Tuesday 20 December 2011

Hiểu rõ để phòng chống bóng ma lạm phát trở lại (dang tren Dai bieu Nhan dan)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=233276

07:41 | 21/12/2011

Lạm phát có xu hướng hạ nhiệt trong những tháng gần đây. Nhưng điều này không có nghĩa là giá cả đang giảm đi, mà chỉ là tăng chậm lại. Bóng ma lạm phát vẫn đe dọa quay trở lại khi năm 2012 đang đón chờ với nhiều thách thức từ bất ổn vĩ mô trong và ngoài nước, từ lòng tin vào nội tệ còn mong manh, và từ công cuộc tái cấu trúc nền kinh tế chưa hoặc mới chỉ được bắt đầu. Bởi vậy, hiểu rõ nguyên nhân gây ra lạm phát để có đối sách hữu hiệu là một yêu cầu cấp thiết.

Như trong Nghị quyết 11 của Chính phủ ban hành cuối tháng 2 năm nay, chính sách tiền tệ được xác định rõ là một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua. Tuy nhiên, chúng ta sẽ thấy thêm rằng chính sách tiền tệ mở rộng quá mức (với tốc độ tăng trưởng tín dụng cho toàn bộ nền kinh tế lên tới trên 30% năm trước) là nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát cao ở Việt Nam, chứ không chỉ chung chung là một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát như vẫn thường được nêu ra, ví dụ như chính sách tài khóa nới lỏng do đầu tư công lớn và không hiệu quả.

Tất nhiên, một số yếu tố khác cũng có thể góp mặt trong việc gây ra lạm phát, nhưng chúng thường không phải là nguyên nhân chính thống hoặc quan trọng. Ví dụ về những yếu tố này gồm có: tín dụng đã đổ nhiều một cách bất cân đối vào khu vực phi sản xuất (gồm chủ yếu bất động sản và chứng khoán); chi phí đầu vào tăng do giá xăng dầu, điện, than tăng; hệ thống phân phối bất cập; thiên tai, dịch bệnh; hay do “sự trượt giá của VND” (ví dụ, so với USD) làm tăng chi phí nhập khẩu v.v... (Lưu ý, ở đây ta không xét đến lý do mà vẫn được không ít người nêu ra là áp lực lên lạm phát tăng vì... lãi suất tăng. Đơn giản vì quan hệ nhân quả là theo chiều ngược lại). Nói cách khác, có thể nói hầu như yếu tố tiền tệ có mặt đằng sau mọi yếu tố dẫn đến lạm phát, như nói dưới đây.

Về yếu tố đầu tư công, cần thừa nhận rằng đầu tư công luôn ở mức rất cao, lên tới trên 40% GDP trong mấy năm gần đây, và rằng đầu tư công thường không hiệu quả, gây ra lãng phí lớn, thất thoát nhiều. Nhưng đầu tư công không phải là nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp gây ra lạm phát. Đầu tư công sẽ không gây ra áp lực lạm phát lớn nếu chính sách tiền tệ không mở rộng tương ứng để đáp ứng tối đa nhu cầu tín dụng của đầu tư công.

Giả sử như chính sách tiền tệ được nới rộng ở mức thận trọng (ví dụ, với tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế dưới 10%/năm, thay vì lên đến trên 30%, thậm chí trên 40%/năm) trong thời gian qua. Giả sử thêm rằng Ngân hàng Nhà nước có và duy trì được tính độc lập với Chính phủ (được phép, ví dụ, nói “không” với yêu cầu bơm tiền vào hệ thống ngân hàng thương mại để cho Chính phủ vay, hoặc trực tiếp mua trái phiếu của Chính phủ), còn Chính phủ trung ương và địa phương không được phép can thiệp vào quyết định cho vay của hệ thống ngân hàng thương mại (như vẫn thấy hiện nay trên thực tế). Trong hoàn cảnh đó, Chính phủ và khối doanh nghiệp nhà nước (DNNN) cũng sẽ phải cạnh tranh sòng phẳng, bình đẳng với khu vực kinh tế tư nhân và FDI trong thu hút vốn đầu tư, thông qua thị trường chứng khoán/giấy tờ có giá hoặc qua kênh tín dụng từ ngân hàng thương mại, theo lãi suất vay thương mại.
Ngay cả khi ta giả thiết rằng Chính phủ và khối DNNN vì một lợi thế ngầm định hoặc công khai nào đó đã lấn lướt được khu vực tư nhân và FDI để thu hút hầu hết vốn tín dụng ngân hàng tăng thêm hàng năm (giả thiết là dưới 10%/năm), áp lực lạm phát cũng không vì thế mà tăng lên dữ dội, vì tổng tín dụng cho nền kinh tế chỉ tăng dưới 10%/năm, như so với trường hợp chính sách tiền tệ nới lỏng với tốc độ tăng trưởng tín dụng lên đến trên 30%/năm trên thực tế vừa qua.

Phân tích sâu hơn nữa, khi tín dụng đã bị hút vào DNNN và đầu tư công thì sẽ làm tổng cầu của khu vực này tăng lên. Nhưng đồng thời, theo logic, đầu tư vào khu vực kinh tế tư nhân và FDI phải giảm đi tương ứng vì tổng lượng tín dụng cung cấp ra cho nền kinh tế chỉ có từng đó. Đến lượt nó, điều này lại làm giảm tổng cầu từ khu vực này. Như vậy, về tổng thể, áp lực lạm phát tăng lên do tổng cầu tăng ở khu vực DNNN và đầu tư công tăng sẽ bị trung hòa bởi tổng cầu giảm đi ở các bộ phận còn lại của nền kinh tế. Tất nhiên, tình hình sẽ khác đi hoàn toàn nếu NHNN vì một lý do nào đó tìm cách thỏa mãn nhu cầu tín dụng của tất cả các bộ phận và khu vực kinh tế, làm cho tổng cầu của toàn nền kinh tế tăng vọt, như đã thấy với mức tăng tín dụng lên tới trên 30%-40%/năm như đã thấy.

Có người sẽ lập luận rằng do đầu tư công và DNNN không hiệu quả bằng đầu tư từ khu vực tư nhân nên cùng một lượng vốn đầu tư sẽ cho hiệu quả thấp hơn và vì thế áp lực tạo lạm phát sẽ lớn hơn. Tuy điều này có thể đúng, nhưng như đã nói, với lượng tín dụng có hạn bơm ra bởi NHNN (giả thiết nhỏ hơn 10%/năm), áp lực tổng thể lên lạm phát không thay đổi đáng kể, vì tổng cầu cũng sẽ chỉ thay đổi ở mức hạn chế. Đương nhiên là nếu ta cải thiện được hiệu quả của đầu tư công và DNNN thì áp lực tạo lạm phát còn giảm đi nữa, nhưng đây là câu chuyện của dài hạn, chứ không phải là giải pháp kiềm chế lạm phát trong ngắn và trung hạn. Ngoài ra, nâng cao hiệu quả đầu tư công/DNNN sẽ còn tốn công sức hơn là việc thắt chặt kỷ luật tài khóa và buộc Chính phủ không được vay mượn trực tiếp từ NHNN hoặc thông qua hệ thống ngân hàng thương mại (và bằng các mệnh lệnh hành chính).

Như vậy, có thể kết luận rằng đầu tư công/DNNN chỉ được mở rộng quá mức như ở Việt Nam vừa qua (và làm tăng thêm áp lực lạm phát) khi và chỉ khi chính sách tiền tệ cũng được/cũng bị nới lỏng quá mức nhằm cung cấp tín dụng (một cách dễ dãi) cho nhu cầu đầu tư của DNNN và Chính phủ. Nói cách khác, chính sách tiền tệ nới lỏng quá mức vẫn là nguyên nhân chủ yếu và gốc rễ của lạm phát cao ở Việt Nam.

Điều tương tự cũng có thể được áp dụng cho câu chuyện tín dụng chảy vào bất động sản và chứng khoán, vốn vẫn được nhiều người nhìn nhận như một nguyên nhân gây ra lạm phát vì đây là lĩnh vực “phi sản xuất”. Cũng với những giả định và lập luận như trên, nếu có tăng tín dụng cho 2 khu vực này thì áp lực lạm phát cũng sẽ không tăng lên mạnh, vì tổng lượng tín dụng cho nền kinh tế cũng chỉ có vậy, và áp lực tăng lạm phát từ khu vực bất động sản và chứng khoán sẽ bị trung hòa do tổng cầu từ bộ phận còn lại của nền kinh tế cũng sẽ phải giảm đi tương ứng. Hơn nữa, cơn sốt chứng khoán và bất động sản chỉ thường gắn liền với trạng thái tăng trưởng nóng của nền kinh tế, khi tín dụng ngân hàng tăng mạnh. Trong hoàn cảnh tổng tín dụng cho nền kinh tế tăng có chừng mực thì nó sẽ không kích thích tín dụng đổ vào bất động sản và chứng khoán.

Đối với những nguyên nhân (không chính thống) khác gây ra lạm phát như nói ở trên, có thể dễ dàng chứng minh rằng chúng hoặc không phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra lạm phát, hoặc không phải là nguyên nhân quan trọng.

Về lý do cho rằng giá xăng dầu nhập khẩu tăng nên làm đội chi phí sản xuất kinh doanh trong nước và do đó làm tăng lạm phát, điều này có thể là có thật, nhưng không phải là lý do quan trọng, vì đơn giản là ngay những nước lân bang phụ thuộc nặng nề vào xăng dầu nhập khẩu mà lạm phát của họ còn ở một khoảng cách rất xa của ta.

Điều tương tự là thiên tai, dịch bệnh làm giảm cung một số mặt hàng nào đó. Có thể đúng như vậy, nhưng nhìn ra xa hơn những nước mới đây phải gánh chịu những thảm họa thiên tai còn lớn hơn những gì đã xảy ra ở Việt Nam nhiều lần mà chắc chắn rằng lạm phát của họ không tăng đột biến ở mức như của Việt Nam. Một trong những lý do logic đằng sau chuyện này là cung một số mặt hàng giảm nhưng đồng thời cầu của một số mặt hàng (khác) cũng giảm, thậm chí còn lớn hơn. Ví dụ, thảm họa kép sóng thần và động đất ở Đông Bắc Nhật Bản vừa rồi tuy hủy hoại một phần quan trọng sức sản xuất công nghiệp và nông nghiệp của Nhật, nhưng cũng đồng thời làm tụt giảm nhu cầu một số hàng hóa, ví dụ như than, thép, quặng, điện năng, sản phẩm công nghiệp chế tạo v.v... đơn giản vì đã mất đi phần cầu từ các cơ sở sản xuất công nông nghiệp bị phá hủy, và hơn thế nữa, thông qua tác động dây chuyền làm ảnh hưởng đáng kể đến tổng cầu của Nhật.

Về lý do lạm phát là do tăng giá điện, than, nước v.v..., đây là những hàng hóa sản xuất trong nước nên dễ thấy chúng thường được điều chỉnh tăng khi có lạm phát và ở mức cao, không thể không điều chỉnh được khi giá các yếu tố sản xuất đầu vào cũng tăng. Mà như thế, xét cho cùng, quan hệ nhân quả vẫn là từ chính sách tiền tệ nới lỏng gây ra lạm phát rồi từ đó mới làm giá điện, than, nước tăng theo vì chi phí sản xuất cũng đã/phải tăng theo.

Về lý do do hệ thống phân phối yếu kém, làm chi phí trung gian giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng cuối cùng, điều này có thể tồn tại trên thực tế, nhưng câu hỏi được đặt ra ở đây là tại sao vẫn cùng một hệ thống phân phối yếu kém thậm chí còn hơn bây giờ mà lạm phát những năm trước đây không cao đến như vậy? Nếu suy nghĩ một cách cực đoan hơn, xin hỏi những tác giả của luồng ý kiến này rằng liệu có hệ thống phân phối nào “tinh vi” và phức tạp hơn hệ thống phân phối thời bao cấp ở Việt Nam không? Vậy mà lạm phát vẫn nổ ra, và thậm chí còn ghê gớm hơn rất nhiều thời bây giờ!

Về lý do “trượt giá của VND” so với ngoại tệ, làm tăng chi phí nhập khẩu các nguyên vật liệu, từ đó làm tăng giá thành sản xuất và do đó, giá bán, thì xét cho cùng, đây cũng là do nguyên nhân của chính sách tiền tệ nới lỏng (quá mức). Nếu NHNN thi hành một chính sách tiền tệ thận trọng, chặt chẽ, với cung tiền tăng ở mức thấp, hoặc không tăng, thì cái sự “trượt giá VND” đã không xảy ra, thậm chí là ngược lại, với VND lên giá so với ngoại tệ, khi mà luồng vốn ngoại tệ vẫn tiếp tục đổ vào Việt Nam, gây áp lực tăng giá VND trong bối cảnh NHNN không tăng cung VND lên (một cách tương ứng).

Nói tóm lại, chính sách tiền tệ nới lỏng quá mức vẫn là gốc rễ chính của căn bệnh lạm phát ở Việt Nam. Những yếu tố khác, nếu có, chỉ là góp mặt thêm vào đó, chứ không phải là nhân tố quyết định. Một khi đã xác định được như vậy rồi thì phương thuốc trị căn bệnh lạm phát rất rõ ràng: thắt chặt chính sách tiền tệ (và hậu quả đương nhiên là lãi suất phải tăng lên), đi kèm với đó, nếu có thể, là sự tạo lập và duy trì tính độc lập của NHNN với Chính phủ trong chính sách tiền tệ của mình, thắt chặt kỷ luật tài khóa, và, trong dài hạn hơn, là nâng cao hiệu quả đầu tư công/DNNN. Ngược lại, nếu nới lỏng chính sách tiền tệ quá sớm khi vẫn còn nhiều bất trắc vĩ mô thì bóng ma lạm phát chắc chắn sẽ nhanh chóng quay trở lại.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).