Wednesday 17 August 2011

Nợ công của Việt Nam – Lo sợ do sai lầm ngớ ngẩn

Đọc bài này mới thấy cái nguy của những tay mơ viết về kinh tế, nhất là các vấn đề to tát (http://vneconomy.vn/20110813041842652p0c6/hau-hoa-no-cong-va-bai-hoc-tu-luoi-dao-sp.htm). Trước tiên, tớ cần phải rào ngay rằng tớ không có ý định bình luận con số nợ tuyệt đối và tương đối hiện nay của Việt Nam là cao hay thấp, mà chỉ tập trung vào việc chỉ ra cái sai lầm ngớ ngẩn của tác giả bài viết trên, hoặc là của một nguồn cung cấp số liệu nào đó mà tác giả sử dụng nhưng không thể tự mình biết là đúng hay sai (tớ thiên về cái sau này hơn, vì thấy có một số báo khác cũng có bài viết sử dụng số liệu tương tự).
Bài báo cho biết: “Theo Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, năm 2007, nợ công là 33,8% GDP nhưng từ 2008, tỷ lệ này nâng lên 36,2%; 2009: 41,9%; 2010: 56,7%. Năm 2011, Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính) dự kiến nợ công sẽ đạt 1.375 nghìn tỷ đồng, tương đương 58,7% GDP. Như vậy, từ năm 2007 đến hết 2011, nợ công đã tăng khoảng 25%, đạt mức trung bình 5%/năm. Với đà tăng này, chỉ cần 8 năm nữa, nợ công Việt Nam sẽ lên tới 100% GDP”.
Xin thưa các đồng chí nhà báo là nợ công tăng trung bình 5%/năm trong 4 năm qua thì với đà tăng đó cũng không thể có con số nợ công bằng 100% sau 8 năm nữa. Lý do rất đơn giản là GDP là một con số biến động theo năm (thường là tăng lên, ở trường hợp của Việt Nam trong mấy thập kỷ qua), chứ không phải là một con số tuyệt đối, bất biến qua các năm. Trong 4 năm qua, GDP của Việt Nam tăng trưởng với tốc độ trung bình trên thực tế (chắc là) trên 6%/năm, lớn hơn tốc độ tăng trưởng nợ công. Nếu trong vòng 8 năm nữa mà cả nợ công và GDP đều tăng trưởng như với tốc độ trung bình trong 4 năm qua thì cái thương số tổng nợ công/GDP làm sao mà tăng lên sau 8 năm được hở giời? Nếu GDP có tăng trưởng bằng với tốc độ tăng trưởng nợ công (tức là 5%/năm) thì tỷ lệ nợ công trên GDP sẽ là không đổi trong suốt thời gian nghiên cứu. Còn nếu GDP chỉ tăng trưởng ở mức thấp hơn 5%/năm thì cũng “còn khướt” mới đến thời điểm mà nợ công bằng 100% GDP, chứ không phải 8 năm đâu ạ (xem thêm tính toán ở phần sau).
Còn nếu các đồng chí (hoặc ai đó như Ủy ban Giám sát tài chính hoặc Bộ Tài chính) lại ngây thơ hơn, đi tính thời gian cần thiết để con số nợ công tương đối tăng từ mức 58.7% GDP lên 100% GDP thì cũng không thể ra con số 8 năm được (mặc dù phép tính này là hoàn toàn không có ý nghĩa). Cụ thể (chỉ để minh họa về mặt toán học), để một con số (trị tuyệt đối) 58.7 tăng lên thành 100 với tốc độ tăng trung bình 5%/năm thì cần log(100/58.7)/log(1.05) = 10,9188 năm.
Phép tính trên chỉ để minh họa thời gian cần thiết để một con số tuyệt đối nào đó đạt đến một giá trị tuyệt đối nào đó với tốc độ tăng trung bình hàng năm cho trước. Quay lại với trường hợp tỷ trọng nợ công trên GDP của Việt Nam. Như nói ở phần trên, vì GDP cũng tăng trưởng nên thời gian cần thiết để tỷ trọng nợ công của Việt Nam đạt đến 100% GDP từ mức 58.7% GDP sẽ phải dài hơn số 10,9188 năm tính ra như ở trên. Tốc độ tăng GDP trung bình hàng năm càng cao (nhưng dưới 5%/năm) thì thời gian cần thiết càng phải dài ra. Nếu “chẳng may” mà GDP tăng trưởng với tốc độ trung bình lớn hơn 5%/năm thì sẽ chẳng bao giờ có cái thời điểm mà ở đó nợ công bằng 100% GDP cả, vì lúc đó đơn giản là nợ công liên tục giảm đi so với GDP qua các năm.
Khổ lắm cơ! Sai sót một cách ngây ngô như thế nhưng đã đủ làm cho khối người sợ rồi.
Có bạn đọc nào đủ tốt thì giúp tớ chuyển cái comment này đến những nơi cần đến với. Tớ ngán cái việc tự mình gửi comment đến giới báo chí lắm rồi.

Friday 12 August 2011

Nản với mấy bác quá

Đọc bài này xong thấy nản với mấy ông chuyên gia với (cựu) quan chức nhà ta quá chừng (http://www.baomoi.com/Home/TaiChinh/tinnhanhchungkhoan.vn/Ha-lai-suat-bang-ap-tran-lai-suat-cho-vay/6801334.epi). Các ông này đang kêu gọi áp trần lãi suất cho vay thay vì áp trần lãi suất huy động. Giá mà các ông chỉ dừng lại ở việc kêu gọi xóa trần lãi suất huy động mà không động chạm gì đến việc áp trần lãi suất cho vay thì nền kinh tế này được nhờ lắm lắm!
Hẳn các ông biết rõ rằng áp trần lãi suất nào cũng là một biện pháp hành chính. Mà đã là biện pháp hành chính thì không bao giờ có được hiệu quả (bền vững) như mong muốn. Hình như ngay ông Nghĩa đã có lần phát biểu (đại loại) rằng các ngân hàng thương mại rất thích NHNN áp dụng các biện pháp hành chính vì họ càng “rộng cẳng” để lách luật, kiếm lợi trên những quy định hành chính đó. Còn ông Kiêm thì… thôi rồi. Ông chính là người mỗi khi NHNN thắt chặt chính sách tiền tệ là y rằng lại lên tiếng rằng xx% doanh nghiệp (vừa và nhỏ) đang ngắc ngoải, sắp chết tươi nếu NHNN tiếp tục duy trì thắt chặt tiền tệ. Tớ nhớ điều này vì nghe ông nói mãi thành quen từ thời điểm nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính 2008. Mà giời ạ, các doanh nghiệp ông kêu hộ chắc không chết (hết), và không hiểu ông đi điều tra ở đâu, lúc nào, được bao nhiêu doanh nghiệp mà ông tuyên bố chắc nịch rằng xx% doanh nghiệp sắp chết thế không biết? Đến Tổng cục Thống kê cũng chẳng mấy khi có được một cuộc điều tra về “sự sống và cái chết” của doanh nghiệp tường tận đến như vậy. Ông còn là một trong những tác giả của lời phát biểu “bất hủ” (đại loại) là các doanh nghiệp chỉ đạt được lợi nhuận bình quân dưới 20% (bây giờ lạm phát cao nên ông nâng mức lợi nhuận bình quân lên 20% chứ, trước đây ông tuyên bố chỉ là 15% hay gì đó!) mà lãi suất đi vay vượt quá 20% thì doanh nghiệp càng làm càng lỗ! (xem phản biện của tớ về chuyện này ở các entry trước).
Quay lại chuyện tại sao tớ nản với mấy ông này, đúng hơn là đề xuất áp trần lãi suất cho vay của họ. Chắc họ không lạ lẫm gì với tình trạng “đi đêm” mặc cả lãi suất giữa người gửi tiền và ngân hàng, mặc dù trên danh nghĩa lãi suất tiền gửi chỉ dừng lại ở con số 14% đúng như quy định của NHNN. Đương nhiên, NHNN biết rõ chuyện này đang xảy ra trước mũi mình. Lý do tại sao có chuyện “đi đêm” này và chuyện đó lại thành công, lại phổ biến thì họ thừa hiểu, bạn đọc cũng thừa hiểu, khỏi nhọc công nhắc lại.
Chưa hết, ở đây tớ chỉ nêu thêm ra mấy điều để họ và những người tán đồng với đề xuất này tự thấy mình vô lý . Thứ nhất, nếu đã áp trần lãi suất cho vay thì chắc chắn chẳng ngân hàng nào dám cho các vay các giao dịch thẻ tín dụng, tiêu dùng, các dự án đầu tư mạo hiểm, nhiều rủi ro, các con nợ tiềm năng có lịch sử tín dụng không tích cực lắm v.v... Vì bản chất những đối tượng, những dự án vay vốn này cần phải được tính với lãi suất cao hơn (nhiều) lãi suất cho vay thương mại thông thường cho những dự án lành mạnh, ít rủi ro hơn. Rồi còn chuyện kỳ hạn cho vay nữa. Với trần lãi suất cho vay, điều tương tự cũng sẽ xảy ra như với trần lãi suất huy động. Đến một lúc nào đó lãi suất cho vay sẽ bị cào bằng giữa các đối tượng, giữa các kỳ hạn, giữa các hình thức sản xuất kinh doanh... là điều cực kỳ phi lí trong nền kinh tế thị trường.
Thứ hai, nếu áp trần lãi suất cho vay trong khi giả sử NHNN kiên định với chính sách tiền tệ thắt chặt của mình, và giả sử rằng trần lãi suất huy động cũng được hủy bỏ, nhưng lạm phát (tính theo năm) vẫn ở mức cao hơn nhiều so với trần lãi suất cho vay (như mức lạm phát hiện tại). Điều gì sẽ xảy ra? Người gửi tiền chắc chắn sẽ không mặn mà chuyện gửi tiền vào ngân hàng để hưởng một lãi suất còn thấp hơn trần lãi suất cho vay (và tức là thấp hơn nhiều nữa so với mức lạm phát hiện tại và lạm phát kỳ vọng). Ngân hàng do không huy động (được đủ nhiều) nên buộc phải giảm thiểu tăng trưởng, thậm chí là co hẹp, tín dụng, trầm trọng hơn thì lâm vào khủng hoảng thanh khoản. Đến đây thì không chỉ hệ thống ngân hàng lãnh đủ mà còn cả giới sản xuất kinh doanh nữa vì tín dụng từ hệ thống ngân hàng đã bị thắt chặt. Hậu quả tiếp theo là chính cái điều mà mấy ông này nói riêng và Chính phủ nói chung lo sợ rằng sản xuất kinh doanh sẽ bị đình đốn, tăng trưởng suy giảm, an sinh xã hội không được đảm bảo v.v...
Nếu NHNN không thể đứng nhìn tình trạng này xảy ra và can thiệp bằng cách “hỗ trợ” thanh khoản, dù bằng nghiệp vụ thị trường mở, hay hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hay tái cấp vốn hay gì gì đi chăng nữa thì rốt cuộc cung tiền sẽ tăng lên (nhấn mạnh lại là không thể gọi khác đi bản chất của việc “hỗ trợ” này) và áp lực lạm phát sẽ tiếp tục gia tăng, là điều “húy” đối với không chỉ NHNN lúc này.
Nhân tiện nói đến chuyện lãi suất huy động trong quan hệ với lạm phát, có một số người phán rằng không cần thiết phải áp dụng lãi suất thực dương (tức là có thể áp lãi suất tiền gửi thấp hơn lạm phát) vì hiện nay đầu tư vào đâu cũng khó khăn (chứng khoán, nhà đất, vàng...) nên người gửi tiền vẫn buộc phải gửi vào ngân hàng dù lãi suất có thấp hơn lạm phát. Xin thưa rằng các vị đừng dại dột mà thử thách trí thông minh của người có tiền gửi/đầu tư. Và cũng xin thưa rằng giá vàng, nhà đất, chứng khoán và các tài sản khác có biến động nhưng không có nghĩa là không nên/không được đầu tư vào đó, và nếu có thì không có lãi (bằng hoặc cao hơn lãi suất tiền gửi). Điều này đặc biệt đúng với một nước như Việt Nam nơi mà lạm phát cao thường xuyên nổ ra và người ta (người có tài sản) đã có quá nhiều kinh nghiệm đối phó với nó. Do đó, nếu kém cỏi, mù quáng đến nỗi cố tình hạ lãi suất trong bối cảnh lạm phát đang nóng như hiện nay thì không khác gì đem dầu đổ vào lửa.
Đến đây, lại thấy rất buồn cười với phát biểu của ông Kiêm về chuyện rằng NHNN không dễ thực hiện hạ lãi suất bằng các công cụ thị trường (như công cụ tái chiết khấu), mà phải kết hợp với một số biện pháp hành chính. Không hiểu ông dựa vào đâu để nghi ngờ tính hiệu quả của các công cụ điều hành chính sách tiền tệ của NHNN như vậy? Nếu không làm được điều tối thiểu này thì NHNN còn tồn tại để làm gì nhỉ? Có lẽ thay vào đó, ông nên trả lời câu hỏi là NHNN có thực sự muốn giảm lãi suất hay không mà thôi.
Tóm lại, chỉ nói sơ sơ như trên thôi mà thấy bật ra một số vấn đề không hề đơn giản mà chắc là những người đề xuất ra trần lãi suất cho vay không/chưa hề nghĩ đến. Chỉ mong NHNN nói riêng, Chính phủ nói chung không phạm phải một sai lầm khác khi đi nghe những “kiến nghị” với “đề xuất” kiểu này.
Tái bút: Nhân nói về chủ đề “nản với chuyên gia và quan chức Chính phủ”, tớ nhất định có dịp sẽ phải mang thêm mấy ông như ông Nguyễn Tiến Thỏa, Cục trưởng Cục quản lý giá ra phân tích (trong một entry riêng sau này). Thú thực là tớ nản với mấy ông này lắm lắm mỗi khi nghe các ông ấy lý luận! Bạn đọc nhớ đón xem nhé!

Monday 8 August 2011

Chuyện bằng giả của bác Vũ Viết Ngoạn

Cũng hơi bị sốc khi đọc thấy cái tin bác Ngoạn xài bằng giả! Sốc vì tiếc cho bác ấy. Chẳng là mấy hôm trước cũng đọc được cái phỏng vấn ngắn bác ấy trên một tờ báo nào đó về chuyện chính sách tiền tệ. Trong mấy khuôn mặt của các quan chức hữu trách và kể cả giới chuyên gia, xem ra có bác này và một số rất ít bác khác là có được một số phát biểu đúng đắn mà người đọc như tớ mong đợi cần phải có từ miệng các vị. Đọc thấy bác này có học vị TS thì cũng tự nhủ quả cũng không uổng công học hành, nghiên cứu.
Nhưng rồi khi chuyện vỡ ra mới biết bác này cũng không “ngoan” hơn các bác chưa hoặc đã bị “vỡ”. Bác ấy chống chế rằng (đại loại) chuyện bằng cấp với bác ấy không quan trọng, rằng là bác ấy học để cho gia đình và cho (kiến thức) bản thân bác ấy. Vậy mà bác ấy vẫn trưng cái bằng dỏm này ra để làm gì? Biết là nó dỏm, nó không phải là mục đích của bác ấy thì sao không cất vào đáy hòm để cho chỉ mỗi bác ấy, vợ bác ấy, và một số quan chức phê duyệt kinh phí cho bác ấy “đi học” mua cái của dỏm này biết là được?
Tớ cam đoan rằng bác ấy có ngày hôm nay là có phần (lớn) nhờ cái bằng dỏm này, trong bối cảnh nhiều đồng chí khác cũng theo con đường đó mà đi lên. Chuyện bác ấy kể khổ về quá trình học cũng chỉ là chuyện vớ vẩn. Trên hết, chẳng thấy bác ấy nói gì đến luận án nghiên cứu hay công trình khoa học đã xuất bản trong vòng có nhõn 1 năm “học” thì suy ra là bác ấy chẳng làm được cái gì sất về những cái thứ xa xỉ này, và suy ra tiếp rằng cho dù bác ấy có xin thêm được kinh phí của mấy ông gà mờ ở Việt Nam để tiếp tục “học” thêm vài ba năm nữa cho... đủ dài, đủ để lừa thiên hạ, thì bác ấy mãi mãi vẫn chẳng đủ điều kiện tối thiểu để được gọi là Tiến sĩ. Tất nhiên chỉ trừ cái trường đã cấp bằng cho bác ấy! Tớ mà là bác ấy thì thôi cứ thành thật mà nhận rằng thời của bác Ngoạn, chuyện xin học bổng nước ngoài để làm TS không dễ (dù có “tầm cỡ” như bác Ngoạn chăng nữa!) nên đành âm thầm đi đường vòng, miễn sao là đạt được mục đích có cái bằng TS về nộp cho cơ quan để “hoàn thiện” hồ sơ, chứ không dám nghĩ tới những cái mục đích khác. Không ngờ về sau mọi thứ vượt quá tầm kiểm soát (kể cả chức tước cũng đến nhanh quá, cao quá) đến mức “thay đổi về chất”, trở thành một thứ tai tiếng như bây giờ, là cái bác ấy tuyệt đối không mong muốn. Đại loại vậy.
Lại thấy có một số comment rằng bác ấy xứng đáng gọi là TS tuy chỉ có cái bằng dỏm TS, rằng đại loại vậy. Thì ngay tớ cũng phải công nhận rằng phát ngôn của bác ấy tỏ ra hơn hẳn nhiều đồng chí TS ở Việt Nam (chẳng nhẽ không hơn được những đồng chí học bổ túc cấp 2, cấp 3, một năm nhảy mấy lớp, học tiếp lên Tại chức rồi thừa thắng xông lên làm một lèo TS kiểu tương tự này?) Nhưng chuyện nào ra chuyện đó ạ. Xanh ra xanh, đỏ ra đỏ, không thì các thang giá trị trong xã hội lộn tùng phèo hết.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).