh doanh tương ứng?

“Bất cập” thứ hai mà ông nêu ra như là hậu quả của hành động thay đổi kế hoạch tăng trưởng tín dụng là việc đua lãi suất. Ông chỉ ra rằng: “Tiền cũng là hàng hóa nên càng thiếu thì vốn của tiền là lãi suất càng cao, thậm trí cá biệt có lúc lên đến 25-30%/năm, vượt xa khả năng sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Khi lãi suất lên cao, kể cả doanh nghiệp không vay thêm cũng bị ảnh hưởng nặng vì toàn bộ vốn vay trước đây của họ cũng bị chuyển qua áp dụng mức lãi suất mới rất cao này. Nếu doanh nghiệp lợi nhuận được 15% thì trả lãi 25% vẫn bị lỗ 10% và không có tiền để trả lãi này dẫn đến nợ xấu ngân hàng, gây ra đổ bể tín dụng gia tăng nếu Ngân hàng không đáo nợ cho họ. Hậu quả dẫn tới là gần 50.000 doanh nghiệp đã phải đóng cửa, khoảng 50.000 doanh nghiệp cũng sẽ phải đóng cửa trong thời gian tới nếu không có chính sách nhất quán về tiền tệ”.

Không hiểu ông lấy cái khái niệm “vốn của tiền là lãi suất” ở đâu ra. Hơn thế, theo ý trên, chắc tôi hiểu không sai rằng ông đang “kết tội” NHNN đã gây ra sự thiếu hụt vốn tín dụng cho nền kinh tế, làm cho các doanh nghiệp điêu đứng. Vậy hóa ra ông phủ nhận sự đúng đắn của Nghị quyết 11 hồi tháng 3 năm nay, trong đó có giải pháp thắt chặt tiền tệ với mục tiêu là ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát ư? Ông ngạc nhiên với hậu quả của thắt chặt chính sách tiền tệ (doanh nghiệp đóng cửa) lắm ư? Ông đưa ra con số 50.000 doanh nghiệp (?) đóng cửa để minh họa cho cái hậu quả này, vậy ông có biết rằng có nhiều hơn thế con số doanh nghiệp mới thành lập trong năm nay không, và ông giải thích ra làm sao hiện tượng đó? Nếu là Thống đốc NHNN, ông có giải pháp gì kiềm chế lạm phát nếu không phải là chính sách tiền tệ thắt chặt? Hay ông đề nghị NHNN làm ngược lại, tức là tăng cung tiền để tăng vốn tín dụng cho nền kinh tế nhằm làm tăng cung hàng hóa và, nhờ đó, giảm lạm phát?

Không biết ông có nhầm không khi nói: “Nếu doanh nghiệp lợi nhuận được 15% thì trả lãi 25% vẫn bị lỗ 10%”. Ông là một doanh nhân giỏi nên tôi không thể tin ông nói vậy, đơn giản vì ai bỏ vốn ra cũng phải tính tỷ suất lợi nhuận dựa trên vốn tự có của mình bỏ ra chứ không phải dựa trên tổng vốn tự có cộng vốn đi vay. Chắc tôi không cần phải đưa ra một tính toán đơn giản để minh họa cho điều này để tiết kiệm giấy mực.

Ông chỉ ra thêm rằng: “Thống kê 9 tháng đầu năm so với năm 2010 cho thấy nạn thất nghiệp và tội phạm tăng cao. Vậy điều gì sẽ xảy ra, nếu các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không được báo trước ở tầm vĩ mô trong năm 2012? Chắc chắn các doanh nghiệp sẽ không đủ sức để chịu đựng việc tiếp tục thắt chặt tiền tệ liều lượng mạnh như hiện nay. Điều không tránh khỏi là hàng trăm hàng ngàn doanh nghiệp có thể sẽ đổ vỡ với tốc độ nhanh hơn năm 2011 do sức chịu đựng của doanh nghiệp dường như đã cạn kiệt”.

Nói như thế này thì dường như ông coi cái việc “dự báo trước ở tầm vĩ mô” là việc rất khả thi, với kết quả trên thực tế hầu như “trúng phóc” so với dự báo? Nhà chiêm tinh nào mà đại tài đến thế? Chắc ông cho rằng nếu muốn thì Chính phủ, và cụ thể là Thủ tướng, có thể làm được việc này ư? Bên cạnh đó, nếu sang năm mà lạm phát vẫn ở mức cao (ví dụ như hiện nay) thì, theo ông lập luận, NHNN vẫn cần phải nới lỏng chính sách tiền tệ để cứu doanh nghiệp ư? Nếu ông trả lời là “đúng vậy”, thì theo ông Chính phủ lúc đó cần làm thế nào để kiềm chế lạm phát (khi NHNN đã nới lỏng chính sách tiền tệ)?

Ông ca ngợi rằng: “Tháng 10 lạm phát đã kiềm chế ở mức trên 3%. Đây là thắng lợi to lớn mà quốc tế không tin Việt Nam có thể làm nổi”. Theo ông, điều gì đã làm nên thắng lợi to lớn này, nếu NHNN đã không thắt chặt chính sách tiền tệ? Cũng cần phải nói cho rõ rằng kiềm chế lạm phát bằng chính sách tiền tệ thắt chặt là điều rất bình thường, và kết quả là lạm phát giảm nhiệt cũng là điều rất bình thường, chứ chẳng có gì là phi thường, “không thể tin nổi” ở đây cả.

Ông băn khoăn rằng: “Song chúng ta vẫn nhận thấy thông điệp tiếp tục duy trì chính sách thắt chặt tiền tệ, khi mà NHNN đã thắt chặt gấp 2 lần so với thông báo. Như vậy rất cần một sự minh bạch rõ ràng để doanh nghiệp họ biết mà điều chỉnh kế hoạch hoạt động của mình”.

“Thông điệp” của Chính phủ đã rõ vậy rồi (“tiếp tục duy trì chính sách thắt chặt tiền tệ”, theo lời ông), ông còn muốn “minh bạch rõ ràng” thế nào nữa? Ông cứ lo ngại rằng: “… nếu hàng loạt doanh nghiệp sụp đổ thì hậu quả sẽ kéo theo là hàng triệu con người mất việc, tệ nạn xã hội gia tăng”. Vậy chắc ông không lo ngại là lạm phát cao (nếu NHNN nới lỏng chính sách tiền tệ, như ông muốn) sẽ gây ra những bất ổn xã hội cũng “tệ” không kém gì, nếu không muốn nói là hơn, việc doanh nghiệp sụp đổ vì chính sách tiền tệ thắt chặt ư?

Trong các bài nói và viết của ông còn nhiều điểm đáng mang ra “mổ xẻ” tương tự như trên lắm nhưng tôi đành dừng lại ở đây vì đã thấy quá đủ để đưa ra kết luận như nói ở phần đầu rồi. Rất mong ông hiểu được những hạn chế của mình để làm tốt được vai trò của mình trong Quốc hội mà cử tri của ông đã tin tưởng giao phó.

Friday 2 December 2011

Tái cơ cấu kinh tế - có cần Luật và Ủy ban Tái cơ cấu không? (bai dang tren Dai bieu Nhan dan)

06:59 | 03/12/2011

Cùng với vấn đề hoạch định tái cấu trúc kinh tế, vấn đề ban hành Luật về tái cơ cấu kinh tế và thành lập Ủy ban Tái cơ cấu (UBTCC) mà Thủ tướng làm Chủ tịch (với sự tham gia của các chuyên gia kinh tế độc lập) cũng được một hội thảo của UB Kinh tế đặt ra như một yêu cầu cấp thiết để quá trình tái cấu trúc kinh tế diễn ra tốt đẹp.

Theo UB Kinh tế, lý do để ban hành Luật về tái cơ cấu và UBTCC là để có thể triển khai đồng bộ và quyết liệt các chính sách tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, đầu tư công và khu vực ngân hàng. Những chính sách này có thể ảnh hưởng tới lợi ích của nhiều nhóm đối tượng và nhiều bộ ngành khác nhau và do đó (theo mạch phân tích) sẽ bị các nhóm lợi ích chống đối quyết liệt, làm giảm hiệu quả và sự thành công của tái cơ cấu kinh tế.

Đồng thời, cũng theo UB Kinh tế, một Luật như vậy sẽ sửa đổi các luật hiện hành có những quy định gây vướng mắc cho quá trình tái cơ cấu nền kinh tế và trao cho UBTCC những quyền hạn đặc biệt, nhằm hướng tới việc phối hợp và thực thi nhất quán các công cụ chính sách vĩ mô cần phải theo mục tiêu chung của nền kinh tế. Một ví dụ được UB Kinh tế đưa ra là chính sách tiền tệ không những phải phối hợp hiệu quả với các chính sách khác mà bản thân chính sách này cũng phải được thực thi một cách nhất quán.

Suy cho cùng, chúng ta có thể thấy mong muốn phối hợp và thực thi nhất quán các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô của UB Kinh tế như trên cũng là xuất phát từ lo ngại rằng các nhóm lợi ích sẽ tác động và gây cản trở đến quá trình ban hành và thực thi các chính sách kinh tế vĩ mô mà kết cục là làm cho các chính sách này thường “đá” nhau, và nay thế này, mai thế khác. Trong ví dụ về sự không nhất quán trong chính sách tiền tệ mà UB Kinh tế đưa ra (nới lỏng quá sớm dưới sức ép của tăng trưởng, làm tăng lại lạm phát kỳ vọng), nhóm lợi ích ở đây chính là các doanh nghiệp và họ tác động lên phương hướng chính sách tiền tệ qua việc phàn nàn lãi suất tăng cao gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh, làm giảm tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội.

Bởi vậy, rốt cuộc, nếu nhìn từ góc nhìn của UB Kinh tế, gốc rễ vấn đề vẫn chỉ là sự tác động của các nhóm lợi ích, và việc ban hành Luật tái cơ cấu và thành lập UBTCC cũng chỉ là để chế áp tác động của các nhóm lợi ích này.

Nhưng nếu như vậy và ngẫm cho kỹ, sự cần thiết phải ban hành Luật và UBTCC chưa được rõ ràng và thuyết phục. Lý do đầu tiên, đây không phải là lần đầu tiên chúng ta ban hành các luật để chế tài một vấn đề gì đó. Và cũng không phải lần đầu tiên chúng ta đã thành lập các ủy ban chuyên trách để giải quyết một vấn đề nào đó. Nhưng trên thực tế, kết quả của những luật và hoạt động của các ủy ban này như thế nào thì không ai trong chúng ta không biết rõ, được thể hiện một cách sinh động nhất qua những nhận định trong các báo cáo và văn kiện của Đảng và Chính phủ với những câu như “còn nhiều bất cập”, và “vẫn diễn biến phức tạp”. Trong những lĩnh vực này cũng có sự có mặt của lợi ích nhóm làm triệt tiêu hiệu quả của các luật và ủy ban chuyên trách. Nhóm lợi ích ở đây có thể là những quan chức và nhân viên thừa hành lợi dụng quyền hạn và những đặc quyền được giao để cấu kết với nhau tham nhũng, hối lộ, chạy án, thậm chí trực tiếp “tay dính chàm” mà không có một cơ quan nào kiểm soát, phát hiện và quản lý được. Như vậy, có thể kết luận ngay rằng ban hành luật và thành lập ủy ban chuyên trách không phải là điều kiện cần để tái cơ cấu kinh tế, hoặc là điều kiện quyết định để tái cơ cấu kinh tế thành công, nhìn từ góc độ chế át lợi ích nhóm.

Lý do thứ hai, bản thân tái cơ cấu kinh tế là một khái niệm (vẫn còn) mơ hồ nhưng chắc chắn bao hàm nhiều lĩnh vực rộng lớn với nhiều luật chế tài tương ứng, không thể thay thế được bởi một luật bao quát, luật đứng trên luật nào đó như Luật tái cơ cấu, để cho ra đời một siêu ủy ban nào đó với quyền lực gần như vô hạn mà hoàn toàn có nguy cơ dẫn đến lạm quyền vì không ai có thể theo dõi, giám sát được.

Nếu chỉ với ý nghĩa như một công cụ để buộc các bên liên quan (các bộ, các địa phương) ngồi lại với nhau và thống nhất được chính sách, phương hướng, nhiệm vụ tái cơ cấu theo một hướng là làm mạnh hóa toàn bộ nền kinh tế và không phải đối mặt với những vấn đề như chính sách bất nhất và mâu thuẫn với nhau do các nhóm lợi ích giật dây v.v… thì những khuôn khổ thể chế và cơ cấu hiện tại, NẾU hoạt động tốt, là đủ để thực hiện nhiệm vụ này. Từng bộ phải thực hiện đúng và làm tốt chức năng chuyên môn của mình. Ví dụ, Bộ Tài chính phải thực hiện thu chi ngân sách lành mạnh, kiểm soát được hiệu quả đầu tư công, đầu tư qua các doanh nghiệp nhà nước (vốn là một nguồn gốc gây bất ổn kinh tế vĩ mô). Ngân hàng Nhà nước thì phải thực hiện mục kiềm chế lạm phát (hỗ trợ tăng trưởng một cách có điều kiện), tăng cường quản trị rủi ro trong hệ thống để các ngân hàng hoạt động lành mạnh trong các chuẩn mực cho phép v.v…. Và tương tự như vậy, khi mỗi một bộ chủ quản thực hiện tốt được chức năng của mình, tạo được môi trường sản xuất kinh doanh minh bạch và lành mạnh, còn người đứng đầu Chính phủ thì thực hiện tốt vai trò là nhạc trưởng phối hợp khéo léo hành động của các bộ và địa phương với nhau thì tự khắc các cân đối kinh tế vĩ mô sẽ được lập lại (dù đôi khi cần thời gian). Và lúc đó, vấn đề tái cơ cấu kinh tế sẽ đơn giản trở thành quá trình đưa các khuôn khổ thể chế và cơ cấu hiện tại trở lại đúng quỹ đạo vận hành như vốn phải có của chúng. Nói cách khác, thay vì ban hành luật mới và thành lập tổ chức chuyên trách mới, việc cần làm hơn là phải cải cách và buộc khuôn khổ thể chế và cơ cấu hiện tại hoạt động đúng đắn hơn, hiệu quả hơn.

Ngược lại, nếu cho rằng chỉ có Luật tái cơ cấu và UBTCC mới có thể buộc các bộ chủ quản và các địa phương thực hiện tốt các chức năng của mình cùng theo một mục tiêu chung của nền kinh tế thì việc này cũng tương tự như việc hồ nghi về khả năng điều hành và phối hợp các bộ chủ quản của Thủ tướng, cũng chính là người sẽ đứng đầu UBTCC.

Trên hết, cần nhận thức rằng một UBTCC nếu xét về thành phần thì bản chất cũng không khác gì một Chính phủ thu nhỏ (hoặc Chính phủ trong Chính phủ) với Thủ tướng là người đứng đầu và các thành viên là người từ các bộ chủ quản. Nếu cho rằng UBTCC nhất thiết phải có, và khác biệt ở chỗ là có, các chuyên gia tư vấn độc lập thì cũng phải thấy rằng Thủ tướng hoàn toàn có thể thành lập, và trên thực tế đã có, các tổ, các ủy ban tư vấn (độc lập). Mà như thế thì có hay không có UBTCC, mọi việc vẫn như vậy.

Lý do thứ ba, và có liên quan đến 2 lý do trên, là khả năng và quyết tâm thực hiện các chính sách (tiến bộ) mới là điều đáng nói và là điều quan trọng hơn bản thân chuyện đề ra chính sách và tổ chức bộ máy thực hiện chính sách đó. Dù có ra Luật tái cơ cấu kinh tế và thành lập UBTCC thì người thực thi vẫn là các bộ chủ quản thông qua sự điều hành, phân công và phối hợp của Thủ tướng. Đến lượt mình, các bộ chủ quản trong chức năng và phạm vi quyền lực của mình sẽ điều khiển các chủ thể kinh tế qua bộ máy đồ sộ của mình từ trung ương xuống địa phương theo mục tiêu thống nhất. Có thể nghĩ rằng lợi ích nhóm không hiện diện trong cấp độ điều hành cao nhất từ Thủ tướng xuống các bộ trưởng vì chỉ có một Thủ tướng. Tương tự, có thể không cần phải băn khoăn về chuyện tư duy và năng lực hành động của cấp cao nhất. Nhưng khó có thể nghĩ như vậy được khi chúng ta có hơn 20 bộ, hàng nghìn vụ, cục, hàng nhiều nghìn cơ quan quản lý chức năng và chính quyền ở các địa phương v.v… với tư duy, trình độ nhận thức, năng lực hành động rất khác nhau, cũng như khả năng bị tác động bởi nhóm lợi ích đã được nhân lên bội lần.

Nói cách khác, trong bối cảnh vẫn duy trì một bộ máy điều hành hiện tại, với nhân lực/nhân sự hiện tại và cung cách làm việc hiện tại trong môi trường làm việc hiện tại thì việc thành lập ra một UBTCC quy tập những bộ óc ưu tú nhất, trong sạch nhất, tiến bộ nhất v.v… cũng sẽ không làm thay đổi được căn bản tình hình, đơn giản vì nó không thể làm thay được tất cả các công việc của các cấp chính quyền bên dưới.

Những phân tích ở trên dẫn chúng ta đến một nhận định rằng, ngoài chuyện không nhất thiết phải có Luật tái cơ cấu hay UBTCC như một điều kiện cần, điều kiện tiên quyết để tái cơ cấu kinh tế, sự thành bại của tái cơ cấu phụ thuộc hoàn toàn vào nhận thức và hành động của đội ngũ nhân lực tham gia thực hiện tái cơ cấu từ trung ương đến địa phương. Mượn ý của Ts Lê Xuân Bá, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế TƯ thì chúng ta phải “tái cấu trúc chính cái đầu của chúng ta”, tức là đổi mới và “nâng cấp” tư duy của chúng ta để tái cấu trúc được nền kinh tế. Nếu làm được như vậy thì chuyện vượt qua được các trở ngại chính, ví dụ như sự tác động của nhóm lợi ích, là hoàn toàn khả thi nhờ sự tăng cường minh bạch – là một trong những kết quả và mục tiêu của “tái cấu trúc cái đầu”, và cũng đồng thời là “khắc tinh” của các nhóm lợi ích.

Sunday 27 November 2011

Tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước - Có dám cắt bỏ những gốc rễ của yếu kém không? (Dang tren Dai bieu Nhan dan)

07:41 | 27/11/2011

Các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) được xác định là một trong 3 yếu tố gây ra bất ổn kinh tế vĩ mô và vì thế chúng đã được đưa vào thành một bộ phận quan trọng của chương trình tái cấu trúc kinh tế.

Thực ra, như chúng ta đã đề cập ở số báo trước, tái cấu trúc doanh nghiệp về bản chất không phải là hiện tượng mới. Tái cấu trúc DNNN thực tế đã được bắt đầu từ đầu thập niên 90 với tên gọi là đổi mới và sắp xếp lại DNNN thông qua các biện pháp giải thể, cho thuê, sáp nhập, cổ phần hóa, xây dựng thành các tổng công ty, rồi tập đoàn, rồi công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên v.v...

Cho đến nay, mặc dù con số DNNN còn tồn tại chỉ vào khoảng 1.500 doanh nghiệp với 12 tập đoàn kinh tế nhà nước, chúng vẫn nắm một nguồn lực lớn của đất nước và chi phối thị trường trong nước ở nhiều lĩnh vực nhưng lại hoạt động rất kém hiệu quả - những thực tế đã được nêu đầy đủ trên các phương tiện thông tin đại chúng mà chúng ta không cần phải nhắc lại ở đây.

Vậy đâu là gốc rễ của vấn đề kém hiệu quả, gây bất ổn kinh tế vĩ mô từ các DNNN, để từ đó mới nảy sinh nhu cầu tái cấu trúc chúng? Nếu đã hiểu được các gốc rễ rồi thì liệu chúng ta có dám cắt bỏ những cái gốc rễ đó để cho quá trình tái cấu trúc thành công hay không?

Gốc rễ đầu tiên là sự nhập nhằng chức năng kinh doanh thuần túy như một doanh nghiệp thực thụ trong nền kinh tế thị trường, và chức năng được gọi một cách khá bất cẩn là “ổn định kinh tế vĩ mô”, hay đôi khi còn được gọi là “nhiệm vụ chính trị”, vốn thường được hiểu một cách đại khái, theo quy định bất thành văn, là phải làm những việc mà ông chủ sở hữu của nó, nhà nước, mà người đại diện là Chính phủ chỉ định phải làm một cách hoàn toàn theo mệnh lệnh hành chính.

Tất nhiên, khi đã phải đóng một lúc 2 vai có lợi ích xung đột với nhau thì rốt cuộc chẳng vai nào sẽ ra cái gì. Và thực tế đúng là vậy. Chưa nói đến chuyện DNNN còn không bỏ lỡ cơ hội dùng cái vai “nhiệm vụ chính trị” để làm bình phong che giấu những hoạt động sai trái và cái cớ để đổ lỗi cho kết quả kinh doanh yếu kém của mình mà không hiếm khi là do sự kém cỏi của đội ngũ quản lý.

Về phía Chính phủ, vì phải để DNNN kinh doanh có lãi hòng lấy đó để thực hiện các “nhiệm vụ chính trị” nên buộc phải luôn ưu tiên và tạo điều kiện tối đa bằng các ưu đãi vật chất và cơ chế “đặc thù” cho các DNNN. Vì thế mới có chuyện được ưu tiên rót vốn ngân sách, vay vốn ngân hàng hoặc trái phiếu Chính phủ với lãi suất thấp, được cấp đất, xây dựng cơ sở hạ tầng sẵn, độc quyền hoặc gần như độc quyền trong những lĩnh vực hoạt động của mình và hàng loạt cơ chế dành riêng cho “con cưng” khác, mà rốt cuộc là khu vực doanh nghiệp tư nhân và FDI, và toàn bộ nền kinh tế phải gánh chịu. Điều đáng nói hơn là DNNN ra sức khai thác những nguồn lợi này cho lợi ích riêng của họ.

Như thế, việc đầu tiên cần làm với tái cấu trúc DNNN là phải quyết định xem liệu chúng ta có dám chấp nhận để DNNN chỉ đơn thuần là doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thuần túy hoạt động theo đuổi lợi nhuận như bất kể doanh nghiệp nào khác trong một nền kinh tế thị trường hay không? Còn nếu vẫn muốn có các doanh nghiệp để đảm đương các việc công ích thì hãy biến chúng thành công ích phi lợi nhuận đơn thuần. Hoặc tốt hơn nữa là nhà nước sẽ thuê/đặt hàng các DNNN (lúc này hoạt động như một doanh nghiệp thông thường) và/hoặc các doanh nghiệp tư nhân, FDI, liên doanh v.v... thực hiện những việc công ích này, với nguồn kinh phí được trích ra từ chính phần kinh phí đã tiết kiệm được do không phải rót vốn, bù lỗ cho (hoặc cắt giảm phần giao nộp, đóng góp theo nghĩa vụ) của DNNN khi bắt chúng phải khoác thêm cái vai “nhiệm vụ chính trị”. Đương nhiên là lúc này chuyện thuê sẽ phải được làm công khai và minh bạch để không còn chuyện DNNN thì sẽ được ưu tiên hưởng lợi từ các đơn đặt hàng của nhà nước.

Gốc rễ tiếp theo ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả của các DNNN xuất phát từ chủ trương biến chúng thành những “quả đấm thép” với ước mong lãng mạn là chúng có thể lớn mạnh như Thánh Gióng đủ sức cạnh tranh với thế giới. Cũng tương tự như với “nhiệm vụ chính trị”, chức năng “quả đấm thép” này dẫn đến hàng loạt những ưu tiên, ưu đãi để mong chúng lớn mạnh nhanh chóng, mà Vinashin là một ví dụ điển hình. Tuy nhiên, “quả đấm thép” này lại được gắn vào cơ thể tham lam nhưng kém cỏi, để rồi chỉ, như có người ví von, đấm lại chính chúng ta.

Sẽ có người biện hộ rằng nếu không có những “con sâu” như những bị cáo vụ Vinashin thì Vinashin sẽ là một điển hình thành công cho mô hình “quả đấm thép”. Hãy khoan nói đến những yếu tố về cơ chế, con người và tư duy vốn tất yếu sẽ tạo ra những con sâu như vậy, không sớm thì muộn, mà để thay đổi được những yếu tố này thì cũng tương đương với việc xóa bỏ luôn mô hình kiểu Vinashin. Mô hình xây dựng các “quả đấm thép” từ con số 0 hoặc từ những mảnh chắp vá trong bối cảnh hiện thời ở Việt Nam và trên thế giới, và trong mối quan hệ giữa Việt Nam với thế giới thông qua các thỏa thuận song phương và đa phương hoàn toàn khác xa so với cũng mô hình đó (chaebol) ở những nền kinh tế như Hàn Quốc, Singapore trong bối cảnh cách đây 3, 4 thập kỷ. Do đó, cần nghĩ rằng cái gì thành công trong quá khứ thì không nhất thiết sẽ thành công trong tương lai. Trên hết, như nuôi dạy một đứa con cho khỏe mạnh, tử tế, hãy để DNNN tự bò, tự đi bằng đôi chân của mình. Nghĩ rộng ra, tuy môi trường kinh doanh còn rất khó khăn và bất bình đẳng với doanh nghiệp tư nhân mà hiện nay đã có không ít doanh nghiệp tư nhân vươn lên qua mặt không ít DNNN ở Việt Nam. Điều này tự nó nói lên rằng sự bao bọc không phải là điều kiện cần cho sự thành công.

Khi đã nhận thức được như trên, việc cần làm tiếp theo trong chuyện tái cấu trúc là phải trả lời dứt khoát được câu hỏi liệu chúng ta có dám chấp nhận bỏ đi cái chủ trương này để cắt đi cái nguồn gốc gây ra bệnh tật cho DNNN không?

Gốc rễ thứ ba cho căn bệnh của DNNN là sự chi phối của các nhóm lợi ích. Không ít DNNN, tập đoàn, tổng công ty là sân sau của, hoặc bị chi phối bởi một nhóm lợi ích nào đó, được dựng nên để biến thành công cụ tư lợi cho nhóm lợi ích đó, tất nhiên vẫn dưới những chiêu bài như “quả đấm thép” hoặc khiêm tốn hơn thì là “thiết yếu”, là “ổn định kinh tế vĩ mô” hoặc vv và vv. Vì là sân sau của hoặc bị chi phối bởi các nhóm lợi ích nên sự tồn tại của các DNNN kiểu này đương nhiên là có hại nhiều hơn có lợi cho cả nền kinh tế nói chung.

Từ đây, việc cần làm nữa trong tái cấu trúc DNNN là phải trả lời được câu hỏi liệu có phát hiện ra và xóa đi được cơ chế/cách thức để các nhóm lợi ích chi phối hoặc dựng lên các DNNN không?

Trên đây 3 trong số những câu hỏi căn bản nhất đặt ra trước khi chương trình tái cấu trúc được thành hình và khởi động. Nếu 1 trong 3 câu hỏi này có câu trả lời “không” hoặc “không rõ” thì cầm chắc rằng chuyện tái cấu trúc DNNN lại sẽ lặp lại vết xe đổ trong công cuộc sắp xếp và đổi mới DNNN hai thập kỷ trước đây mà hậu quả vẫn còn để lại tới ngày nay ở mức độ trầm trọng hơn. Mọi giải pháp tái cấu trúc lúc đó sẽ chỉ là nửa vời, không đáp ứng được mục tiêu là lành mạnh hóa DNNN và, nhờ đó, ổn định hóa kinh tế vĩ mô.

Các vấn đề khác liên quan đến tái cấu trúc như cổ phần hóa như thế nào, giữ lại bao nhiêu doanh nghiệp, trong những lĩnh vực nào, xác định được giá hợp lý để thúc đẩy cổ phần hóa, duy trì hay không mô hình mẹ - con, thành lập hay giải tán tập đoàn v.v... chỉ là những vấn đề thứ yếu hoặc kỹ thuật, hoàn toàn có thể xử lý được khi những vấn đề căn bản nêu trên đã được giải quyết.

Friday 25 November 2011

Tái cấu trúc: Có phải là thần chú? (bai nguyen ban, bai dang tren VEF da bien tap lai)

Nếu có thống kê, chắc cụm từ tái cấu trúc (kinh tế) phải thuộc tốp từ khóa được dùng nhiều nhất trong số các từ khóa liên quan đến kinh tế ở Việt Nam trong năm nay. Điều làm nó thành “hot” như vậy có lẽ là vì người ta đã gán cho nó chức năng là câu thần chú “vừng ơi mở ra” để đưa Việt Nam thoát hiểm qua cánh cửa hẹp với đầy rẫy những khó khăn và nguy cơ đổ vỡ đeo bám đằng sau mà nếu không thoát kịp thì chắc chẳng còn ai dám tiên đoán điều gì sẽ xảy ra.

Liệu tái cấu trúc kinh tế có phải là câu thần chú không và nó có giúp Việt Nam thoát hiểm được không? Liệu có là muộn không khi bây giờ mới đưa ra chuyện tái cấu trúc?

Tái cấu trúc không luôn là câu thần chú mầu nhiệm. Cũng là cải cách và đổi mới về bản chất, tái cấu trúc mang đến những xáo trộn lớn trong cả một thời gian tính bằng nhiều năm, những đánh đổi thiệt thòi và mất mát cho nhiều người, nhiều nhóm người và, ngược lại, làm cho nhiều người, nhiều nhóm người được hưởng lợi. Do đó, tái cấu trúc, cũng giống như cải cách và đổi mới, sẽ nhận được sự đồng tình và ủng hộ của một số nhóm người và đồng thời cũng bị tẩy chay quyết liệt bởi nhiều nhóm người khác. Nói cách khác, tái cấu trúc tự thân nó là một quá trình đấu tranh của các lực lượng nội tại và kết quả phụ thuộc vào lực lượng nào sẽ chiếm ưu thế cuối cùng. Trên cái nghĩa này, tái cấu trúc rất có thể sinh ra một sản phẩm dở dang, phế phẩm, hoặc tệ hơn, là một quái thai nếu nhìn từ góc độ lợi ích của toàn nền kinh tế.

Bởi vậy, trước khi thai nghén kế hoạch tái cấu trúc (với giả thiết đó là một kế hoạch tiến bộ) và thực thi nó, một số câu hỏi cần được trả lời dứt khoát, rõ ràng là ai, lực lượng nào sẽ chống đối tái cấu trúc đến cùng; liệu những lực lượng chủ trương tái cấu trúc có đủ sức mạnh, sự khôn ngoan và kiên nhẫn để chế át lực lượng chống đối và lèo lái tái cấu trúc vươn đến đích không; và điều gì là chất keo gắn kết những con người thuộc phe tái cấu trúc với nhau và với lãnh đạo của họ để cùng hướng tới mục tiêu chung tiến bộ trong bối cảnh, suy cho cùng, họ cũng bị lòng tham chi phối.

Nếu không trả lời được những câu hỏi quyết định này, mọi kế hoạch, chương trình tái cấu trúc mãi chỉ là ước nguyện tốt đẹp vì “có sinh mà không có dưỡng”, chính xác hơn là sẽ chết yểu giữa chừng. Những lời hay ý đẹp như “quyết tâm chính trị” hay “sự đồng thuận của tất cả các ngành, các cấp” hay dùng để thuyết phục công luận thường không phải là một cỗ máy ủi mạnh mẽ ủi được các chướng ngại vật trên con đường tái cấu trúc. Chúng cũng không phải là chất keo kết dính được các cá nhân trong lực lượng chủ trương tái cấu trúc và càng không phải là một thứ vũ khí sắc bén để tự gọt rũa mình (lực lượng chủ trương tái cấu trúc) và làm nản lòng lực lượng chống đối. Thực tiễn những năm qua minh họa rõ tình trạng “đầu voi đuôi chuột”, hoặc “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” diễn ra trong nhiều chính sách kinh tế xã hội ở Việt Nam, mà thường không hiếm khi được “khuyến mãi” thêm những lời hay ý đẹp này.

Nếu nhận thức được như vậy, có thể thấy tái cấu trúc nếu được thai nghén và tiến hành một cách “bất cập” sẽ không nhất thiết cứu được nền kinh tế Việt Nam khỏi những nguy cơ đổ vỡ. Trong bối cảnh như vậy, tái cấu trúc (nếu có) có thể mua thêm thời gian nhưng nó không phải là phương thuốc chữa trị cho những căn bệnh kinh niên của nền kinh tế Việt Nam.

Có lẽ chúng ta còn không nhiều thời gian khi đã để xảy đến tình trạng “nước đến chân mới nhẩy”, để cho nền kinh tế Việt Nam lún sâu vào khó khăn bằng chính những sai lầm về chính sách mà cũng chỉ đối phó bằng những chính sách chắp vá, hành chính, trong khi vẫn còn mò mẫm với vấn đề tái cấu trúc, vẫn chưa rõ được ai thắng ai, và, trên hết, vẫn chưa tìm được chất keo nào có thể gắn kết được lực lượng chủ trương tái cấu trúc và lãnh đạo của họ nói riêng và đa phần xã hội nói chungcùng theo mục tiêu chung tiến bộ đặt ra trong chương trình tái cấu trúc.

Thursday 24 November 2011

Tái cấu trúc ngân hàng - Một số công việc cụ thể cần làm (dang tren Dai bieu Nhan dan)

07:11 | 24/11/2011

Trong bài viết “Thực chất của tái cấu trúc kinh tế” đăng trong số trước, chúng ta đã đề cập đến khái niệm tái cấu trúc nhìn dưới góc độ cải cách và đổi mới. Trong bài viết này chúng ta sẽ chỉ ra cụ thể những công việc cần làm trong quá trình “tái cấu trúc”, hay bao quát và quen thuộc hơn là, cải cách và đổi mới hệ thống ngân hàng, vốn được xác định là một trong ba trọng tâm chính của tái cấu trúc kinh tế trong thời gian tới.


Lưu ý rằng ngay cả Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng chỉ mới đưa ra được một số chủ trương chung chung về tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, vẫn chưa trả lời được những câu hỏi bắt đầu từ đâu, làm gì, như thế nào v.v…

Chúng ta sẽ bắt đầu từ việc chỉ ra những nguyên nhân làm cho hệ thống ngân hàng Việt Nam lâm vào tình trạng khó khăn hiện thời và kèm theo đó là những biện pháp xử lý và cải cách.

Nguyên nhân đầu tiên dẫn đến sự hình thành và tích tụ các rủi ro gây đổ vỡ mang tính hệ thống cho hệ thống ngân hàng là sự mở rộng nhanh chóng của hệ thống ngân hàng trong những năm gần đây, NHƯNG không đi kèm với sự tăng cường và hoàn thiện công tác quản lý và phòng ngừa rủi ro, quản trị ngân hàng (như không áp dụng các chuẩn mực quốc tế về phân loại vốn vay, trích lập dự phòng, tính toán mức độ rủi ro của các khoản vay, và công bố thông tin), cũng như công tác thanh tra giám sát của NHNN.

Việc cần làm ở đây không phải là sự sắp xếp lại mang tính cơ học để giảm bớt số lượng ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng nhỏ như nhiều người ở Việt Nam đang cổ xúy. Hệ thống ngân hàng không tự động trở nên khỏe mạnh hơn khi có ít ngân hàng hơn. Chất lượng và phạm vi dịch vụ cũng không được tự động cải thiện khi số lượng ngân hàng được giảm đi, nếu không muốn nói là ngược lại.

Vậy công việc cần làm là buộc các ngân hàng thương mại phải xây dựng được các quy trình quản lý và phòng ngừa rủi ro theo chuẩn mực chung của NHNN (và tiệm cận được với các chuẩn mực quốc tế), và NHNN phải có chế tài để buộc các ngân hàng thương mại áp dụng nghiêm túc các quy trình này. NHNN đóng một vai trò trọng yếu trong việc thắt chặt công tác quản lý và phòng ngừa rủi ro trong hệ thống, thông qua công tác thanh tra giám sát thường xuyên với đội ngũ cán bộ lành nghề giỏi chuyên môn. Những điều này không hề dễ thực hiện như trên thực tế đã cho thấy, khi các ngân hàng thương mại có các động cơ khuyến khích họ coi nhẹ rủi ro, khuyến khích họ làm càn, còn NHNN thì bị trói tay bởi thiếu cán bộ giỏi và không hiếm khi bị qua mặt bởi nạn hối lộ. Nói cách khác, điều quan trọng không chỉ là việc xây dựng và ban hành các quy trình, quy định, luật lệ mà còn phải xóa bỏ các động cơ khuyến khích các ngân hàng thương mại và kể cả NHNN làm sai, làm càn.

Những ngân hàng nào không đáp ứng được các chỉ tiêu hoạt động an toàn và lành mạnh theo các tiêu chí của NHNN đặt ra thì có thể và cần thiết phải xử lý như đối với một doanh nghiệp vi phạm pháp luật thông qua thu hồi giấy phép hoạt động. Đừng vì “cái bình quý” – sự ổn định của hệ thống – mà không dám động đến những “con mèo hư” – những ngân hàng không lành mạnh, không an toàn, để rồi vấn đề rủi ro đạo đức lại tiếp tục làm hư thêm những con mèo khác, cho đến lúc cả hệ thống sụp đổ thì đến mấy NHNN cũng đành bó tay. Việc công khai xử lý các con mèo hư có thể bước đầu gây ra một xáo trộn nào đó trong hệ thống thông qua những phản ứng dây chuyền, nhưng chắc chắn công luận sẽ đồng cảm và hoan nghênh những động thái tăng cường minh bạch, mang tính xây dựng của NHNN. Một lần chịu đau để giảm thiểu nguy cơ tái phát bệnh tật sau này luôn là điều nên làm.

Nguyên nhân thứ hai gây ra rủi ro đổ vỡ hệ thống liên quan đến sự thống trị của các tập đoàn kinh tế và các nhóm lợi ích đối với các ngân hàng thương mại, biến chúng thành nguồn cung cấp vốn cho các hoạt động mạo hiểm, rủi ro của mình (ví dụ như đầu tư và bất động sản và chứng khoán), vốn sẽ dẫn đến nguy cơ suy sụp cả hệ thống ngân hàng khi các thị trường này suy sụp.

Mặc dù NHNN đã có các quy định về tỷ lệ cho vay tối đa với một khách hàng nào đó, nhưng trên thực tế các quy định này thường bị lờ đi, đa phần bởi NHNN khó có khả năng phát hiện ra những mánh lới qua mặt mình (hoặc có khi cán bộ thanh tra NHNN cố tình bỏ qua).

Vậy việc cần làm, cũng giống như ở trên, là phải xóa bỏ các động cơ khuyến khích các ngân hàng thương mại và kể cả NHNN làm sai, làm càn. Với từng ngân hàng, cơ chế theo dõi của các cổ đông sẽ là một công cụ hữu hiệu để cho giới quản lý của ngân hàng nào đó không thể hành động vì quyền lợi của một số cổ đông chính hy sinh các cổ đông thiểu số. Với NHNN, đương nhiên công tác cán bộ (thanh tra, giám sát) có tầm quan trọng đặc biệt và cần áp dụng những cơ chế khuyến khích tập trung được cán bộ giỏi, liêm chính, đồng thời kịp thời phát hiện và trừng phạt những hành vi sai trái.

Nguyên nhân thứ ba góp mặt làm suy yếu hệ thống ngân hàng là sự thiếu hụt nguồn nhân lực ngân hàng lành nghề (nhất là nhân lực liên quan đến công tác đánh giá rủi ro, gồm cả nhân lực cung cấp cho công tác thanh tra, giám sát của NHNN) gây ra bởi sự tăng trưởng quá nhanh của hệ thống ngân hàng. Việc cần làm ở đây là điều hiển nhiên, không cần phải bàn thêm.

Về nguyên nhân thứ tư, mặc dù số lượng ngân hàng đã tăng lên nhanh chóng gần đây, có thể nói hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn bị chi phối bởi một số ông lớn ngân hàng thương mại nhà nước vốn chiếm thị phần đa số trong thị trường ngân hàng. Điều đáng nói là chính phủ và các nhóm lợi ích thường áp đặt các mệnh lệnh hành chính lên các ngân hàng thương mại nhà nước để chỉ định cho vay hoặc can thiệp quá trình thẩm định và cho vay các dự án, các doanh nghiệp, tạo ra rủi ro đạo đức lớn khi các ngân hàng cho vay mà không cần bận tâm đến tính khả thi của dự án, khả năng sống còn của doanh nghiệp. Theo đó là cho vay quá mức, lợi nhuận thấp, dòng tiền hạn chế, và kết cục phát sinh các khoản nợ xấu. Vinashin là một ví dụ đau đớn và sống động cho thực tế này.

Việc cần làm ở đây là phải kiên quyết xóa bỏ cung cách hành động phi thị trường này, có thể hoặc trực tiếp thông qua các quy định luật thành văn cấm các cơ quan, quan chức chính phủ dính líu đến các hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại, hoặc gián tiếp thông qua việc tiếp tục và tăng cường quá trình cổ phần hóa các tổ chức tài chính và ngân hàng thương mại nhà nước, biến nhà nước thành cổ đông không chi phối hoặc không còn nắm giữ cổ phần nữa.

Nguyên nhân thứ năm liên quan đến những biến động kinh tế vĩ mô, trong đó có phần đóng góp của NHNN. Trong những năm trước, nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế, chính sách tiền tệ và tài khóa được nới lỏng tối đa, và tín dụng vì thế tràn ngập nền kinh tế, không những làm tăng áp lực lạm phát mà còn chảy vào các lĩnh vực đầu cơ đầy rủi ro như chứng khoán và bất động sản, kéo theo sự tăng nóng về giá cả của những mặt hàng này, lại kích thích thêm nữa tín dụng ngân hàng chảy vào đó.

Sang năm nay, khi lạm phát đã có dấu hiệu nguy hiểm thì gánh nặng kiềm chế lạm phát lại bị dồn lên vai chính sách tiền tệ. Lãi suất tăng cao, còn tín dụng cho chứng khoán và bất động sản bị thắt lại. Giá chứng khoán và bất động sản sụt giảm làm cho giá trị các khoản thế chấp cũng sụt giảm tương ứng. Đi kèm với đó là tình trạng nhiều nhà đầu cơ mất khả năng thanh toán đã làm tăng tỷ lệ nợ xấu trong lĩnh vực này và làm xấu đi nghiêm trọng bảng cân đối tài sản của nhiều ngân hàng.

Lãi suất VND cao còn dẫn đến chênh lệch lãi suất cho vay bằng VND và USD tăng lên trong khi NHNN tuyên bố là sẽ giữ ổn định tỷ giá. Trong môi trường đó, các doanh nghiệp và ngân hàng được khuyến khích vay nước ngoài, vay bằng ngoại tệ thay vì nội tệ (trong khi nguồn thu trả nợ lại bằng nội tệ) và không bận tâm đến việc phòng ngừa rủi ro (hedging) biến động tỷ giá.

Trong bối cảnh này, biện pháp xử lý phải xuất phát từ NHNN và nói rộng hơn là Chính phủ, theo hướng giảm thiểu chính sách điều hành giật cục, chạy từ thái cực nọ sang thái cực kia trong khoảng thời gian ngắn, dùng chủ yếu là các biện pháp hành chính. Họ cũng phải tự hoàn thiện khả năng hoạch định và lập chính sách, tiên liệu được hậu quả của các chính sách của mình lên nền kinh tế nói chung và lên hệ thống ngân hàng nói riêng. Có thể nói không quá rằng các cơ quan hữu trách đa phần đã không nhận thức và đánh giá được đầy đủ phạm vi tác động của các chính sách của mình.

Thay cho kết luận, với một số việc cần phải làm ngay như nêu ở trên (bên cạnh những công việc khác không được nêu ở đây), tái cấu trúc hệ thống ngân hàng trở thành điều thiết thực hơn, dễ hiểu hơn và, nếu được thực hiện tốt, sẽ mang lại luồng sinh khí mới cho quá trình tái cấu trúc nền kinh tế (thực chất là cải cách và đổi mới) để mang lại sự tăng trưởng bền vững cho Việt Nam. Tuy vậy, sự thay đổi có tầm ảnh hưởng quyết định đến sự thành bại của tái cấu trúc hệ thống ngân hàng lại nằm ở phía Chính phủ nói chung và NHNN nói riêng, mà đôi khi việc thực hiện sao cho đúng đắn mang lại kết quả như mong muốn lại không hề đơn giản khi phải vượt qua chính cái bóng của mình, quá tầm cho phép của nhận thức và tư duy của mình.

Tuesday 22 November 2011

Thực chất của tái cấu trúc kinh tế (dang tren Dai bieu Nhan dan)

Cụm từ tái cấu trúc kinh tế đã trở nên phổ biến gần đây ở mọi cấp, ngành, doanh nghiệp, và người dân khi những vấn đề tồn tại trong tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam đã trở nên rõ nét hơn bao giờ hết. Tái cấu trúc được đặt ra thành một yêu cầu, nhiệm vụ, cũng như sứ mệnh của không chỉ từ các cấp Đảng và chính quyền cao nhất mà còn của từng ngành kinh tế, từng doanh nghiệp. Nhiều người thống nhất với nhau rằng nền kinh tế Việt Nam đã tiến đến một ngưỡng mà không còn đường lùi, và chúng ta đang đứng trước một trong hai lựa chọn bắt buộc: tái cấu trúc hay là chết.

Tuy nhiên, những câu hỏi như thế nào là tái cấu trúc, tại sao phải tái cấu trúc, bắt đầu từ đâu, tiến hành như thế nào, có những điều kiện cần và đủ nào để tái cấu trúc, phạm vi tái cấu trúc đến đâu và ai là đối tượng của nó, quá trình tái cấu trúc có kết thúc hay không và nếu có thì sẽ kết thúc vào thời điểm nào, sau tái cấu trúc là gì, cần làm gì v.v… là một loạt những câu hỏi cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Điều đáng ngạc nhiên hơn là vấn đề tái cơ cấu đã được đặt ra trong một bối cảnh hoàn toàn không có gì rõ ràng như vậy,

Các văn kiện, tuyên bố và phát biểu của các cơ quan hữu trách, quan chức và chuyên gia dường như thống nhất ở một điểm rằng tái cấu trúc kinh tế là một sự tổ chức, sắp xếp lại (kèm theo giải thể và sát nhập) cả nền kinh tế, từng ngành kinh tế, từng khu vực doanh nghiệp, từng doanh nghiệp theo hướng nhỏ gọn hơn, “tinh” hơn và có hiệu quả hơn. Cũng không ít người thêm rằng tái cấu trúc bao hàm cả nghĩa đổi mới mô hình cũng như cách thức tăng trưởng và hoạt động của các chủ thể kinh tế.

Nhưng nếu như vậy, tái cấu trúc kinh tế về thực chất chỉ là sự cải cách và đổi mới kinh tế, những khái niệm đã quá quen thuộc với chúng ta từ hơn 2 thập kỷ trước đây bắt đầu từ công cuộc đổi mới và mở cửa được chính thức khởi xướng bởi Đại hội Đảng VI năm 1986 và tiếp tục sau đó nhiều năm với hàng loạt cải cách trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế và xã hội. Bản thân cụm từ cải cách và đổi mới này (và với thực tế những gì đã được thực thi, cũng như đã xảy ra trong những năm tiến hành cải cách và đổi mới) đã phản ánh chính xác nhu cầu đặt cho, và cách hiểu về tái cấu trúc kinh tế đang đặt ra hiện nay. Ngay cả ba lĩnh vực cụ thể sẽ diễn ra tái cấu trúc mà chúng ta đã xác định được là doanh nghiệp nhà nước, hệ thống ngân hàng, và đầu tư công cũng đều là những lĩnh vực mà trước đây đã diễn ra những cuộc cải cách lớn dựa một phần trên các nguyên lý kinh tế thị trường.

Và câu hỏi tất yếu tiếp theo là tại sao chúng ta không dùng, không muốn dùng đến cụm từ cải cách và đổi mới thay cho cụm từ “thời thượng” là tái cấu trúc để mô tả cùng một công việc?

Có một số khả năng có thể là nguyên nhân của vấn đề này. Thứ nhất, công cuộc cải cách và đổi mới khởi xướng từ năm 1986 và diễn ra trong những năm sau đó đã bị quên lãng sau khi một số mục tiêu đặt ra ban đầu đã được thực hiện và (được cho rằng) đã đạt kết quả (ví dụ, tạo lập một nền kinh tế nhiều thành phần, tạo lập một hệ thống ngân hàng có ngân hàng trung ương và các ngân hàng thương mại hoạt động theo nguyên tắc thị trường). Việc tiếp tục các biện pháp cải cách để duy trì và hoàn thiện những thành quả này hoặc chưa bao giờ được đặt ra (một cách nghiêm túc) hoặc chỉ là những nhu cầu thứ yếu. Thứ hai, cải cách và đổi mới còn nhanh chóng bị quên lãng một cách có chủ ý khi những tác động đến từ bên ngoài lẫn nội tại (ví dụ như khủng hoảng tài chính khu vực hoặc bất ổn vĩ mô trong nước) đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực cho kinh tế xã hội Việt Nam. Trước nhu cầu cấp thiết ổn định hóa và bảo vệ nền kinh tế khỏi sự sụp đổ dây chuyền, vấn đề cải cách và đổi mới đã tạm bị gác sang một bên rồi hầu như bị lãng quên hẳn theo thời gian và thứ tự ưu tiên của các mục tiêu. Thứ ba, sau khi được cởi trói, nền kinh tế đã tăng trưởng mạnh mẽ và kéo theo nó là sự hình thành và ngày càng lớn mạnh của hàng loạt nhóm lợi ích khuynh đảo đến tiến trình hoạch định và thực thi chính sách. Sự chống đối mạnh mẽ của các nhóm lợi ích đã làm gián đoạn hoặc gần như ngừng trệ một số chương trình, biện pháp cải cách nào đó (ví dụ như cải cách và cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước).

Trên hết, cải cách và đổi mới đã không được nhận thức đúng rằng đó không phải là công việc làm một lần là xong rồi thôi, mà là một quá trình thường xuyên và liên tục nhằm hướng tới sự tự hoàn thiện và theo kịp những diễn biến từ bên ngoài và đòi hỏi từ bên trong.

Với những lý do như trên và những lý do có thể có khác, việc khởi động chương trình tái cơ cấu kinh tế thay cho việc nối lại và/hoặc tiếp tục các chương trình và biện pháp cải cách, đổi mới (mà về bản chất đã bao hàm cả việc tái cơ cấu) có thể dẫn đến ý nghĩ trong ai đó rằng chúng ta đang không muốn nhắc lại sai lầm đã mắc phải (sao nhãng, làm nửa vời và lãng quên cải cách và đổi mới).

Như vậy có thể thấy, việc tiếp tục nối lại công cuộc cải cách và đổi mới kinh tế (với một số điều chỉnh và thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh mới) là điều cần thiết hiện nay, thay vì đưa ra một khái niệm mới vẫn còn rất xa lạ, tuy về bản chất thì không khác gì. Và cũng có thể thấy Ts Lê Đăng Doanh đã rất có lý khi nói Việt Nam cần một công cuộc đổi mới lần thứ hai. Người viết thì muốn được mượn ý tưởng của ông để nói cho chính xác hơn là Việt Nam cần tiếp tục công cuộc đổi mới đã bị bỏ bễ hàng chục năm qua.

Nhưng dù có dùng khái niệm nào chăng nữa, bài học rút ra từ quá khứ và cả thực tiễn hiện nay cho thấy cải cách và đổi mới hay tái cấu trúc phải được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục, nhất quán, kiên quyết với mục đích tối thượng là làm cho các chủ thể, các lĩnh vực kinh tế ngày càng hoàn thiện, luôn hoạt động lành mạnh theo các nguyên lý thị trường và không bị chi phối, bẻ cong hoặc chấm dứt giữa chừng bởi các nhóm lợi ích. Nếu không xác quyết được điều này thì các kết quả nếu có đạt được chỉ là ngắn hạn.

Tết đến nơi, có nên thực hiện bình ổn giá? (bai dang tren VEF)

(VEF.VN) - Sau khi xem xét kỹ tác động và hậu quả, chủ trương "thí điểm" và "nhân rộng" việc bình ổn giá, coi đó là một chìa khóa thành công trong việc kiểm soát lạm phát ở TP.HCM và Hà Nội, cần phải được xem xét lại sớm nhất có thể - TS. Phan Minh Ngọc.

LTS: Khi thực hiện thí điểm chương trình bình ổn giá, rất nhiều chuyên gia đã bày tỏ sự không đồng tình và hoài nghi về hiệu quả của nó. Bài viết dưới đây của TS. Phan Minh Ngọc cũng khuyến cáo cần xem xét lại việc triển khai chương trình này. Mời độc giả cùng tham gia tranh luận về chủ đề trên.

TP.HCM, Hà Nội và có lẽ lác đác một số nơi khác, đã và đang thực hiện một số chương trình bình ổn giá cả bằng cách trợ cấp tín dụng (cho vay với lãi suất ưu đãi) để doanh nghiệp tham gia bình ổn giá cả mua tích trữ hàng hóa và cam kết bán ra với giá thấp hơn giá thị trường, thường là 10% hay một con số nào đó.

Nói công bằng, việc trợ giá cho một số loại hàng hóa nào đó không phải là việc làm đầu tiên có ở Việt Nam và chỉ có ở Việt Nam, mà đã được thực hiện nhiều nơi trên thế giới. Hình thức phân phối hàng hóa theo tem phiếu ở Việt Nam nói riêng và ở nhiều nơi trên thế giới nói chung đã và vẫn đang tồn tại. Nhưng bài viết này sẽ chỉ ra rằng, việc bình ổn giá sẽ không mang lại kết quả như mong muốn, và rốt cuộc chỉ làm lãng phí nguồn lực xã hội, hoặc tái phân phối nguồn lực xã hội một cách không cần thiết, không hợp lý, không tối ưu..v..v...

Hãy bắt đầu bằng việc phân tích lý do sản sinh ra chủ trương bình ổn giá. Việc giá cả một loại hàng hóa nào đó tăng lên là biểu hiện sự mất cân đối cung cầu - cung nhỏ hơn cầu (cung và cầu đều có thể biến động tăng giảm nhưng chênh lệch cung cầu đang tồn tại và tăng lên). Để ổn định giá bán hàng hóa - gây ra do cầu lớn hơn cung, chính quyền phải bù đắp phần chênh lệch về giá trước và sau khi có biến động cung cầu này.

Vấn đề sẽ nằm ở chỗ ảnh hưởng của việc trợ giá này lên cán cân cung cầu hàng hóa sẽ như thế nào? Người ta dường như không thấy ảnh hưởng trực tiếp vì rõ ràng, tiền trợ giá là từ ngân sách, có vẻ như không ảnh hưởng đến cung của doanh nghiệp và cầu của đại chúng. Nhưng xét kỹ thì sự việc sẽ khác hẳn.

Về phía cầu, giả thiết rằng giá cả thị trường của một hay một số mặt hàng nào đó sẽ tăng lên sau một thời gian nhất định, chẳng hạn 2 tháng nữa, là thời điểm Tết, do nhu cầu của người tiêu dùng tăng mạnh.

Để bình ổn, chính quyền cấp vốn rẻ (thường với lãi suất bằng 0) cho doanh nghiệp thương mại mua và tích trữ hàng trong kho ngay từ bây giờ, chờ 2 tháng nữa tung ra thị trường. Nhưng việc này vô hình trung đã làm tăng cầu tại thời điểm hiện tại lên quá mức thông thường. Với cung không kịp điều chỉnh trong ngắn hạn thì giá cả của những mặt hàng bình ổn buộc phải tăng, phản ánh đúng tình trạng mất cân đối cung cầu tăng lên. Cái giá phải trả cho hành động bình ổn này là lạm phát (tức hiện tượng giá cả tăng lên) sẽ tăng lên ở thời điểm hiện tại (với giả thiết mọi điều kiện khác không thay đổi). Nói cách khác, bình ổn sẽ dẫn đến hậu quả là dịch chuyển thời điểm gây lạm phát trong tương lai đến thời điểm hiện tại; lạm phát thay vì xảy ra trong tương lai sẽ xảy ra tại thời điểm hiện tại, bản chất sự việc (bình ổn giá cả, nhằm kiềm chế lạm phát) không được thay đổi theo chiều hướng tốt hơn.

Về phía cung, dùng một phần ngân sách để bình ổn giá cả sẽ dẫn đến tình trạng có khả năng phải cắt giảm phần kinh phí dùng để hỗ trợ sản xuất (nếu đã, đang, và sẽ có) cho các doanh nghiệp (về phía cung, ví dụ như hình thức vay ưu đãi để sản xuất). Hậu quả của tình trạng này là nguồn cung không thể gia tăng (tất nhiên với giả thiết là các điều kiện khác vẫn không thay đổi), và do đó, càng làm tăng thêm bất cân đối cung cầu như nói ở trên.

Đáng nói hơn nữa, dùng ngân sách để bù giá trong bối cảnh ngân sách của Trung ương và địa phương luôn ở tình trạng thâm hụt kinh niên sẽ tạo thêm áp lực thâm hụt ngân sách, tùy thuộc vào quy mô bù giá. Thâm hụt ngân sách sẽ phải được trang trải bằng hoặc vay nợ trực tiếp từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tức là một dạng tăng cung tiền qua hành động in tiền của NHNN vào lưu thông, hoặc bằng cách "an toàn" hơn là đi vay mượn trong nước và/hoặc ngoài nước (thông qua phát hành trái phiếu nội tệ, ngoại tệ).

Tất nhiên, một khả năng khác là phải tăng nguồn thu ngân sách, thông qua các biện pháp như tăng thuế, nhưng những biện pháp này hoặc là dẫn đến cắt giảm đầu tư của doanh nghiệp sản xuất (và tức là làm giảm cung), hoặc là đã được cố gắng thực hiện nhưng kết quả không được như mong đợi, thể hiện rõ qua việc thâm hụt ngân sách đã và đang tồn tại từ hàng vài chục năm nay mà không hề có xu hướng được cải thiện.

Như thế, hai biện pháp khả thi để tài trợ thâm hụt ngân sách gây ra bởi việc bù giá (lại giả thiết các điều kiện khác không thay đổi) sẽ dẫn đến những hậu quả tai hại lên giá cả. Nếu tài trợ bằng việc in tiền từ NHNN thì sẽ làm tăng áp lực lạm phát, kỳ vọng lạm phát, và rốt cuộc lạm phát, theo đó mặt bằng giá cả của hàng hóa nói chung sẽ tăng lên. Nói cách khác, cho dù các mặt hàng được bình ổn giá có thể không tăng nhưng, đổi lại, người tiêu dùng sẽ phải trả giá cao hơn cho vô vàn những mặt hàng tiêu dùng khác, và cuối cùng thì gánh nặng chi tiêu không hề giảm, nếu không muốn nói là cao hơn so với không có bình ổn giá.

Nếu tài trợ bằng vay nợ trong và ngoài nước thì hậu quả sẽ là tăng lãi suất VND (trường hợp huy động bằng nội tệ) hoặc tăng vay nợ nước ngoài (trường hợp huy động bằng ngoại tệ). Tăng lãi suất VND lại sẽ có tác dụng tiêu cực ngược lên phía cung, làm tăng thêm bất cân đối cung cầu hàng hóa như đã nói.

Đối với việc đi vay nước ngoài, tùy thuộc phản ứng của NHNN, tăng vay nợ nước ngoài sẽ hoặc là làm tăng lãi suất VND (1), hoặc là tăng giá VND (2). Cả hai khả năng này đều tác động tiêu cực đến phía cung hàng hóa khi nó làm tăng chi phí sản xuất đầu vào cho doanh nghiệp.

Ngoài ra, trong trường hợp Chính phủ vay nợ bằng ngoại tệ, khi đến hạn phải trả nợ lãi và vốn, nếu Chính phủ không thể thu xếp được nguồn ngoại tệ để chi trả (cũng vì lý do ngân sách luôn ở trạng thái thâm hụt, giật gấu vá vai), Chính phủ sẽ buộc phải vay mượn trong và ngoài nước, lặp lại vòng luẩn quẩn nói trên. Trường hợp xấu hơn, Chính phủ buộc phải vay ngoại tệ trực tiếp từ NHNN, và do đó làm giảm dự trữ ngoại tệ của NHNN, và tức là giảm khả năng can thiệp vào tỷ giá khi có các biến động vĩ mô bất lợi cho VND (3).

Bên cạnh những tác động tiêu cực lên cân đối thu chi ngân sách và, do đó, lên cung cầu hàng hóa, hành động bình ổn giá cả còn vô tác dụng nếu nó chỉ được thực hiện ở một hay một số địa phương. Việc thực hiện bình ổn giá ở TP.HCM theo lý thuyết sẽ ổn định được giá cả tại đó. Vì chênh lệch giá giữa nơi này và các địa phương trong cả nước, nhất là địa phương lân cận, thương nhân ở các địa phương sẽ đến mua hàng ở đây mang về địa phương mình bán, hưởng chênh lệch giá. Vì thế, theo thời gian, có thể là rất ngắn, chỉ một vài ngày hoặc vài tuần, chênh lệch giá cả sẽ biến mất giữa các địa phương, theo đúng quy luật cung cầu. Nói cách khác, một mình giới doanh nghiệp và thương nghiệp ở TP.HCM sẽ không đủ sức để cáng đáng bình ổn giá cả cho toàn bộ một vùng rộng lớn hơn, nếu không nói là cả nước. Rốt cuộc, của Thiên trả Địa, và mục đích bình ổn, dù chỉ là tại một địa phương, sẽ không được thực hiện.

Lưu ý thêm rằng ở đây chúng ta không đề cập đến chuyện gian lận trong việc thực hiện chương trình bình ổn giá, mặc dù chuyện này dường như không thể tránh khỏi, và do đó làm giảm hơn nữa hiệu quả của việc làm này.

Tóm lại, xem xét kỹ tác động và hậu quả thì hoàn toàn không nên lặp lại hình thức bình ổn giá, một hình thức thu hẹp và biến tướng của chính sách bao cấp về giá trong cả nền kinh tế thời cách đây 2-3 thập kỷ, vốn đã được thực tế chứng minh là một thất bại. Vì thế, những chủ trương "thí điểm" và "nhân rộng" việc bình ổn giá, coi đó là một chìa khóa thành công trong việc kiểm soát lạm phát ở những nơi như TP.HCM và Hà Nội cần phải được xem xét lại sớm nhất có thể.
_______________________

Chú thích:

(1). Trường hợp này xảy ra khi NHNN không can thiệp gì vào thị trường ngoại hối và tiền tệ. Hành động hoán đổi ngoại tệ đi vay ra VND của Chính phủ để tài trợ cho chi tiêu của các doanh nghiệp tham gia bình ổn giá ở Việt Nam sẽ làm cầu VND tăng lên, dẫn đến lãi suất VND cũng tăng lên tương ứng so với USD.

(2). Nếu NHNN theo đuổi chính sách ổn định lãi suất VND thì lúc này NHNN buộc phải tăng cung VND tương ứng với lượng ngoại tệ mới tăng thêm trong nền kinh tế do vay mượn từ nước ngoài theo tỷ giá hiện thời

(3). Khi đến hạn trả nợ lãi và vốn vay, Chính phủ phải tiếp tục một lần nữa vay mượn VND trên thị trường trong nước để mua ngoại tệ, hoặc trực tiếp vay nước ngoài bằng ngoại tệ, lặp lại vòng luẩn quẩn nói trên. Trường hợp xấu hơn, Chính phủ buộc phải vay ngoại tệ trực tiếp từ quỹ dự trữ ngoại tệ NHNN để trả nợ.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).