Friday 29 July 2011

Bình luận về bài viết của tác giả Hải Lý trên TBKTSG số 645 về giải pháp vừa hạ được lãi suất vừa chống được lạm phát

Trong bài viết: “Liệu pháp nặng ký cho lãi suất” của tác giả Hải Lý trên TBKTSG số 645 (link: http://www.thesaigontimes.vn/epaper2010/TB-KTSG/645/#/17), tác giả đã đề xuất những giải pháp chống lạm phát mà vẫn được hạ lãi suất. Trước tiên cần đánh giá cao tinh thần sáng tạo và mạnh dạn của tác giả khi cố gắng đưa ra những giải pháp “không đụng hàng” nhằm giải quyết triệt để vấn đề nóng – lạm phát và lãi suất cao – hiện nay nhằm đảm bảo hài hòa lợi ích chung (kiềm chế được lạm phát) và lợi ích cục bộ (doanh nghiệp tiếp cận được lãi suất thấp), tuy tác giả cũng nhấn mạnh đây chỉ là những đề xuất và mong nhận được ý kiến trao đổi.
Vì khó khái quát được điểm chung trong những giải pháp của tác giả nên ở đây tớ chọn cách bình luận theo từng điểm/giải pháp mà tác giả nêu ra.
Mở đầu bài, như là một cách đặt vấn đề, tác giả nêu ra trường hợp Xi măng Bỉm Sơn lỗ gần 22 tỷ đồng trong quý 2 năm nay là do chi phí lãi vay tăng vọt (từ 2,5 tỷ đồng quý 2 năm trước lên 103 tỷ đồng; lãi vay trong 6 tháng đầu năm lên tới 198 tỷ đồng) và kết luận luôn rằng lợi nhuận làm ra bao nhiêu chỉ đủ để trả lãi ngân hàng. Đây là một kiểu tư duy rất phổ biến hiện nay, tuy nó rất chủ quan, và có thể hoàn toàn phiến diện, sai lệch, dẫn đến những kết luận cũng mang tính chủ quan, suy diễn, khái quát hóa những điều không có thật hoặc không phải là một hiện tượng phổ biến.
Điều tối thiểu khi phân tích chuyện công nợ của một doanh nghiệp là phải nhìn vào biến động vốn vay của doanh nghiệp trước đây, hiện tại, và trong tương lai gần. Bỉm Sơn đã phải trả lãi vay tăng vọt không chỉ bởi lãi suất tăng vọt (là điều mà lẽ ra phải được đưa ra để chứng minh là có thế thật, cụ thể là tăng từ bao nhiêu % lên bao nhiêu %) mà còn chắc chắn phần lớn là do công ty đã vay mượn nhiều hơn rất nhiều so với cùng kỳ năm trước. Để minh họa (một cách sơ khai vì không có đủ dữ liệu và chính xác), với 2,5 tỷ đồng lãi trong quý 2 năm trước, với giả thiết lãi suất lúc đó chỉ là 10%/năm thì có thể suy ra số vốn vay ngân hàng là 25 tỷ (lưu ý, lãi suất càng cao thì số vốn vay càng nhỏ để cho ra được số lãi phải trả là 2,5 tỷ đồng). Sang quý 2 năm nay, giả sử lãi suất mà Bỉm Sơn phải trả tăng vọt lên 25%/năm (tăng 250%!). Với số tiền lãi đã trả là 103 tỷ đồng, có thể suy ra trong quý 2 Bỉm Sơn đã có một số vốn vay ngân hàng là 412 tỷ đồng (tăng 1,650%!). Nếu lãi suất cho vay chỉ là 20%/năm thì số vốn vay tương ứng là 515 tỷ đồng (số nợ còn lớn hơn nữa!). Còn nếu lãi suất thấp hơn nữa, ví dụ, 15%/năm thì số vốn vay phải là 687 tỷ đồng (tiếp tục lớn hơn!). Có nghĩa là dù với mức lãi suất thế nào chăng nữa cũng chỉ cho thấy một điều rằng tiền lãi của công ty đã tăng vọt chủ yếu bởi công ty đã vay mượn đột biến quá nhiều trong quý 2. Điều này có thể là do công ty bắt tay đầu tư vào một dự án mới hoặc dự án mở rộng, hoặc có một (vài) khỏan đầu tư tài chính, bất động sản, tham gia góp vốn liên doanh v.v... nào đó, hoặc đơn giản là phải thực hiện một nghĩa vụ tài chính nào đó mà phải đi vay vì không còn đủ tiền mặt và các tài sản có tính như tiền mặt.
Tóm lại là có thể có nhiều lý do nhưng chắc chắn lãi suất không phải là lý do chủ yếu để làm tăng tiền lãi vay như tác giả Hải Lý nhận định. Khi đã “vung tay quá trán” như thế này rồi thì cho dù có đúng như tác giả kết luận “lợi nhuận làm ra không đủ để trả lãi ngân hàng” thì âu cũng là điều dễ hiểu và không thể chĩa mũi dùi sang chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) được như tác giả và dư luận hiện nay đang làm.
Tuy tiền đề đã sai (lạm phát cao à thắt chặt tiền tệ à lãi suất cao àdoanh nghiệp sản xuất đình đốn à cần hạ lãi suất NHƯNG vẫn chống được lạm phát) , lẽ ra không cần phải phản biện hay phân tích những giải pháp cho một mối liên hệ không tồn tại, nhưng tớ thấy có nhiều điều đáng nói trong bản thân các giải pháp của tác giả nên tớ tiếp tục phần sau.
Về nguyên nhân lãi suất cao, tác giả cho rằng trước hết là do tổng phương tiện thanh toán co hẹp vì doanh nghiệp đã rút ra khỏi ngân hàng 156 nghìn tỷ đồng, với lý do, theo tác giả, bởi lãi suất cao và khó vay vốn.  Lập luận này thiếu logic. cứ cho là doanh nghiệp đã rút ra khỏi hệ thống ngân hàng từng đó vốn, nhưng tổng phương tiện thanh toán (theo giải thích của tác giả là gồm tiền gửi ngân hàng và tiền trong lưu thông) phải là không đổi vì tổng tiền gửi ngân hàng giảm đi phải đúng bằng lượng tiền tăng lên trong lưu thông. Doanh nghiệp rút tiền từ ngân hàng ra nếu không gửi lại vào ngân hàng khác thì chỉ còn một con đường nữa là mang ra chi tiêu (tức là tung vào lưu thông).[1] Lẽ ra, để chứng minh chuyện này, tác giả cần tìm được con số thống kê cho thấy tổng phương tiện thanh toán đã giảm so với trước (ví dụ so sánh tại thời điểm nào đó trước khi Chính phủ ra Nghị quyết 11 và thời điểm hiện nay), chứ không phải là chứng minh cho thấy  có sự dịch chuyển trong nội bộ tổng phương tiện thanh toán.
Nhân liên quan đến chuyện này, nếu đúng theo tác giả rằng doanh nghiệp đã rút vốn ra khỏi ngân hàng vì lãi suất cao và khó vay vốn, suy ra là doanh nghiệp trước đây có một số vốn bằng tiền mặt nhàn rỗi (không mang ra đầu tư, chi tiêu), gửi vào ngân hàng để hưởng lãi trong khi lại đi vay ngân hàng một số vốn khác. Điều này có nghĩa là có nhiều doanh nghiệp đã được tiếp cận với tín dụng lãi suất thấp hơn cả lãi suất tiền gửi, và họ đã lợi dụng chuyện chênh lệch này để ngồi không hưởng lợi.  Thế thì hiện nay việc nâng lãi suất, cắt các khoản cho vay ưu đãi để khắc phục tình trạng bất hợp lý này (buộc doanh nghiệp phải dùng đến các khoản tiền mặt nhàn rỗi) là một điều hợp lý nên làm chứ, sao lại kêu gọi giảm lãi suất làm gì?
Nguyên nhân thứ hai làm tăng lãi suất, theo tác giả, là do sự cạnh tranh lãi suất giữa ngân hàng nhỏ với ngân hàng lớn vì phải giữ chân khách gửi tiền, mặc dù “thanh khoản ngân hàng đã dễ thở hơn” kể từ khi NHNN kiểm soát gắt gao tăng trưởng tín dụng cho phi sản xuất và có sự dịch chuyển tiền gửi từ ngoại tệ và vàng sang tiền đồng. Đây cũng là một lập luận thiếu logic. Nếu, theo tác giả, “thanh khoản ngân hàng đã dễ thở hơn” và thậm chí các ngân hàng lớn còn thừa vốn đến mức tham gia mua trái phiếu Chính phủ, có nghĩa là tổng cung tiền đã tăng lên (không thể nói khác đi được), và áp lực để giữ lãi suất cao nhằm giữ chân khách không còn mạnh nữa, ít nhất là đối với các ngân hàng lớn có thừa vốn này. Vậy các ngân hàng nhỏ lẽ ra phải cảm thấy dễ thở hơn chứ vì lẽ ra chỉ cần duy trì mức lãi suất hiện tại (không cần phải tăng lãi suất) là đủ để giữ chân khách (theo mạch logic của tác giả thì ngân hàng lớn không cần phải cạnh tranh với ngân hàng nhỏ về lãi suất). Nói cách khác, nhìn cả từ ngân hàng nhỏ và ngân hàng lớn thì rõ ràng áp lực tăng lãi suất hiện nay đã không còn lớn như so với trước đây. Suy ra tiếp, chuyện cạnh tranh lãi suất hiện nay không phải là nguyên nhân trực tiếp làm cho/duy trì lãi suất cao.
Trong đoạn nói về tái cấp vốn và tăng dự trữ bắt buộc (DTBB), tác giả cho rằng NHNN hạ lãi suất thị trường mở từ 15% xuống 14% đã không giải quyết được “cội gốc” của vấn đề (làm cho lãi suất cao? - NV) và làm cho dư luận hiểu sai rằng đây là tín hiệu nới lỏng tiền tệ. Cần nói ngay rằng hành động này của NHNN thực chất là một hành động nới lỏng cung tiền, dù được mô tả dưới bất kỳ một tên gọi nào. Và hành động này chắc chắn (nếu tiếp tục, và/hoặc ở quy mô lớn) sẽ làm giảm lãi suất tiền gửi và cho vay trong nền kinh tế. Đây cũng cần được coi là một trong những hành động giải quyết “cội gốc” của vấn đề lãi suất cao, một trong những hoạt động nghiệp vụ cơ bản của NHTW, chứ không như tác giả nhìn nhận.
Tác giả lập luận tiếp, “cái gốc của tiền tệ là sự mất cân đối của kỳ hạn dòng vốn và sự lồi lõm của nguồn vốn”. Không hiểu “cái gốc của tiền tệ” ở đây là tác giả muốn nói đến cái gì, nhưng theo mạch của bài thì có thể đoán rằng tác giả đang nói đến “cội gốc” của lãi suất cao. Nếu đúng vậy thì tác giả lại bất nhất với chính lập luận của mình khi phần trên tác giả chỉ ra lãi suất cao là bởi tín dụng thắt chặt, ảnh hưởng đến thanh khoản ngân hàng (ngay tại điểm này tác giả cũng lại mâu thuẫn vì như đã cho thấy ở phần nói đến sự cạnh tranh giữa ngân hàng lớn và ngân hàng nhỏ, tác giả công nhận rằng thanh khoản đã được cải thiện, nhưng trên thực tế lãi suất lại không giảm).
Tác giả chỉ ra rằng “tái cấp vốn cho ngân hàng nhỏ trên cơ sở thế chấp vốn điều lệ là biện pháp hữu hiệu nhưng đã không được tiến hành”. Lại là một lập luận không rõ ràng. Biện pháp cho cái gì? Để “cứu” thanh khoản trong hệ thống ngân hàng? Để cứu các ngân hàng nhỏ khỏi đổ vỡ do không huy động được vốn? Dù vì lý do nào chăng nữa, tại sao NHNN phải tiến hành tái cấp vốn cho ngân hàng nhỏ? Cũng đã có thống kê, đánh giá nào cho thấy, và ai lên tiếng cảnh báo rằng, các ngân hàng nhỏ đang thua lỗ, có khả năng mất thanh khoản gây ra đổ vỡ dây chuyền trong hệ thống ngân hàng đâu, và NHNN cần phải tái cấp vốn cho họ ngay bây giờ để cứu chúng đâu?
Thực ra, chuyện tái cấp vốn này không phải là điều mới mẻ gì, và thường được thực hiện chỉ trong những tình huống cực đoan, khi NHTW cần phải cứu giúp một ngân hàng nào đó đang phải đối mặt với khả năng phá sản, như ở Mỹ mới gần đây nhất. Nếu tác giả cho rằng cần phải “đưa nước xa đến lửa gần”, tái cấp vốn để phòng ngừa và dập tắt những cơn sốt thanh khoản thì tốt nhất NHNN ngay từ đầu đừng thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nữa, vì điều này (khó khăn về thanh khoản) là khó tránh khỏi. Thay vào đó, lẽ ra tác giả phải đề xuất giải pháp phòng ngừa là NHNN phải hoàn thiện các tiêu chí hoạt động an toàn trong hệ thống và tăng cường công tác giám sát quản lý rủi ro để không một ngân hàng nào, dù nhỏ hay lớn, bị rơi vào tình huống mất thanh khoản dù trong bất cứ hoàn cảnh nào (ví dụ, chính sách tiền tệ  thắt chặt hay nới lỏng), và nếu có thì sớm phát hiện ra và có giải pháp cấp cứu như chuyện tái cấp vốn nêu trên.
Bước tiếp theo mà tác giả đề xuất (để tăng thanh khoản? – NV), là việc NHNN phải tăng dự trữ bắt buộc (DTBB) tiền đồng (chính xác hơn phải nói là tăng “tỷ lệ DTBB” – NV) và tăng lãi suất dự trữ bắt buộc lên 12%-13%/năm. Ở đây có thể thấy ngay mấy cái mâu thuẫn và bất hợp lý. Nếu đã tăng tỷ lệ DTBB thì đồng nghĩa với thắt chặt cung tiền (vì NHNN sẽ để phần DTBB thu được này trong két sắt của mình chứ không tung ra lưu thông nữa – một hành động nghiệp vụ căn bản khi muốn giảm cung tiền, giảm tổng phương tiện thanh toán. Hạ tỷ lệ DTBB sẽ nhằm mục đích ngược lại). Và khi đó lãi suất sẽ tăng lên vì chi phí huy động vốn của ngân hàng thương mại bị đội lên (phải dành một tỷ trọng vốn huy động được gửi vào NHNN với lãi suất thấp hơn lãi suất huy động). Nhưng ở đoạn sau đó, dường như tác giả lại hiểu rằng NHNN sẽ và nên dùng DTBB này để cho vay lại các ngân hàng nào có nhu cầu! Một cách hiểu lầm tai hại, cho dù có được biện minh dưới cái nhãn “lấy mỡ ngân hàng để nuôi ngân hàng”, vì đó không và chưa bao giờ là mục đích của công cụ DTBB của NHTW cả! Để đơn giản và dễ làm hơn rất nhiều, tại sao tác giả không đề xuất NHNN áp dụng tỷ lệ DTBB khác nhau cho từng (nhóm) ngân hàng khác nhau, tùy thuộc vào trạng thái sức khỏe và nhu cầu của từng (nhóm) ngân hàng? Làm thế cũng tức là gián tiếp lấy của kẻ giàu chia cho người nghèo rồi đấy (tuy tớ cũng phản đối luôn cách này vì nó rất hành chính, khiên cưỡng, chủ quan, dễ gây bất đồng vì cách phân hạng và nhu cầu v.v...). Lưu ý thêm rằng áp dụng tỷ lệ DTBB khác nhau cũng có thể bao hàm cả việc hạ tỷ lệ DTBB cho một số ngân hàng nào đó (trong khi tăng tỷ lệ DTBB của các ngân hàng khác), nhằm đạt được mục đích mà tác giả mong muốn là “lấy mỡ ngân hàng nuôi ngân hàng”, vì khi hạ tỷ lệ DTBB cho một số ngân hàng (trong khi tăng tỷ lệ DTBB của các ngân hàng khác) có nghĩa là các ngân hàng này có thêm vốn khả dụng trong tay (trong khi lượng vốn khả dụng ở các ngân hàng còn lại bị giảm đi, làm cho tổng lượng tín dụng trong nền kinh tế không thay đổi, khắc phục được tình trạng mà theo tác giả gọi là “sự lồi lõm của nguồn vốn”).
Việc đề xuất tăng lãi suất DTBB cũng vậy, có lẽ đều xuất phát từ cái suy nghĩ lấn cấn và sai lầm là làm sao cho vừa không làm tăng tổng cung tiền, vừa làm lãi suất giảm. Thực tế, DTBB hoặc là không hưởng lãi suất, hoặc là lãi suất cực thấp so với lãi suất thương mại thông thường (thế mới gọi là “bắt buộc”). Nếu tác giả cứ “thương” giới ngân hàng thương mại và muốn cứu giúp chúng bằng công cụ DTBB, cụ thể ở đây là nâng lãi suất trả cho DTBB, thì hành động này về bản chất cũng tương đương với việc hạ tỷ lệ DTBB. Nhưng như vậy, hành động này sẽ làm cho cung tiền tăng lên, vi phạm nguyên tắc chống lạm phát. Nếu tác giả lý luận rằng phải kết hợp cả 2 động thái – vừa tăng tỷ lệ DTBB, vừa tăng lãi suất DTBB – thì rốt cuộc thanh khoản (của 1 ngân hàng thương mại cụ thể nào đó hoặc toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại) có thay đổi gì đâu? Động thái đầu làm giảm thanh khoản trong khi động thái sau làm tăng thanh khoản, giả sử cùng một mức độ. Vậy thì công cụ DTBB không thể dùng trong trường hợp mà tác giả đang đề xuất, vừa giảm lãi suất, vừa giữ cung tiền không thay đổi (trừ trường hợp tớ đã nêu là áp dụng tỷ lệ DTBB khác nhau cho từng (nhóm) ngân hàng thương mại).
Để kết luận lại cả một bài viết rất dài của tác giả Hải Lý và của tớ nữa, cần nói rằng tác giả và nhiều người dường như quên rằng mục tiêu hàng đầu hiện nay của NHNN là chống lạm phát, và để chống được lạm phát thì cung tiền phải được thắt chặt (hơn). Hậu quả tất yếu và cái giá phải trả là lãi suất tăng vọt (cả lãi suất tiền gửi và cho vay), thanh khoản giảm sút, tổng phương tiện thanh toán hoặc tăng chậm hơn so với trước đó, hoặc giữ nguyên, hoặc thậm chí co hẹp lại, nhằm hút tiền từ lưu thông về két sắt của NHNN. Không có cách nào thực hiện được cả 2 mục tiêu mâu thuẫn cùng lúc: chống lạm phát và hạ lãi suất (tiền gửi).
Nếu lãi suất (tiền gửi) vì cách nào đó giảm đi thì có nghĩa áp lực lạm phát sẽ lại gia tăng, điều này luôn đúng ít nhất trong ngắn hạn, trong bối cảnh lạm phát đã nổ ra và ở mức cao như hiện nay. Tách biệt lãi suất tiền gửi và cho vay ở đây là tớ muốn nhấn mạnh đến khả năng là vẫn có thể làm cho lãi suất cho vay, chính xác hơn là chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và cho vay, giảm/hẹp đi một chút khi thực hiện những biện pháp “kỹ thuật” mà trong một buổi nói chuyện với TS Võ Trí Thành, từ này được ông đề cập đến, khi nói đến biện pháp khắc phục những bất hợp lý trên thị trường liên ngân hàng và trong hệ thống ngân hàng để giảm lãi suất cho vay (mà tiếc rằng thực sự tớ chẳng hiểu rõ khi gặng hỏi ông rằng cụ thể là thế nào!).


[1] Tất nhiên ở đây ta không tính đến trường hợp doanh nghiệp đã mang một số tiền nào đó chôn xuống đất hoặc cất trong két sắt. Ngoài chuyện hiển nhiên là doanh nghiệp nếu làm vậy sẽ bỏ phí cơ hội hưởng lãi nếu cho vay lại, chuyện này còn không được tính đến bởi vì nó không được đề cập đến trong khái niệm tổng phương tiện thanh toán mà tác giả nêu ra.

Thursday 28 July 2011

Tớ có đồng minh rồi!!!

Nhân đọc bài báo dưới đây của TBKTSG, mới thấy quý, ở cái chỗ là có lẽ ngoài tớ ra thì từ trước đến nay chỉ có mỗi bài viết này là nêu ra một vài ý kiến trùng lập với của tớ về chuyện doanh nghiệp và cả một số ông nhà nước  kêu loạn lên vì lãi suất cao làm cho doanh nghiệp điêu đứng, phá sản mà thực tế không hẳn là vậy. Nhưng lại buồn thay cho TBKTSG, cũng ngay trong một tờ báo, mà ở bài sau của tác giả Hải Lý (tớ sẽ viết riêng ở một entry khác tiếp sau đây), chuyện lãi suất cao được mang ra phê phán rồi tác giả còn bày cách làm thế nào để hạ lãi suất trong lúc lạm phát chưa hề có dấu hiệu suy giảm rõ ràng. Cái mâu thuẫn này làm cho tớ khẩn thiết kiến nghị ban biên tập TBKTSG cần phải xem xét lại lập trường của mình sao cho thống nhất, vì chí ít TBKTSG cũng là một tờ báo có uy tín với đội ngũ biên tập và chuyên gia tư vấn mạnh nhất trong làng truyền thông Việt Nam hiện nay. Xin tránh tình trạng như nhiều bài viết của phóng viên ở nhiều tờ báo, đầu bài thì phê phán một vấn đề nào đó, nhưng lòng vòng thế nào đến cuối bài lại viết làm cho người ta hiểu thành kêu gọi và ủng hộ cho vấn đề đó, chung quy chỉ bởi người viết mà chẳng hiểu mình đang viết cái gì.
---------------------------------------------------------------
Doanh nghiệp “chết” liệu có phải do lãi suất cao?
Thủy Triều
Thứ Năm,  28/7/2011, 17:28 (GMT+7)

(TBKTSG Online) - Mặc dù hội nghị mang tên “Đầu tư 2011- 2012: Cơ hội cho ai?” nhưng hầu hết các diễn giả đều đề cập đến những vấn đề nóng bỏng của nền kinh tế vĩ mô, và một vấn đề nóng nhất được bàn đến là liệu đã đến lúc để giảm lãi suất hay chưa và yếu tố này đang ảnh hưởng thế nào đến khu vực doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có thực sự khó?
Tiến sĩ Võ Trí Thành, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), cho rằng từ sau khi ban hành Nghị quyết 11 Chính phủ đã đưa ra nhiều biện pháp quyết liệt nhằm ổn định kinh tế vĩ mô mà trong đó có việc siết chính sách tiền tệ, vốn đang bị cho là gây ảnh hưởng nặng nề lên các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, ông Thành cho biết “Nhìn vào các chỉ số vĩ mô 6 tháng đầu năm, tôi thấy sự kêu gào của các doanh nghiệp có phần hơi quá!”. GDP 6 tháng tăng 5,6%, nhập khẩu vẫn tăng mạnh cho thấy người dân vẫn đầu tư, tiêu xài, trong khi sản lượng công nghiệp 6 tháng đầu năm tăng 14,3% cho thấy doanh nghiệp vẫn có sản xuất, ông Thành nói.
Nếu chỉ tính tăng trưởng tín dụng 20% cho năm nay thì số vốn tuyệt đối cho nền kinh tế sẽ là 25 tỉ đô la Mỹ trong năm nay. “Nếu không tính cho bất động sản và chứng khoán, liệu nền kinh tế thực của Việt Nam có thể hấp thụ con số này?”, ông Thành đặt ra câu hỏi.
Ông Thành cho rằng lạm phát theo tháng của Việt Nam đã có xu hướng giảm, nhưng lạm phát theo năm vẫn cao, ông cho rằng mức đỉnh sẽ vào khoảng 22%, sau đó đi ngang và giảm xuống vào cuối năm. “Con số không quan trọng mà quan trọng là xu hướng của lạm phát, và điều này thì phụ thuộc vào việc Chính phủ có vượt qua được các áp lực để kiên trì với Nghị quyết 11 hay không. Nếu không, chúng ta sẽ còn phải trả giá cao hơn gấp nhiều lần so với việc tăng trưởng kinh tế chỉ ở mức 5,6%”, ông Thành nói.
Ông cho rằng lãi suất chắc chắn sẽ còn cao vì Việt Nam đang phải chống lạm phát và “tôi nghĩ doanh nghiệp vẫn có khả năng sống qua 4 tháng nữa”.
Với các phân tích sâu hơn, ông Lê Xuân Nghĩa, Phó chủ tịch Ủy ban giám sát tài chính quốc gia, cho rằng “kiềm chế lạm phát phải là một công cuộc được thực hiện lâu dài chứ không phải có thể kiềm lạm phát tốc lực trong vài tháng, để rồi chính sách điều hành rơi vào tình huống siết chặt quá rồi lại nới lỏng”, ông Nghĩa nói.
Ông Nghĩa cho biết 6 tháng đầu năm tăng trưởng cung tiền là 3% tức khoảng 78.000 tỉ đồng nhưng một nửa trong số này đã đi vào trái phiếu Chính phủ vì phần lớn người mua trái phiếu chính phủ là các ngân hàng, trong khi nửa còn lại là vào tín dụng, do vậy tiền đồng trở nên khan hiếm đẩy lãi suất lên cao.
Không quá lạc quan như ông Thành, ông Nghĩa cho rằng hiện các doanh nghiệp đang thực sự gặp khó khăn rất lớn. Theo khảo sát của ủy ban, 100 doanh nghiệp sản xuất kể cả xuất khẩu hiện đang có lượng hàng tồn kho rất cao, và khảo sát 130 doanh nghiệp niêm yết cho thấy bảng cân đối tài sản của các doanh nghiệp này hiện rất xấu.
Nếu việc thắt chặt tiền tệ vẫn còn tiếp tục như hiện nay thì nền kinh tế Việt Nam có thể rơi vào tình trạng lạm phát và đình đốn sản xuất, và tăng trưởng GDP quí 3, quí 4 sẽ dưới 5% chứ không phải 6%- 6,5% như Chính phủ dự kiến, ông Nghĩa nhận định. Ông cũng cho rằng tiền đề để lãi suất có thể giảm hiện nay là có vì lãi suất liên ngân hàng lẫn lãi suất trái phiếu Chính phủ đều đã giảm. Tuy nhiên, ông cũng cho biết lãi suất có thể giảm nhưng không thể giảm mạnh.
Lãi suất không phải nguyên nhân căn bản
Đi sâu sát hơn với tình hình của các doanh nghiệp, ông Nguyễn Đức Vinh, Tổng giám đốc ngân hàng Techcombank, chia sẻ một góc nhìn khác về lãi suất. Techcombank hiện đang phục vụ 50.000 doanh nghiệp và trong đó chỉ có 10%- 15% số doanh nghiệp có quan hệ một cách thường xuyên với ngân hàng.
Ngân hàng đã có một thống kê nhỏ trong số các khách hàng của mình, 70% các doanh nghiệp hiện đang gặp khó khăn, và 30% trong số 70% doanh nghiệp này đang ở mức rất rất khó khăn cần phải đưa vào chương trình kiểm soát đặc biệt. Tuy nhiên, vấn đề lãi suất chỉ là một trong những yếu tố làm trầm trọng hóa tình trạng doanh nghiệp hiện nay chứ không phải là nguyên nhân căn bản, mà nguyên nhân căn bản là việc mất cân đối từ gốc và sự thiếu tập trung trong hoạt động của doanh nghiệp.
“Hầu hết các doanh nghiệp có cơ cấu về vốn rất mong manh. Các doanh nghiệp tư nhân có vốn chủ sở hữu trên tổng vốn hoạt động ở mức 15%-20%, trong khi doanh nghiệp nhà nước, mức này chỉ là 10%”, ông Vinh nói. Thêm vào đó, cấu trúc vốn của các doanh nghiệp rất bấp bênh, hơn 60% doanh nghiệp mất cân đối về vốn tức lấy quá nhiều vốn ngắn hạn đem đầu tư trung dài hạn, và đa số doanh nghiệp đều đầu tư ngoài ngành. Có hơn 90% doanh nghiệp đều có dính dáng ít hay nhiều đến bất động sản, ông Vinh nói.
Ông cho biết chỉ có 60% vốn của doanh nghiệp là phục vụ cho hoạt động chính, cho nên khi lãi suất tăng cao đến 20% thì mức lãi phải trả là cho 100% khoản vay trong khi chỉ có 60% vốn là sử dụng có hiệu quả, nên có khi lãi suất thực doanh nghiệp phải gánh lên đến 30%.
Do vậy, theo ông Vinh, không phải lãi suất hạ thì doanh nghiệp sẽ tốt hơn, mà cái chính là các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay cần phải nhìn lại mình, củng cố lại hoạt động, cơ cấu vốn, và chiến lược để có thể phát triển tiếp trong giai đoạn tới.

Wednesday 27 July 2011

Kinh doanh xăng dầu chắc ăn, chắc giầu

Tớ không rõ lắm ở các nước khác thì thế nào chứ riêng ở Việt Nam, nếu được cho tiền làm vốn và được chọn ngành nghề kinh doanh thì chắc chắn tớ sẽ chọn ngành kinh doanh xăng dầu. Lý do rất đơn giản là vì chẳng cần cố gắng, chẳng phải nhọc công cải tổ với cải cách hoặc tái cơ cấu, tiết kiệm nhân công và nâng cao năng suất lao động, hợp lý hóa và hoàn thiện bộ máy quản lý v.v... nếu tớ là doanh nghiệp xăng dầu đầu mối như Petrolimex thì tớ sẽ chắc chắn sẽ bỏ túi ít nhất 300 đồng/lít xăng dầu – là cái được mấy ông Bộ gọi là “lãi định mức” – cho dù tớ có lỡ tính toán ngu dại để nhập khẩu xăng dầu khi đắt nhất sau đó bán vào lúc rẻ nhất, rẻ hơn, hoặc cho dù tớ có nghe ai đó xui dại đi hedging (mua xăng dầu theo các hợp đồng phòng ngừa rủi ro) không đúng lúc và phải trả phí hedging cao hoặc phải ôm hàng đã chót hedging. Vì thế, càng nhập về nhiều và bán nhiều thì tổng số lãi tớ được hưởng càng lớn.
Ơ thế mà hình như ông này vẫn kêu rằng lỗ mới lạ chứ? Thế thì có thể suy ra ông Petrolimex đã dùng cái “lãi định mức” này để “đập” vào những cái lỗ khác mà ông ấy “chẳng may” gây ra mà không được ông nhà nước bao cấp, để cuối cùng ông ấy báo lỗ tổng thể, lỗ triền miên và ông nhà nước thì luôn rất thông cảm và luôn tìm cách giúp đỡ cho ... có lãi (tổng thể). Cứ cái đà này chắc cũng chẳng lâu nữa “lãi định mức” sẽ được nâng lên thêm nữa, chắc chí ít cũng phải lớn hơn tốc độ lạm phát, để đảm bảo rằng ông Petrolimex luôn không bị lỗ, dù là lỗ vì cái gì, vì ai, và lỗ bao nhiêu.
Nếu không được “hên” để trở thành ông Petrolimex thì tớ nguyện trở thành doanh nghiệp ăn theo, hình như được gọi là “đại lý” của ông này, với phí đại lý, gọi là “chiết khấu” thì phải, rất hậu hĩnh, đâu như tới vài trăm đồng/lít. Đương nhiên, là đại lý thì tớ cũng chẳng bao giờ phải “băn khoăn” chuyện hiệu quả kinh doanh với chuyện biến động giá cả (tiện đây nói thêm là tớ rất ghét cái từ “băn khoăn” này mà xem ra rất được mấy ông nghị và ông Bộ ưu ái ưa dùng, mặc dù vào những hoàn cảnh chẳng ăn nhập gì với cái chuyện “băn khoăn” cả, ví dụ như khi các ông ấy “băn khoăn” chuyện thâm hụt ngân sách – là cái chẳng có gì đáng “băn khoăn”, có nghĩa là phải chọn cái này hoặc cái kia mà chẳng/chưa biết chọn cái nào. Bạn đọc thử xem có khó chịu với từ “băn khoăn” của tớ ở đây không?).  
Thấp cấp hơn nữa là các cửa hàng bán lẻ v.v... Nói tóm lại, cứ nằm trong hệ thống kinh doanh, phân phối xăng dầu thì từ A đến Z cứ yên trí mà hưởng lãi, bán được lít xăng dầu nào thì lãi được x% nhân với từng đó lít xăng dầu đã bán, và cứ yên trí là x luôn là số dương. Thế thì ai dám bảo môi trường kinh doanh ở Việt Nam là khó khăn, không hấp dẫn? Và không biết có còn ngành nào ở Việt Nam “ngon ăn” như ngành kinh doanh xăng dầu không nhỉ, ai biết bảo tớ với!

 

Tuesday 26 July 2011

Vẫn câu chuyện cũ: Tăng trưởng hay lạm phát?

Cứ tưởng rằng với quyết tâm của chính phủ qua cái Nghị quyết 11 thì từ quan đến dân đều quán triệt rằng bây giờ mục tiêu hàng đầu là phải kiềm chế lạm phát chứ không nên (quá) bận tâm đến tăng trưởng nữa. Nhưng theo dõi báo chí thì xem ra tình hình không được khả quan như vậy vì người ta vẫn cứ “băn khoăn” với cái chuyện chống lạm phát mà làm lãi suất cao quá thì sẽ ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh, và tức là đến tăng trưởng, đến an sinh xã hội.
Còn to chuyện hơn nữa khi mới hôm nay trên báo có một bài viết đại loại cảnh báo nguy cơ “lạm phát đình trệ” ở Việt Nam, với lý luận rằng Việt Nam đang phải đối mặt với 2 yếu tố cùng lúc, lạm phát và đình trệ trong tăng trưởng. Lạm phát thì đang cao mà tăng trưởng thì “chỉ” có đâu như hơn 5% trong 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước, là cái tốc độ mà chắc là trong con mắt tác giả bài viết đó được coi là “đình trệ”?
Thực ra, tốc độ tăng trưởng GDP lên tới trên 5% luôn là, cần được coi là một tốc độ rất khả quan rồi, đặc biệt trong bối cảnh bất ổn và khủng hoảng trên thế giới như những năm qua và hiện nay. Có lẽ nhiều người cho rằng tốc độ tăng trưởng như hiện nay là thấp, thậm chí là “đình trệ” (nếu hiểu đúng nghĩa phải là không có tăng trưởng) là vì họ so sánh với tốc độ tăng trưởng đạt được trong quá khứ (trên 7% trong thập kỷ qua). Nhưng cần phải hiểu thêm rằng tốc độ tăng trưởng trong thời vàng son đã qua rất gần với tốc độ “chụp giật” nếu xét đến cách thức và nguồn lực tăng trưởng, và nền kinh tế kiểu đó sớm hay muộn cũng bị “gãy cánh”, không thể kéo dài hàng thập kỷ, từ thập kỷ này qua thập kỷ khác.
Hơn nữa, trong bối cảnh lạm phát đã vọt lên quá cao, là kết quả của những năm mải mê chạy theo tăng trưởng bằng mọi giá với chính sách tiền tệ và tài khóa nới lỏng hết cỡ, việc để cho tăng trưởng GDP sụt giảm một chút so với mức cao trong quá khứ để đổi lấy nhiều khoảng trống chính sách (room) nhằm chống lạm phát là một việc cần thiết. Đừng vì cái thực tế là tăng trưởng “chỉ” đạt trên 5% so với hơn 6% trong năm trước mà sinh ra nao núng, hoang mang, tự mình chặt chân mình bằng những chính sách nửa vời, xung đột lẫn nhau, mà kết cục chỉ là sự mất lòng tin nghiêm trọng và rối loạn, bất ổn trong xã hội.
Cũng cần phải nói thêm vì Nghị quyết 11 có đề cập đến đảm bảo an sinh xã hội nên có lẽ phe trọng tăng trưởng coi đó là một cái cớ, cho rằng một khi giảm tăng trưởng thì sẽ làm gia tăng thất nghiệp, giảm tốc độ tăng tiền lương (gắn liền với tăng trưởng kinh tế) trong bối cảnh giá cả tăng cao, tức là làm lung lay an sinh xã hội.
Thực tế không phải luôn như vậy. Với chính sách để cho lãi suất lên cao, lạm phát sẽ giảm dần vì tổng cầu bị thu hẹp, đến lượt nó lại có tác dụng kéo lãi suất đi xuống vì cầu tín dụng giảm đi (với giả sử Ngân hàng Nhà nước (NHNN) giữ nguyên cung tiền). Quá trình này là tự diễn tiến với kết cục là cả lạm phát và lãi suất trở về mức “bình thường” và tăng trưởng nhờ đó được phục hồi cùng với cầu được phục hồi. Thời gian phục hồi/quay trở về mức bình thường của lạm phát, lãi suất, tổng cầu và tăng trưởng sẽ phụ thuộc phần lớn vào mức độ quyết liệt của NHNN trong việc nâng và duy trì lãi suất cao và sự phục hồi lòng tin của giới đầu tư vào triển vọng nền kinh tế nói chung và tính minh bạch của NHNN nói riêng.
Nếu suôn sẻ, thất nghiệp do lãi suất tăng cao nếu có thì chỉ là trong ngắn hạn để rồi sẽ biến mất khi tăng trưởng phục hồi (mà thực ra cho đến giờ đã có thống kê đáng tin cậy nào cho thấy nạn thất nghiệp đang gia tăng đâu, cho dù tăng trưởng có giảm đi một chút). Tiền lương thực tế nếu có bị bào mòn dưới thời lạm phát cao sẽ không còn bị bào mòn nữa khi lạm phát chững lại nhờ chính sách lãi suất cao. Và tiền lương thực tế cũng sẽ tiếp tục cải thiện khi tăng trưởng phục hồi trở lại với lạm phát thấp.
Như vậy, với chính sách lãi suất cao, an sinh xã hội nếu có bị ảnh hưởng thì rất có thể chỉ là trong ngắn hạn cho đến khi nền kinh tế quay trở lại quỹ đạo phát triển lành mạnh trong dài hạn của nó. Vì vậy, mấu chốt là phải kiềm chế được lạm phát và phải kiềm chế bằng chính sách lãi suất cao. Không nên vì sự hy sinh trong ngắn hạn (chưa được chứng thực) để kêu gọi làm ngược lại, hạ lãi suất khi lạm phát đang ở mức cao.
Cuối cùng, xin bàn đến lập luận của rất nhiều người cho rằng lãi suất cao sẽ làm tăng áp lực lạm phát vì lãi suất cao sẽ làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh, và tức là làm tăng giá bán hàng hóa dịch vụ. Nhưng như vậy người ta mới chỉ nhìn ở góc độ cung mà quên mất phía cầu. Khi giá hàng hóa dịch vụ tăng lên mà tiền lương chưa kịp tăng tương ứng (tiền lương thường được điều chỉnh với độ trễ so với lạm phát) thì tổng cầu có xu hướng giảm do thu nhập khả dụng thực tế của dân cư giảm đi. Minh họa hiển nhiên là người lao động hiện nay ngày càng phải “thắt lưng buộc bụng” trong cơn bão giá. Mà tổng cầu giảm đi sẽ đem lại hiệu ứng giảm lạm phát như nói ở trên. Tổng cầu còn giảm bởi lãi suất tăng cao làm mọi chủ thể kinh tế khác phải đắn đo khi đi vay với lãi suất cao để chi tiêu, đầu tư.
Tóm lại, không thể dựa vào lập luận lãi suất cao làm tăng lạm phát và giảm tăng trưởng, tác động tiêu cực đến an sinh xã hội v.v... để buộc/yêu cầu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) làm khác đi – hạ lãi suất xuống. Và NHNN cũng tuyệt nhiên không được lung lay trước những đòi hỏi này nếu muốn thành công trong kiềm chế lạm phát.

Monday 25 July 2011

Bó tay trước lạm phát nhập khẩu? (Lại viết về chủ đề lạm phát nhân chuyện này đang nóng)

Ngay mới gần đây có một số quan chức và chuyên gia vẫn lên tiếng cho rằng lạm phát ở Việt Nam có nguyên nhân (phần nhiều) là do giá cả thế giới tăng, làm tăng mặt bằng giá cả trong nước thông qua kênh nhập khẩu. Và vì là do giá cả thế giới tăng, và vì chúng ta có nền kinh tế có độ mở lớn (tỷ trọng xuất khẩu + nhập khẩu trên GDP lớn) nên chúng ta có muốn cũng chẳng làm gì được, vì đây là nguyên nhân khách quan.
Thực ra chuyện này chẳng phải là khách quan hoàn toàn, và ta cũng chẳng phải chịu bó tay hoàn toàn nếu thực sự muốn đối phó.
Để gợi mở vấn đề, hãy đi từ câu hỏi, tại sao ở một số nước trong khu vực và trên thế giới cũng có độ mở lớn không kém Việt Nam mà lạm phát của họ thấp hơn Việt Nam? Như tớ đã nói ở nhiều bài viết trước đây trên các loại báo chí ở Việt Nam và lặp lại tóm tắt ở đây rằng không thể đổ cho những lý do trời ơi đất hỡi như nào là ở họ không có chuyện “tát nước theo mưa”, nào là họ không bị nạn sâu bệnh, mất mùa, bão lụt v.v... là những cái lý do thường được các quan chức Việt Nam trưng ra.
Gạt bỏ những lý do khách quan, “tại thiên tai” vớ vẩn này thì ta thấy nổi lên một khác biệt về chính sách tỷ giá và xu hướng vận động của tỷ giá bản tệ so với USD giữa Việt Nam với các nước. Ở một số nước, ví dụ như Singapore, Chính phủ nước này dùng chính sách tỷ giá – để đồng đôla Singapore (SGD) lên giá so với USD – để chống/hạn chế lạm phát nhập khẩu. Kết cục là lạm phát có mặt ở quốc đảo này, nhưng với mức độ rất khiêm tốn so với của Việt Nam, là nước mà bản tệ (VND) có xu hướng luôn bị mất giá so với USD.
Như vậy, đặt ngược lại vấn đề, nếu Việt Nam cũng duy trì một chính sách tỷ giá để cho VND lên giá so với USD (hoặc tối thiểu là giữ ổn định tỷ giá) thì cũng sẽ góp phần giảm nhiệt lạm phát ở Việt Nam. Nói cách khác, đây là một trong những cách để đối phó với lạm phát nhập khẩu, và, vì thế, không đúng như nhiều người nói rằng/tin rằng lạm phát nhập khẩu là chuyện khách quan, không can thiệp được.
Đương nhiên, tấm huy chương nào cũng có 2 mặt. Dùng chính sách tỷ giá để kìm chân lạm phát sẽ làm cho VND lên giá so với USD, tức là ảnh hưởng tiêu cực đến tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu của Việt Nam. Do đó, đôi khi cái giá phải trả để đổi lấy lạm phát trong chừng mực kiểm soát được lại quá lớn, nhất là trong mắt một số nhóm lợi ích nào đó.
Vì vậy, tuy tỷ giá là một công cụ để chống nhập khẩu lạm phát, nhưng có nên dùng nó để kiềm chế lạm phát không, và dùng ở mức độ nào, như thế nào, luôn là một câu hỏi khó, ít có lời giải đáp rõ ràng đốii với những nhà hoạch định chính sách.

Sunday 24 July 2011

Tiến sĩ ... vô hạng



Tối nay mất ngủ vì đọc được tin mừng bác gì đó vừa được bầu vào cái chức to vật ở xứ Việt Nam ta. Thao thức vì đọc tiểu sử thấy bác ấy có học vị tiến sĩ (TS), nhưng khó hiểu ở chỗ là trong tiểu sử của bác chỉ thấy thể hiện “dấu vết” khả dĩ của chuyện có cái bằng này là quãng thời gian 4 năm học NCS ở một nước anh em nào đó.
Sau mới nhớ ra rằng hình như chuyện học này trước đây ở Việt Nam ta gọi là Phó TS (PTS), tức là dở ông dở thằng, chẳng phải thạc sĩ mà còn xa mới được gọi là TS. Ở Việt Nam ta có cái rất hay là sau một cuộc bể dâu, tự nhiên PTS lại thành TS sau một đêm. Thôi thì chuyện này thiên hạ cũng nói mãi rồi, tớ cũng chẳng nên bới lại làm gì cho đau người trong cuộc.
Chỉ hiềm một nỗi không biết phải phân loại ông TS  kiểu này vào hạng gì, hạng mấy. Không nhẽ lại đánh đồng ông ấy với những ông TS mất bao công dùi mài kinh sử, nghiên cứu công bố này kia v.v... quá là phỉ báng những con người chân chính đó. Vẫn biết là TS thì lẽ ra chỉ có một loại TS thôi, nhưng lại lăn tăn vì nhớ ra thêm ở Việt Nam ta, vẫn có nhiều người hãnh diện khoe cái học vị TS Khoa học (TSKH), được hiểu rằng, làm cho hiểu rằng còn cao hơn cả TS, kể cả các TS học ở Tây, Mỹ, Nhật về! (Mà lạy trời, hình như ít nhất là ở xứ Nhật là cái xứ tớ có biết chút ít, chỉ có đến TS là thôi. Không nhẽ tất cả TS ở cái nước này lại kém đến thế, không leo nổi lên TSKH hả giời?).
Thôi đành thay thiên hạ,  là người đầu tiên mạnh dạn ngồi tự cho phép mình sắp xếp và đặt ra mấy cái hạng TS cho nó công bằng, có trên có dưới. Mà bắt đầu xếp hạng từ dưới lên trên cho đỡ phải nói nhiều. Bắt đầu từ hạng 4, là hạng TS được đào tạo ở mấy cái trường/học viện trong nước. Cũng có đủ lệ bộ, nào là bài đăng tạp chí chuyên ngành, thi đầu vào, bảo vệ đề cương, bảo vệ đề án, bảo vệ tốt nghiệp v.v... Nhưng thực chất hạng TS này là như thế nào thì khỏi nói.
Cao hơn là một số TS được đào tạo trong và ngoài nước, hơn TS hạng 4 trên ở chỗ là có một (số) bài viết trên (các) tạp chí trong nước và/hoặc (các) tạp chí ngoài nước (nhưng không có tiếng tăm, tên tuổi hoặc uy tín). Tạm xếp hạng TS này là hạng 3.
Hạng TS thứ 2 và thứ 1 thì cứ theo trình tự mà nâng lên, với bề dày thành tích nghiên cứu, đóng góp cho khoa học, với những công trình nghiên cứu được đăng tải và trích dẫn trên các tạp chí khoa học chuyên ngành quốc tế nghiêm túc (hạng tạp chí càng cao thì hạng của TS đó cũng cao lên tương ứng, nói nôm na vậy cho nhanh hiểu. Nếu chật chỗ và khó phân quá thì cứ chia nhỏ thêm, đại loại hạng 2*, 2**, 2***, 1*, 1**, 1*** v.v... nhưng nhất định là không có cái loại TSKH).
Thế còn hạng ông TS dở ông dở thằng kể trên? Quả là khó! Đã là dở ông dở thằng rồi, mà đố ai tìm được một bài nghiên cứu (ra hồn) nào của ông này ở trên một tạp chí chuyên ngành cho dù hạng ... lông, ở ngay Việt Nam đấy! Thế nhưng dù sao thì cũng phải xếp cái bằng TS của ông ta và những người như ông ta vào đâu chứ, để cho nó có vẻ (mang tính) khoa học? Có ngay, tớ nghĩ ra ngay một cái hạng, không hay/đúng chết liền: TS Vô Hạng!
Chỉ mong tối nay nằm mơ thấy những ông/bà TS Vô Hạng này liêm sỉ trỗi dậy, đừng bao giờ xưng là TS trước bàn dân thiên hạ, kẻo người ta biết được thì nhục.

Saturday 23 July 2011

Về quan hệ giữa phá giá bản tệ và trả nợ nước ngoài

Cho đến nay, một trong những lấn cấn chính mà Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nói riêng và Chính phủ cũng như nhiều chuyên gia và giới doanh nghiệp nói chung đều phản đối hoặc e ngại việc phá giá VND là chuyện cho rằng phá giá VND sẽ làm cho gánh nặng nợ quốc gia, nợ của doanh nghiệp bằng ngoại tệ tăng lên. Hãy phân tích thực tế có phải vậy không.
Trên bề mặt thì đúng là nếu VND bị phá giá ví dụ 5%, gánh nặng nợ bằng ngoại tệ nhưng quy ra VND sẽ tăng thêm đúng 5%. Trước đây, Chính phủ và doanh nghiệp chỉ cần huy động 20 triệu VND để mua USD và trả cho mỗi 100 USD tiền vay nợ trong và ngoài nước. Nếu phá giá VND 5% thì con số VND cần để mua được mỗi 100 USD sẽ là 21 triệu. Đúng là Chính phủ và doanh nghiệp sẽ chịu ảnh hưởng từ việc phá giá này bằng cách thu hẹp tương ứng lợi nhuận ròng của mình tính bằng VND (đối với doanh nghiệp) hoặc tăng thêm thâm hụt ngân sách (đối với Chính phủ).
Nhưng đây mới chỉ là một phần (nổi) của câu chuyện. Nếu giả sử VND bị áp lực phải phá giá 5% để lập lại cân bằng thương mại, nhưng NHNN kiên định không phá giá với nỗi e ngại nêu trên. Để kiên định làm được việc này, NHNN phải hoặc là dùng các biện pháp hành chính để duy trì mức tỷ giá danh nghĩa hiện thời (ví dụ bằng cách phạt các tổ chức tài chính tín dụng mua bán ngoại tệ vượt quá biên độ cho phép), và/hoặc là tung USD trong quỹ dự trữ ngoại hối của mình ra thị trường để ổn định tỷ giá hiện hành. Cách thứ nhất thì NHNN đã và đang làm, nhưng tất nhiên chỉ hữu hiệu được một thời gian rồi cũng phải theo cách thứ hai, như thực tế đã cho thấy.
Tóm lại, rốt cuộc, hao hụt quỹ dự trữ ngoại tệ là cái giá trực tiếp phải trả để ổn định tỷ giá, và sâu xa hơn nữa là để tránh cho gánh nặng nợ nần bằng ngoại tệ (tính theo VND) của các doanh nghiệp và Chính phủ không tăng lên. Suy ra tiếp điều gì nữa? Doanh nghiệp thì có lợi vì tự nhiên được “bù lỗ”, “bao cấp” một cách gián tiếp. Đối với quốc gia, vì gánh nặng nợ của Chính phủ được đổ lên vai NHNN nên rút cục tiền chỉ chui từ túi nọ sang túi kia.
Điều đáng lo ngại hơn là hành động can thiệp ổn định tỷ giá của NHNN không thể ở quy mô lớn và kéo dài được vì quỹ dự trữ ngoại hối nhỏ nhoi của mình. Cuối cùng thì NHNN cũng phải chấp nhận phá giá VND khi áp lực phá giá tiếp tục tăng lên. Càng o ép, “kiên định ổn định” tỷ giá càng lâu thì mức phá giá sau này càng lớn, như thực tế minh họa. Và lúc đó thì doanh nghiệp và Chính phủ đều không tránh khỏi phải đối mặt với gánh nặng nợ nần lớn hơn quy ra theo VND.
Kết luận lại, sự chần chừ, e ngại phá giá VND với nỗi lo làm tăng gánh nặng nợ nần bằng ngoại tệ là xuất phát từ hiểu biết hời hợt, sai lầm về kinh tế học. Nếu cố gắng, khiên cưỡng không thực hiện phá giá khi tình hình đòi hỏi phải phá giá (và nếu thành công – không phải phá giá) thì chỉ có doanh nghiệp là được hưởng lợi (nợ tư được chuyển thành nợ công, được bù lỗ bởi dự trữ ngoại tệ quốc gia), còn cả quốc gia thì chẳng được lợi gì. Đến đây thì rõ ai sẽ kêu gọi không phá giá và NHNN có nên phá giá không khi cần thiết phải làm thế.

Wednesday 20 July 2011

Xanh vỏ đỏ lòng

Vừa rồi tớ về Hà Nội, đến gặp một số nhân vật hữu quan về chuyện chính sách ổn định kinh tế vĩ mô. Điều rút ra được từ những cuộc gặp này là “gay go”. Vì:
1.       Xem ra chỉ có mỗi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) là còn “kiên định” với chính sách thắt chặt tiền tệ. Nhưng bản thân NHNN cũng dường như hiểu “thắt chặt” có nghĩa là giới hạn tăng trưởng tín dụng, chứ không phải là để lãi suất lên cao đến mức cần phải có, cần phải như thế mới kiềm chế được lạm phát. Ngược lại, NHNN dường như đã và đang chủ trương dùng các biện pháp (hành chính) để (cố gắng... vô vọng) hạ lãi suất xuống, đáp ứng tiếng gọi “thống thiết” của giới doanh nghiệp và không ít quan chức. Có lẽ bản thân NHNN cũng nghĩ rằng lãi suất hiện nay là quá cao, có hại cho nền kinh tế, và trong thâm tâm cũng muốn hạ lắm, hạ sớm, nhưng chỉ e vì vấp phải sự phê phán, phản đối từ giới quan sát nước ngoài (rằng nới lỏng quá sớm) và hậu quả là một lần nữa đánh mất lòng tin của công chúng vào VND nói riêng, vào chính sách của mình nói chung.
2.       Các Bộ, cơ quan quản lý nhà nước khác dường như chẳng hiểu gì về những vấn đề như lạm phát, lãi suất, chính sách tiền tệ và tài chính, đặc biệt là mối quan hệ hữu cơ giữa chúng. Một mặt thì họ vẫn cho rằng/ủng hộ cần phải tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ (theo đúng chủ trương của Thủ tướng nhé!) Nhưng mặt khác (trên thực tế), họ hoặc là thiếu kiến thức kinh tế vĩ mô căn bản nên hiểu lỗ chỗ, lung tung, râu ông nọ cắm cằm bà kia, hoặc là chỉ hiểu được phần ngọn của vấn đề. Ví dụ, người thì cho rằng lạm phát là do nhập siêu, người thì đổ tại đầu tư công không hiệu quả vào những cái thùng không đáy như Vinashin, còn người khác thì vô tư cho rằng lạm phát là do lãi suất cao gây ra v.v... Điều đáng nói hơn là vì hiểu sai, phiến diện, không nắm được tận gốc của vấn đề nên người ta đều cho rằng lãi suất hiện đang cao một cách không cần thiết (là nạn nhân vô tội của chính sách tiền tệ thắt chặt của NHNN), chỉ có mỗi tác dụng là gây hại cho doanh nghiệp và nền kinh tế thôi chứ chẳng giúp ích được cái gì sất! Có người (chắc cũng nhiều người giống vậy) còn “tư duy logic” đến nỗi vạch ra rằng để kiềm chế lạm phát thì chủ trương của Chính phủ nói chung và NHNN nói riêng là thắt chặt tăng trưởng tín dụng chứ không phải là kiểm soát lãi suất (ý nói là để nó lên cao là điều không mong muốn, ngoài dự định). Ngoài ra, hầu như mọi người này đều có cùng một quan điểm với mấy ông “chuyên ra” vào hùa với mấy ông doanh nghiệp “kêu cứu” rằng lãi suất đi vay trên 20%, lợi nhuận làm ra dưới 20% thì doanh nghiệp chỉ có lỗ và đóng cửa.
3.       Lạ thế! Lẽ ra họ cần phải hỏi vặn lại mấy ông doanh nghiệp này rằng, một là, các doanh nghiệp có được tăng/tăng được giá bán hàng hóa, dịch vụ của mình hay không? Nếu câu trả lời là có thì còn kêu ca nỗi gì nữa? Nước nổi thì bèo nổi, cứ thế mà suy ra là doanh nghiệp vẫn sống khỏe re.
4.       Và hai là (câu hỏi này để dành cho những ai nói là giá bán có tăng nhưng không tăng kịp với tốc độ tăng lãi suất), “lợi nhuận” mà doanh nghiệp nói là loại lợi nhuận gì? Ví dụ doanh nghiệp của tôi chỉ có vốn do tôi bỏ ra là 300 triệu VND, đi vay ngân hàng 700 triệu VND nữa, tạo doanh thu là 1,010 tỷ đồng, trừ hết chi phí nguyên vật liệu, điện nước, thuế má, kể cả lãi và vốn vay, doanh nghiệp tôi vẫn bỏ túi được 100 triệu VND lợi nhuận ròng. Đúng là nếu so với doanh thu 1 tỷ thì tỷ suất lợi nhuận ròng chỉ đạt gần 10%/năm, tức là quả có thấp hơn nhiều lãi suất đi vay thật (giả sử là 22%/năm). Thế thì doanh nghiệp của tôi lỗ vốn à? Đương nhiên không! Thứ nhất, 100 triệu lãi ròng này đúng nghĩa là lãi ròng, nghĩa là khoản còn lại sau khi đã trả hết mọi chi phí, thuế má kèm lãi và vốn. Vì thế, không thể nói rằng tiền lãi làm ra không đủ trả nợ ngân hàng. Thứ hai, quan trọng hơn, 100 triệu lợi nhuận ròng trên nếu so với số vốn của tôi tự bỏ ra thì bằng 100/300=33.33%, tức là tỷ suất lợi nhuận này cao hơn nhiều lãi suất đi vay (chứ chưa nói là lãi suất gửi vào ngân hàng, vốn thấp hơn mức 22% lãi suất đi vay). Thế thì xin các ông đừng có lý luận rằng với lãi suất cao như hiện nay thì thà đem vốn của mình gửi vào ngân hàng lấy lãi còn lợi hơn là tiếp tục sản xuất, kinh doanh nhé!
5.       Với những hiểu biết sai, lệch như vậy, lại được nghe “khuyến mại” miễn phí (hoặc có phí được trả) từ giới doanh nghiệp về câu chuyện lãi suất cao nên càng sản xuất kinh doanh thì càng lỗ, dễ hiểu là các vị hữu trách này đều lên tiếng muốn/cho rằng NHNN nên hạ lãi suất. Mà họ là những người trong cuộc đấy nhé!
6.       Tớ cũng nghe thêm và đọc được một loại kêu gọi/vận động nữa là vì chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm nay tối đa là 20% mà 6 tháng đầu năm nay chỉ đạt được 7%-8% gì đó nên dư địa chính sách tiền tệ còn nhiều và NHNN nên “phấn đấu” đạt được mục tiêu tăng trưởng tín dụng này để nào là đáp ứng thanh khoản, nào là phục hồi sản xuất. Lại lạ thế đấy! Thứ nhất, cái mục tiêu này chỉ là một mục tiêu cảm tính, chẳng có một cơ sở tính toán thuyết phục nào cho thấy để khống chế lạm phát dưới mức, ví dụ, 7%/năm trong năm nay thì tăng trưởng tín dụng chỉ được dưới 20%. Thế sao, để cho chắc ăn, ngay từ đầu NHNN không đặt béng luôn một cái mục tiêu cao hơn nữa, ví dụ 25%, để tha hồ mà rộng cẳng điều chỉnh sau nay? Thứ hai, đến thời điểm này dường như người ta đã xao nhãng, quên biến mục tiêu và nhiệm vụ của chính mình đặt ra là kiểm soát lạm phát (mặc dù mục tiêu lạm phát cũng đã và đang phải điều chỉnh đến nỗi mà nó không còn (nên) được gọi là mục tiêu nữa!), mà chỉ chăm chăm vào chuyện làm thế nào để “giải cứu” giới doanh nghiệp vì họ kêu gào thảm thiết về chuyện lãi suất quá.
7.       Tớ cũng hỏi qua về chuyện cắt giảm đầu tư công, nhưng xem ra thực sự là người ta không muốn cắt giảm hoặc chỉ làm để đối phó, hoặc đơn giản hơn là không có một định nghĩa rõ ràng thế nào là cắt giảm đầu tư công và tiêu chí để tính mức cắt giảm thực tế được bao nhiêu.
8.       Tóm lại, nhìn từ phía người trong cuộc, trên bề mặt, người ta vẫn tỏ ra/nghĩ rằng đang trung thành với chủ trương thắt chặt của Chính phủ, nhưng trên thực tế thì hoặc là do không hiểu biết, hoặc là cố tình, mà họ đang cùng với giới doanh nghiệp và các nhóm lợi ích gây áp lực lên NHNN buộc NHNN phải nới lỏng chính sách tiền tệ, hạ lãi suất (và bản thân NHNN cũng có phần nao núng, có phần cho rằng là đúng đắn, cần thiết). Cứ cái tình hình này thì tớ cho rằng NHNN sẽ sớm muộn nới lỏng chính sách tiền tệ của mình (tăng cung VND, hạ lãi suất, (và kết quả là) phá giá VND). Rồi cộng thêm với tình trạng cắt giảm đầu tư công có như không nữa chứ! Lúc đó thì tớ không muốn nghĩ thêm nữa vì thấy tình hình sẽ rất là “gay go”, với rất nhiều bất trắc về chính sách bắt nguồn từ khủng hoảng mất lòng tin, phá giá nội tệ, lạm phát phi mã v.v... buộc người ta phải hành động một cách cực đoan và tình thế hơn nhiều.

Sunday 17 July 2011

Có nên nới lỏng chính sách tiền tệ không? (Bài trả lời phỏng vấn báo Đại biểu Nhân dân)





Có nên nới lỏng chính sách tiền tệ không?

07:33 | 16/07/2011
Ngay cả trước khi tình hình lạm phát mới có dấu hiệu dịu đi (thực ra là vẫn tăng lên, nhưng với tốc độ chậm hơn), đã xuất hiện nhiều đề nghị nới chính sách tiền tệ để hạ lãi suất. Theo Ts PHAN MINH NGỌC, PHÓ GIÁM ĐỐC NGHIÊN CỨU DOANH NGHIỆP CỦA NGÂN HÀNG SUMITOMO MITSUI CHI NHÁNH SINGAPORE, nếu cố hạ lãi suất trong khi lạm phát vẫn cao và có khả năng tiếp tục tăng thì các doanh nghiệp và nền kinh tế rất có thể không gặt hái được lợi lộc gì.

Nguồn: sanot.com
Lãi suất cao có nhất thiết dẫn đến đổ vỡ trong nền kinh tế không, thưa ông?
Không nhất thiết! Lãi suất cao chỉ gây ra đổ vỡ trong nền kinh tế và buộc hàng loạt doanh nghiệp phải phá sản khi và chỉ khi doanh nghiệp không được tăng/tăng được giá bản sản phẩm và dịch vụ của mình. Điều này dễ thấy là không hề xảy ra trên thực tế, và vì thế mới có lạm phát và lạm phát mới có xu hướng tăng! Ngay đến cả hàng bình ổn giá mà người ta cũng còn đòi được tăng giá và đã được cho phép tăng giá trên thực tế cơ mà?
Vậy những ý kiến cho rằng, lãi suất cho vay hiện đã lên trên 20% trong khi lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp không quá 20% nên càng sản xuất càng lỗ, dẫn đến doanh nghiệp phải đóng cửa hàng loạt, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ, nên được hiểu như thế nào?
Những lý luận kiểu như vậy là ngụy biện hoặc thiếu kiến thức kinh tế. Đại đa số doanh nghiệp hoạt động dựa trên đòn bẩy tài chính. Họ chỉ có một đồng vốn nhưng đi vay ngân hàng hoặc phát hành chứng khoán, cổ phiếu để huy động thêm một hoặc nhiều hơn một đồng vốn khác. Trong khi đó, mức lợi nhuận mà người ta thường hay nhắc đến có thể chỉ là tỷ suất lợi nhuận ròng tính trên tổng doanh thu, chứ không phải là tỷ suất lợi nhuận ròng tính trên vốn chủ sở hữu/vốn tự có của chủ doanh nghiệp. Vì vậy, thậm chí mức lợi nhuận ròng 10%-15% (chứ chưa nói đến mức 20%) tính trên tổng doanh thu (sau khi đã trừ tất cả các chi phí sản xuất, kinh doanh, bao gồm tiền lãi trả cho số vốn đi vay với lãi suất cao) cần phải hiểu là một mức lợi nhuận rất khả quan rồi. Nếu đọc bản báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết (ở nước ngoài cho khách quan) thì thấy rằng các công ty này có tỷ suất lợi nhuận ròng (tính trên doanh thu) trung bình chắc cũng chỉ loanh quanh con số này hoặc thậm chí thấp hơn nhiều.
Vẫn chưa hết, nếu xét đến tỷ suất lợi nhuận ròng tính trên vốn sở hữu thì ngay cả nhiều doanh nghiệp đang kêu ca là khó khăn ở Việt Nam hiện nay chắc cũng không ít trong số họ có mức lợi nhuận thuộc hàng khủng. Tóm lại, cho dù lãi suất đi vay có là trên 20% chăng nữa thì cũng không hề đồng nghĩa với việc doanh nghiệp không có lãi hoặc lãi không đủ đề bù đắp tiền trả lãi vay. Nói cách khác, doanh nghiệp vẫn hoàn toàn có thể sống khỏe với lãi suất trên 20% hoặc hơn nữa.
Ngược lại, điều gì sẽ xảy ra nếu cố hạ lãi suất trong khi lạm phát vẫn cao và có khả năng tiếp tục tăng?
Các doanh nghiệp và nền kinh tế rất có thể không gặt hái được lợi lộc gì. Khi lạm phát ở mức cao thì giá cả mọi hàng hóa và dịch vụ đều ở mức cao và sẽ còn tăng lên vì kỳ vọng lạm phát. Lúc đó, giá cả các hàng hóa, dịch vụ đầu vào của doanh nghiệp cũng sẽ phải tăng lên. Lãi suất là ngoại lệ khi nó đã có thể được hạ thấp đi. Nhưng như đã nói, tiền lãi trả cho vốn đi vay cũng chỉ là một trong số nhiều chi phí đầu vào chứ không phải là tất cả, do đó không thể kéo tụt tổng chi phí sản xuất kinh doanh xuống thấp hơn so với lúc chưa hạ lãi suất. Vì thế, mặc dù doanh nghiệp vẫn có khả năng tăng giá bán theo mức lạm phát hiện tại và kỳ vọng trong tương lai, nhưng rốt cuộc lợi nhuận ròng trên doanh thu hoặc vốn chủ sở hữu chưa chắc đã lớn hơn so với khi lãi suất được điều chỉnh theo mức lạm phát.
Nếu máy móc hoặc cố tình hạ lãi suất khi lạm phát đang ở mức cao thì có nghĩa là chúng ta và NHNN đã tự mình tước đi một công cụ chính trong công cuộc chống lạm phát, và, nguy hại hơn, sẽ càng làm tăng áp lực lạm phát theo cơ chế tự diễn tiến (lãi suất giảm, tiền thoát khỏi hệ thống ngân hàng càng nhiều hơn, vòng quay lưu thông tiền càng lớn hơn, giá cả/lạm phát càng tăng lên, NHNN càng phải in thêm tiền để thỏa mãn nhu cầu thanh khoản, vay vốn của các doanh nghiệp nói chung và khu vực kinh tế nhà nước nói riêng...), điều mà không một ai mong muốn phải trải  qua.
Ở thời điểm hiện nay, khi thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt cần lưu ý những gì để đạt hiệu quả cao nhất?
Trong hoàn cảnh có lạm phát thì thi hành và duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt là một lựa chọn chính sách truyền thống và hợp lý. Điều này càng phải được nhận thức rõ trong thời điểm hiện nay. Hỗ trợ cho chính sách tiền tệ thắt chặt là chính sách tài chính công cũng thắt chặt, như đang được thi hành (ít nhất là trên lý thuyết) ở Việt Nam hiện nay.
Nhưng quan trọng hơn là việc có thực thi được nguyên tắc độc lập của NHNN (với tư cách là một Ngân hàng Trung ương) độc lập hay không. Khi NHNN duy trì được tính độc lập cần thiết và thấy rằng sứ mệnh của mình lúc này là phải kiềm chế lạm phát thì lúc đó, cho dù có không thực hiện chính sách tài chính công thắt chặt thì áp lực lạm phát cũng bị suy giảm đi nhiều vì NHNN không còn phải phát hành tiền ra lưu thông nữa, và chính sách tiền tệ vì thế sẽ có nhiều khoảng trống để vận hành hơn và tức là việc kiềm chế lạm phát sẽ có hiệu quả hơn với cái giá phải trả ít hơn.
Xin cám ơn ông!

Mấy lời nói đầu

Sau khi blog cũ của tớ bị mấy đồng chí hacker đánh sập (chắc vì tội làm ngứa mắt mấy anh ấy), nghĩ mãi không biết làm thế nào. Mở blog mới thì sợ bị chung số phận. Không mở thì thấy ngứa ngáy tay chân. Mãi rồi có người nói rằng cái blogspot này khó bị hack hơn và động viên tớ mở account mới. Cái bệnh lười và hèn làm người ta ái ngại nên mở giúp luôn một cái và trao pass tận tay, sướng thế!
Thôi lần này vừa hy vọng là các anh hacker khó nhằn hơn, vừa “cắn rơm cắn cỏ” lậy các anh tha cho nếu các anh vẫn hack được, để cho tớ yên ổn một thời gian để post ít nhất dăm cái entry rồi có xóa thì hãy xóa ạ.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).