Friday 21 December 2012

Đề xuất phải dựa trên thực tế (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân)


Tớ chán đồng chí Ngoạn với lại cái ủy ban của đồng chí lắm, cũng như các loại ủy ban khác đang và sẽ có mặt ở Việt Nam. Thật là xót tiền dân!
-------------------------------
http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=267634

08:26 | 22/12/2012
Đề xuất “giảm lãi suất cơ bản thêm 1 điểm phần trăm so với lãi suất quy định hiện nay và áp trần lãi suất cho vay không quá 150% lãi suất cơ bản theo luật định” của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia không dựa trên thực tế (ở Việt Nam) và vì thế sẽ không có hiệu quả như mong muốn.
Nguồn: xaluan.com
Trong Báo cáo về tình hình kinh tế tháng 11 và 11 tháng năm 2012, Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia (UBGSTCQG) quy kết một trong những lý do chính cho việc hàng loạt doanh nghiệp tiếp tục phá sản trong 11 tháng qua là do lãi suất tăng cao làm tăng chi phí tài chính và do đó tăng giá thành sản phẩm. Thêm nữa, UB này lập luận rằng lãi suất ở Việt Nam cao hơn rất nhiều lãi suất trong khu vực, vì thế làm giảm tính cạnh tranh của sản phẩm sản xuất tại Việt Nam. Từ đó, UBGSTCQG đề xuất giảm lãi suất cơ bản thêm 1 điểm phần trăm so với lãi suất quy định hiện nay và áp trần lãi suất cho vay không quá 150% lãi suất cơ bản theo luật định.
 
Những đề xuất trên không dựa trên thực tế (ở Việt Nam) và vì thế sẽ không có hiệu quả như mong muốn.
 
Về nguyên tắc, ngân hàng chỉ có thể cho doanh nghiệp vay với lãi suất thấp hơn khi rủi ro của doanh nghiệp vay vốn giảm đi (giả thiết rằng lãi suất đầu vào của ngân hàng không đổi và những cân nhắc cụ thể về khách hàng vay vốn cũng không đổi, ví dụ như giá trị khoản vay, là khách hàng lâu năm hay không, có khoản nợ xấu tồn đọng nào với ngân hàng hay không…). Đến lượt nó, rủi ro của doanh nghiệp chỉ giảm đi khi hoặc bản thân doanh nghiệp đó đã có kết quả hoạt động kinh doanh tốt lên để tạo dòng tiền thừa đủ trả lãi và gốc, và đồng thời (thường có thêm điều kiện là) có tài sản thế chấp. Rủi ro của doanh nghiệp cũng có thể giảm đi nếu doanh nghiệp nhận được sự bảo lãnh của ai đó sẽ chịu trách nhiệm chi trả hộ cho doanh nghiệp nếu doanh nghiệp mất khả năng chi trả khoản vay. Sự bảo lãnh này có thể là của Chính phủ, hoặc các tổ chức công/tư có tín nhiệm và/hoặc có tài sản thế chấp.
 
Chừng nào mà các doanh nghiệp không đáp ứng được 2 điều kiện trên thì đương nhiên ngân hàng sẽ hoặc hạn chế/không cho vay, hoặc nếu có cho vay (trong một số trường hợp) thì ngân hàng sẽ tính lãi cao kèm theo các điều kiện ngặt nghèo hơn, coi đó là một khoản đảm bảo đề bù đắp phần nào rủi ro mang đến từ phía doanh nghiệp khách hàng.
 
Xét trong điều kiện hiện tại ở Việt Nam, có lẽ có nhiều doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn ngân hàng không thỏa mãn được 1 trong 2 điều kiện trên. Một ngân hàng làm ăn cẩn trọng thì hiện tại sẽ phải rất thận trong khi xem xét cho một doanh nghiệp cụ thể nào đó trong một ngành cụ thể nào đó, ví dụ, xi măng hoặc bất động sản, vay vốn vì triển vọng sản xuất kinh doanh khá u ám với nhu cầu thấp trong khi lượng tồn kho ở mức cao trong một thời gian bất định. Nếu không có tài sản thế chấp thì dường như doanh nghiệp này sẽ không có cơ hội được vay ngân hàng, kể cả nếu chấp nhận vay với lãi suất cao. Nhưng ngay cả khi có tài sản thế chấp thì, vì ngân hàng dự tính xác suất khả năng doanh nghiệp trả nợ được ở mức rất thấp, việc thu hồi nợ có thể sẽ phải phụ thuộc vào việc thanh lý tài sản thế chấp, nhiều khả năng ngân hàng sẽ định giá tài sản thế chấp ở mức rất thấp và/hoặc chỉ cho vay với giá trị bằng một phần giá trị của tài sản thế chấp theo định giá khắt khe của ngân hàng.
 
Xét đến điều kiện giảm rủi ro thứ hai – có sự bảo lãnh của ai đó. Điều này ở Việt Nam hiện tại cũng là bất khả thi với đại đa số doanh nghiệp, trừ một số doanh nghiệp nhà nước vốn được hưởng ưu đãi bảo lãnh từ Chính phủ. Người ta cũng nhắc nhiều đến các sáng kiến như lập quỹ bảo lãnh doanh nghiệp, quỹ này quỹ kia nhưng tất cả vẫn là những đề xuất trên giấy, chưa nói đến tính hữu hiệu, khả thi của những loại quỹ này nếu có được cho ra đời.
 
Với những trở ngại và ràng buộc trên, hẳn không lấy gì làm lạ khi thấy nhan nhản những lời kêu ca, cầu cứu từ phía doanh nghiệp về chuyện tiếp cận vốn vay ngân hàng (và) với lãi suất thấp hơn, còn các ngân hàng thì thà đi mua trái phiếu Chính phủ hoặc tín phiếu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) với lợi suất thấp hơn nhiều chứ không tích cực cho doanh nghiệp vay, dẫn đến tốc độ tăng trưởng tín dụng ở nhiều ngân hàng thậm chí còn là âm so với cùng kỳ năm trước.
 
Quay trở lại với đề xuất của UBGSTCQG. Đành rằng đề xuất này đáng quý ở chỗ nó đã cố gắng tạo ra một bước đột phá trong mớ bùng nhùng quan hệ giữa ngân hàng với doanh nghiệp. Nhưng điều đáng nói là phương thức thực hiện lại theo kiểu hành chính, ép các ngân hàng chịu nhiều rủi ro hơn hoặc giảm thu nhập vốn đã trở nên mỏng hơn nhiều của các ngân hàng. Cụ thể hơn, việc áp đặt trần lãi suất cho vay, dù là ở một mức cụ thể ấn định bởi NHNN, chẳng hạn là 15%/năm, hay một tỷ lệ tương đối nào đó, chẳng hạn 150% lãi suất cơ bản, thì vẫn có tác dụng làm vô hiệu hóa 2 nguyên tắc xem xét để giảm lãi suất nêu bên trên. Với trần lãi suất, bất kể khách hàng doanh nghiệp rủi ro thế nào thì ngân hàng vẫn chỉ được cho vay không quá trần lãi suất quy định. Nếu nhắm mắt chấp nhận cho vay như vậy thì đương nhiên mọi rủi ro từ khách hàng sẽ do ngân hàng gánh chịu, dẫn đến rủi ro mất vốn thua lỗ cho ngân hàng tăng lên còn doanh nghiệp và người ra quyết định trên thì phủi tay… làm lại!
 
Nhưng cũng “may” là ngân hàng không nhất thiết bắt buộc phải nhắm mắt làm liều như vậy. Có thể có một số ngân hàng nào đó, nhất là những ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, bị chỉ định bởi một ai đó cho vay một khách hàng cụ thể với một khoản vay cụ thể. Nhưng đa phần các ngân hàng không (luôn luôn) bị chỉ định theo cách này và vì thế họ có quyền từ chối cho khách hàng doanh nghiệp vay với lãi suất không quá 15% nếu ngân hàng thấy khách hàng có rủi ro đáng phải chịu lãi suất cao hơn hoặc sẽ không được vay.
 
Với giả thiết rằng ngân hàng tuân thủ đúng quy định về trần lãi suất, lúc đó họ buộc phải từ chối cho khách hàng có rủi ro cao hơn này vay. Hoặc kể cả trường hợp ngân hàng bí đầu ra về vốn nên tự thân tích cực tìm cơ hội cho vay thì cũng có thể họ sẽ cho vay với lãi suất trần nhưng đòi hỏi tài sản thế chấp nhiều hơn với giá trị bị đánh tụt đi. Dù khả năng nào xảy ra chăng nữa thì kết quả là doanh nghiệp vẫn sẽ khó vay vốn hơn, khó vay được nhiều hơn và với lãi suất thấp hơn. Nếu phải lựa chọn 1 trong 2 khả năng – mất vốn kèm nợ xấu tăng hoặc không/hạn chế cho vay thì dường như chắc chắn ngân hàng sẽ lựa chọn khả năng thứ hai.
 
Với lập luận rằng ngân hàng không cho vay ra thì ngân hàng cũng chết, có thể phản biện rằng ngân hàng vẫn có những kênh để tiêu vốn của mình, như đã và đang làm, tức là mua trái phiếu, tín phiếu. Trường hợp tệ hơn, lợi suất trái phiếu, tín phiếu đều giảm vì nhu cầu mua của các ngân hàng tăng cao, làm giảm tính hấp dẫn sinh lợi của kênh đầu tư này thì đương nhiên là ngân hàng sẽ phải thu hẹp đầu vào (giảm huy động vốn, giảm lãi suất huy động) hoặc, nghiêm trọng hơn, cắt giảm số lượng nhân viên, đóng cửa chi nhánh, thu hẹp hoạt động… như đã và đang xảy ra ở Việt Nam cũng như trên thế giới.
 
Nhưng cho dù có vậy thì vẫn hầu như sẽ không có ngân hàng nào lại gật đầu với việc đẩy mạnh cho vay khách hàng có rủi ro cao với lãi suất trần hoặc thấp hơn, và doanh nghiệp thì sẽ tiếp tục khó khăn trong việc tiếp cận vốn ngân hàng!

Friday 14 December 2012

“Ủy ban” không phải là chiếc đũa thần! (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân)

 
19:59 | 14/12/2012
Mới đây, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) đã đề xuất 4 nhóm mô hình về chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Trong 4 mô hình này, CIEM dường như nghiêng về mô hình đầu tiên, theo đó việc quản lý, giám sát toàn diện và hiệu quả DNNN sẽ được tập trung về một cơ quan chuyên trách với tên tạm gọi là Ủy ban Quản lý giám sát DNNN.
 
Theo CIEM, Ủy ban này trực thuộc Chính phủ, thực hiện quyền và nghĩa vụ chủ sở hữu Nhà nước. Chủ tịch Ủy ban sẽ do Thủ tướng hoặc một Phó thủ tướng kiêm nhiệm. Phó chủ tịch Ủy ban làm việc chuyên trách sẽ có chức danh tương đương Bộ trưởng. Đoàn chủ tịch của Ủy ban sẽ có một số thành viên chuyên trách và một số thành viên kiêm nhiệm như lãnh đạo đại diện các bộ liên quan tham gia. Ủy ban cũng sẽ có bộ máy chuyên môn, nghiệp vụ theo các lĩnh vực như nhân sự và tiền lương, tài chính kế toán, tái cấu trúc, đào tạo, thống kê, pháp chế... để quản lý toàn diện hoạt động DNNN.
 
Theo mô hình này, CIEM đề nghị phải thành lập Hội đồng tư vấn gồm các chuyên gia độc lập, các nhà khoa học am hiểu sâu, rộng về lĩnh vực hoạt động của DNNN để hỗ trợ cho Ủy ban. CIEM cho rằng mô hình này có nhiều ưu điểm, mang tính tập trung cao, tách bạch được chức năng chủ sở hữu Nhà nước và chức năng quản lý Nhà nước. Viện này cũng thừa nhận rằng mô hình này có nhược điểm là sẽ phát sinh thêm một bộ máy, biên chế Nhà nước, kéo theo các vấn đề nhân sự và có thể vấp phải sự phản đối do lợi ích nhóm.
 
Xem xét kỹ hơn một chút về đề xuất này, ta có thể thấy ngoài nhược điểm hoàn toàn không phải là dễ bỏ qua mà CIEM đã thừa nhận (phát sinh thêm bộ máy...), đề xuất trên còn chứa đựng những bất ổn xem ra còn khó bỏ qua hơn nữa.
 
Bất ổn thứ nhất, đề xuất kiểu này dường như là một đại diện xuất sắc cho trường phái tư duy cái gì không quản được thì cần thiết phải có, phải thiết lập một bộ máy càng đồ sộ, càng “to” càng tốt, đặc biệt là nhất thiết phải có sự hiện diện của Thủ tướng hoặc ít ra thì cũng phải Phó thủ tướng đứng đầu. Có lẽ những người đề xuất quan niệm rằng khi có sự hiện diện của (Phó) Thủ tướng thì mọi ủy ban, tổ chức sẽ vận hành suôn sẻ hơn chăng? Nếu vậy thì cần suy nghĩ lại! Thực tế đã cho những câu trả lời rõ ràng, kể cả lời xin lỗi công khai của Thủ tướng về sự điều hành kinh tế xã - hội yếu kém của Chính phủ trong thời gian qua.
 
Thêm nữa, các tác giả của đề xuất dường như vô tình hay hữu ý quên một thực tế rằng nguyên nhân hoạt động yếu kém của các DNNN không phải là sự thiếu quyền lực (quản lý) tập trung hay thiếu sự gắn kết giữa các cơ quan hữu trách trong việc quản lý DNNN. Nhiều DNNN lớn, tập đoàn kinh tế đã và đang trực thuộc sự quản lý của Thủ tướng, đến mức độ mà Thủ tướng là người phê duyệt cả những quyết định kinh doanh, nhân sự lẽ ra thuộc thẩm quyền của doanh nghiệp. Như vậy, quyền lực và sự tập trung quyền lực sẽ không bao giờ cần được coi là một nguyên nhân mà sự thiếu hụt chúng đã tạo ra một bức tranh thảm hại về DNNN như hiện nay.
 
Bất ổn thứ hai, cứ cho là một bộ máy có sự hiện diện của (Phó) Thủ tướng như vậy sẽ hoạt động hữu hiệu thì người ta cần phải nhớ rằng hiện nay đã có thêm một vài đề xuất tương tự, nào là thành lập Ủy ban Tái cơ cấu kinh tế, nào là Ủy ban Tái cơ cấu DNNN, và cứ như vậy thì thế nào nay mai cũng sẽ có thêm những Ủy ban đại loại như Ủy ban Xử lý nợ xấu ngân hàng, Ủy ban Cải cách ngân hàng, Ủy ban Tái cơ cấu nợ công, Ủy ban Phục hưng kinh tế... Và điều đáng nói là các loại ủy ban như vậy thế nào cũng phải có sự chủ trì của người đứng đầu Chính phủ. Giả thiết rằng, vì tầm quan trọng của những loại ủy ban này đúng như những người đề xuất biện hộ thì khi đó, xét về logic, dù có tài giỏi mấy thì phải là người 3 đầu 6 tay mới có thể kiêm nhiệm một loạt những chức vụ chủ tịch của những ủy ban như vậy. Bằng không, sự kiêm nhiệm đó chỉ là hình thức, rốt cuộc mọi việc vẫn đâu hoàn đó.
 
Bất ổn thứ ba, và quan trọng hơn, những người đề xuất trên dường như cũng quên rằng mấu chốt vấn đề không phải là tách bạch chức năng quản lý nhà nước với chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước. Đối với DNNN, chừng nào còn có sự nhập nhằng giữa chức năng “ổn định kinh tế vĩ mô” với chức năng kinh doanh theo đuổi lợi nhuận đơn thuần như bất cứ một doanh nghiệp thông thường nào thì chừng đó chắc chắn hãy sẵn sàng để đón nhận kết quả hoạt động thảm hại của các DNNN như hiện nay.
 
Thay vì loay hoay với hà hơi tiếp sức cho các DNNN bằng những biện pháp tái cơ cấu nửa vời hoặc thành lập cơ quan này kia, hãy mạnh dạn tách bạch chức năng của từng DNNN, doanh nghiệp nào chuyên làm công ích, phi lợi nhuận thì hãy để chúng hoạt động đúng như vậy, còn doanh nghiệp nào đã kinh doanh vì lợi nhuận thì hãy để lợi nhuận là thước đo sự tồn tại cho doanh nghiệp đó, cho bộ máy quản lý của doanh nghiệp đó, cũng như cho những người đại diện cho vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp đó. Nếu không làm được triệt để như vậy thì cho dù với sự thành lập của Ủy ban nói trên, một khi kết quả thực tế không được như ý muốn, một lời xin lỗi suông và một quyết định “chấm dứt thí điểm” (chủ trương quản lý bằng các loại ủy ban) sẽ lại được đưa ra, và rồi mọi việc lại trở về như cũ.
 
Cuối cùng, cũng quan trọng không kém, chừng nào vẫn coi DNNN là chủ đạo trong những lĩnh vực then chốt trong hoạt động của DNNN thì chừng đó vẫn cần phải có những ưu đãi, những can thiệp từ Chính phủ để DNNN tồn tại và (hy vọng là) thực hiện được những chức năng đi ngược lại các quy luật kinh tế thị trường (nói một cách đơn giản là không có lợi nhuận thì không làm). Trong bối cảnh như vậy thì đừng nên đặt ra vấn đề DNNN kinh doanh phải có lãi! Tương tự như vậy, các loại ủy ban là điều không cần thiết!

Saturday 8 December 2012

Lại về đồng chí Tiến sĩ Lê Thẩm Dương!


Có một bạn đọc (chắc là nữ) gửi email cho tớ (từ một account có cái tên rất ấn tượng) bảo tớ bình luận về các phát biểu của đồng chí Tiến sĩ Lê Thẩm Dương như sau. Mời các đồng chí bạn đọc bình luận giúp tớ với. Tớ mới chỉ trả lời rất ngắn gọn cho bạn đọc có email ấn tượng trên thôi, không đi vào chi tiết đúng sai của từng phát biểu của đồng chí Dương.
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Kính gởi anh Minh (Ngọc: hy vọng là nhầm tên của tớ, chứ không phải gửi nhầm người!),
Em đang tìm hiểu về trần lãi suất, nhưng qua phát biểu của TS Lê Thẩm Dương thật sự em không hiểu logic nằm sau phát biểu của TS là gì. Vì TS là chuyên gia hàng đầu ở VN nên em lúng túng quá. Em xin gởi cho anh thống kê của em về phát biểu của TS, mong anh cho em ý kiến để em hiểu thêm. Cám ơn anh nhiều ạ.

Từ 5-5-2012 đến 7-12-2012:

Bỏ lãi suất trần: Ngày 7-12-2012 trong bài Nặng gánh cho lãi suất (link này: http://www.thoibaonganhang.vn/tin-tuc/2-nang-ganh-cho-lai-suat-5875.html)

Theo TS.Lê Thẩm Dương – Trưởng khoa Quản trị kinh doanh Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh hiện lãi suất đang gánh quá nhiều nhiệm vụ: Vừa đảm bảo lãi suất VND đủ hấp dẫn để hút tiền trong dân cư, góp phần chống vàng hóa, đô la hóa cũng như duy trì thanh khoản cho hệ thống ngân hàng. Nhưng lãi suất cho vay lại phải hạ thấp để giúp DN tiếp cận vốn tốt hơn, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế... Với những nhiệm vụ trên, có thể nói lãi suất đã chịu sức ép lớn từ nền kinh tế. Ông Dương cho rằng đề xuất áp trần lãi suất cho vay thời điểm này không khả thi đối với ngân hàng.

Vừa bỏ vừa giữ lãi suất trần: Ngày 6-12-2012 trong bài Áp trần lãi suất cho vay: Xuất chiêu “lách” phí? (link này: http://www.tienphong.vn/Kinh-Te/603504/Ap-tran-lai-suat-cho-vay-Xuat-chieu-%E2%80%9Clach%E2%80%9D-phi-tpp.html)

Nhìn vào vấn đề, TS Lê Thẩm Dương - Trưởng khoa Quản trị kinh doanh Đại học Ngân hàng TP Hồ Chí Minh thẳng thắn: Nếu áp trần lãi suất cho vay thời điểm này có thể “vô tình”đẩy các ngân hàng vào thế khó hơn. (Ủng hộ bỏ)

Theo ông Dương, nếu như cuối năm trước với việc phải trả lãi suất trên 20% các DN chỉ “mơ” lãi suất xuống 16 - 17%, thì đến thời điểm này lãi suất đã ở mức 13 - 14% thậm chí nhiều ngân hàng triển khai các chương trình cho vay ưu đãi với lãi suất 9 - 10%/năm.

“Như vậy các ngân hàng rất nỗ lực trong việc cố gắng giảm và đã chia sẻ giảm 8 - 10% điểm lãi suất. Tháo trần lúc này sẽ rất nguy hiểm khi thanh khoản tại một số ngân hàng nhỏ vẫn chưa thực sự tốt. (Ủng hộ giữ)

Nếu việc áp trần lãi suất cho vay được thực hiện thì có thể nói chúng ta đã thay một phương án xấu bằng phương án xấu hơn. Và như vậy biện pháp này có thể gây ra tác dụng ngược”- TS Dương lưu ý. (Ủng hộ bỏ)

Bỏ lãi suất trần: Ngày 1-12-2012 trong bài Sẽ giảm lãi suất cho vay (link này:http://www.thanhnien.com.vn/pages/20121201/se-giam-lai-suat-cho-vay.aspx)

TS Lê Thẩm Dương - Trưởng khoa Quản trị doanh nghiệp, Trường đại học Ngân hàng TP.HCM -không đồng ý với việc áp trần LS cho vay. Theo ông, LS huy động tiền đồng đối với kỳ hạn dưới 12 tháng hiện nay cũng đưa ra mức trần tối đa là 9%/năm. Nếu áp trần lãi vay thì cả LS huy động, cho vay đều có trần và thị trường trở lại thời kỳ bao cấp. Trong khi chưa có cơ quan chức năng nào phân tích một cách bài bản tốc độ tăng trưởng tín dụng chậm do LS tác động lên bao nhiêu. Một điểm khá lạ trên thị trường LS gần đây là LS cho DN vay cao hơn cho cá nhân vay. Cụ thể, LS cho vay DN ở mức dưới 11-15%/năm, trong khi LS cho vay đối với khách hàng cá nhân mua nhà, sửa chữa nhà có ưu đãi từ 3 - 6 tháng dưới 10%/năm, còn nếu không có ưu đãi thì ở mức 12-13%/năm.

Ông Dương cho rằng không loại trừ trường hợp, nếu áp trần cho vay, các NH sẽ chọn những khoản vay nào đủ “sở hụi” mới cho vay, chọn lĩnh vực mà NH sống được thì tích cực triển khai cho vay. Như vậy, vốn sẽ không chảy vào những chỗ mà chúng ta cần ưu tiên. Vì vậy, vấn đề không hẳn là giảm LS cho vay mà là DN vay làm hàng hóa dịch vụ bán cho ai, cách tiếp cận vốn của DN có dễ dàng không, các thủ tục cho vay có đơn giản không...

Giữ lãi suất trần: Ngày 21-11- 2012 trong bài Trần lãi suất: Dở cũng phải để? (link này:http://us.24h.com.vn/tai-chinh-bat-dong-san/tran-lai-suat-nh-do-cung-phai-de-c161a499779.html)

Không đồng tình với ý kiến nên bỏ trần lãi suất, chuyên gia kinh tế tài chính-ngân hàng-TS Lê Thẩm Dương cho rằng, lúc này vẫn chưa là thời điểm thích hợp mặc dù chúng ta đã duy trì lãi suất 2 năm.

Đồng ý với quan điểm, càng duy trì mặt bằng lãi suất, thị trường càng méo, bóp quan hệ cung-cầu nhưng chuyên gia kinh tế Lê Thẩm Dương cho biết, lãi suất phải gánh quá nhiều nhiệm vụ như: vừa lo thanh khoản thấp quá dân không gửi tiền, vừa lo cứu DN nếu cao quá thì chết, lại phải cứu tỷ giá, khống chế tiền trong XH…nên nếu bỏ đợt trần thì lãi suất lên rất cao.

“Phải bỏ trần mới quay trở về quy luật nhưng trong bối cảnh cụ thể thì không được. Lãi suất mà chẹn đầu trần lãi suất sẽ dở vô cùng. Nhiều khi không muốn nhưng vẫn phải duy trì”, ông Dương nhấn mạnh.

Mặt khác, ông Dương cho rằng, việc các NH đồng loạt giảm lãi suất huy động chỉ là biện pháp nhất thời, chưa có cơ sở giảm bền vững nên nếu bỏ trần, lãi suất “bùng” lên sẽ khó kiểm soát.

Giữ lãi suất trần: Ngày 21-7-2012 trong bài Hạ lãi suất cho vay nợ vẫn còn nhiều bất cập(link này: http://m.vovgiaothong.vn/kinh-te-do-thi/kinh-te/2012/07/ha-lai-suat-cho-vay-no-van-con-nhieu-bat-cap/)

Theo Tiến sĩ Lê Thẩm Dương – Trưởng khoa quản trị kinh doanh -Trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh, việc Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại giảm lãi suất nợ cũ về dưới 15% là chủ trương hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, hiện các ngân hàng vẫn đang nhìn nhau và nhìn vào động thái xử lý của Ngân hàng Nhà nước và việc thực hiện giảm lãi suất nhanh hay chậm sẽ tùy thuộc chính vào việc kiểm tra của Ngân hàng Nhà nước.

Bỏ lãi suất trần: Ngày 10-7-2012 trong bài Lãi suất ngắn hạn vẫn vượt xa trần 9% (link này: http://ebank.vnexpress.net/gl/ebank/tin-tuc/2012/07/lai-suat-ngan-han-van-vuot-xa-tran-9/):

Tiến sĩ Lê Thẩm Dương, Trưởng khoa Quản trị kinh doanh, Đại học Ngân hàng TP HCM cho rằng, áp trần lãi suất là một biện pháp hành chính. Mà một khi đã là hành chính thì chắc chắn sẽ nảy sinh ra trường hợp lách chứ không thể theo sự chi phối của thị trường.

Bỏ lãi suất trần: Ngày 26-6-2012 trong bài Sắp 'tự do hóa' lãi suất (link này:http://baodatviet.vn/Home/kinhte/Sap-tu-do-hoa-lai-suat/20126/219132.datviet)

Hai vấn đề đáng bàn nhất khi bỏ trần lãi suất là CPI và thanh khoản của hệ thống ngân hàng, chuyên gia Lê Thẩm Dương cho biết vẫn lấn cấn với thanh khoản của hệ thống. Tuy nhiên, ông Dương vẫn khẳng định: “Nếu mạnh dạn thì NHNN cũng có thể bỏ trần lãi suất từ tháng 7 tới là được rồi”. Bởi vì, bỏ trần lãi suất không có nghĩa là NHNN sẽ không còn điều hành chính sách lãi suất nữa, mà chỉ thay biện pháp hành chính bằng công cụ thị trường.

Bỏ lãi suất trần: Ngày 22-6-2012 trong bài Dọn dẹp để “buông” trần lãi suất (link này:http://vietstock.vn/2012/06/don-dep-de-buong-tran-lai-suat-757-226687.htm)

Theo chuyên gia kinh tế, TS. Lê Thẩm Dương, hiện vẫn còn một số ít ngân hàng yếu thanh khoản. Chính các ngân hàng yếu là yếu tố làm rối thị trường. Vì vậy, nếu hoàn tất việc xử lý ngân hàng yếu kém ngay trong tháng 6 như tuyên bố của Thống đốc NHNN, thì không có lý do gì để giữ lại trần lãi suất huy động.

Bỏ lãi suất trần: Ngày 16-6-2012 trong bài Bỏ trần lãi suất? (link này:http://www.thanhnien.com.vn/pages/20120615/bo-tran-lai-suat.aspx):

Trong khi đó, TS Lê Thẩm Dương - Trưởng khoa Quản trị kinh doanh (ĐH Ngân hàng TP.HCM), cũng cho rằng với động thái không quy định áp trần LS cho kỳ hạn từ 12 tháng trở lên hiện nay, NHNN có lẽ cũng đang dần dần tiến tới gỡ bỏ mức trần LS cho các kỳ hạn khác.

Giữ lãi suất trần: Ngày 5-5-2012 trong bài 'Trần cho vay 15% sẽ khơi thông dòng vốn' (link này: http://ebank.vnexpress.net/gl/ebank/thi-truong/2012/05/tran-cho-vay-15-se-khoi-thong-dong-von/):

Tiến sĩ Lê Thẩm Dương, Trưởng khoa Quản trị kinh doanh, Đại học Ngân hàng TP HCM cho rằng, việc Ngân hàng Nhà nước khống chế lãi huy động và áp biên độ đầu ra là cách làm tốt nhất trong bối cảnh hiện nay.

Thursday 29 November 2012

Đọc bài này mà thấy nản quá thôi, chuyên gia ơi là chuyên ra!

http://vneconomy.vn/2012112909423531P0C6/von-cho-doanh-nghiep-duoi-goc-nhin-cua-chuyen-gia-kinh-te.htm

Đồng chí Kiên thì nói: “Để dòng vốn được khơi thông, về phía các ngân hàng thương mại, cần thực hiện chọn lựa khách hàng chính xác, đồng thời cũng có những điều chỉnh về mặt thủ tục đối với các doanh nghiệp có dự án tốt và có khả năng trả nợ. Cần phải hướng đến mục tiêu hai bên cùng khắc phục để cùng tồn tại.”

Rõ là cầm đèn đi trước ô tô. Các ngân hàng họ biết rõ phải làm gì và thế nào để tồn tại và tối đa hóa lợi nhuận. Cái võ của đồng chí thì đương nhiên ngân hàng nào mà chẳng muốn và cũng đã/đang thực hiện.

Cả lời khuyên này của đồng chí nữa: “Còn các doanh nghiệp cũng cần phải đánh giá lại mình xem đâu là điểm yếu, đâu là điểm mạnh, phải xây dựng chiến lược kinh doanh mới cho phù hợp với diễn biến thị trường... nhằm hướng đến đáp ứng được các điều kiện vay vốn mà ngân hàng thương mại đặt ra. Nếu chưa đáp ứng được các điều kiện đó, thì doanh nghiệp cũng cần phải có những cam kết về mặt thời gian hoàn thành để xây dựng lòng tin cho các ngân hàng.” Nói là trẻ con thì hơi quá đáng, nhưng tớ phải nói trung thực rằng đúng là vậy về bản chất.

Còn đồng chí Thành thì vẫn cái điệp khúc NHNN, với quyền hạn và nghĩa vụ của mình, cần in thật nhiều tiền cho ngân hàng thương mại vay với lãi suất thấp để họ cho doanh nghiệp vay cũng với lãi suất thấp. Thưa đồng chí, nói chơi thì rất dễ. NHNN ắt hẳn đang rất đau đầu về vấn đề này – làm sao tung tiền ra mà không gây lạm phát – đấy. Đồng chí nếu có võ gì mà làm được điều này thì hãy tư vấn cho NHNN, chứ không phải nói khơi khơi, dễ ợt: tung tiền vô hạn định nhưng đồng thời không làm tăng lạm phát.

Đồng chí có đề cập đến chuyện thiếu thanh khoản trong hệ thống ngân hàng. Và đồng chí lý luận rằng vì tăng trưởng tín dụng đến nay mới chỉ hơn 3% trong khi chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm là 15%-17% nên có làm gì đi chăng nữa thì (tăng trưởng tín dụng cả năm nay) cũng không vượt qua được mức này và do đó không tác động đến lạm phát.

Về 2 điểm trên, thứ nhất, xin lưu ý với đồng chí rằng thanh khoản trong hệ thống không phải là thiếu, bằng chứng là NHNN đã phải rút tiền về trên OMO. Vì vậy, một trong những điều kiện cần để NHNN phải cấp tập, ồ ạt in tiền theo lý luận của đồng chí để cứu thanh khoản đã không (còn) tồn tại.

Thứ hai, xin nói rõ với đồng chí rằng chẳng có mối liên hệ nào, cũng như chẳng có ai bảo đảm rằng mức tăng trưởng tín dụng 15%-17% là mức tối ưu, không tác động đến lạm phát, vì vậy mức tăng trưởng thực tế dưới mức này càng không gây ra tác động đến lạm phát, vì thế mà cứ yên tâm in tiền ra sao cho tăng trưởng tín dụng miễn là nhỏ hơn mức này là được. Thật là một lý luận… (tớ lại tự kiểm duyệt).

Rồi nữa, cái đề xuất quỹ bảo lãnh của NHNN cho doanh nghiệp vay. Nó cũng là một cái đề xuất nói thì dễ, nghe thì hay. Hẳn đồng chí còn nhớ cái võ cũng hay ho, hấp dẫn không kém mà từng được dùng, được ca ngợi ở Việt Nam mới mấy năm trước đây – bù/hỗ trợ lãi suất – chứ? Tiêu chí để được hưởng ưu đãi này cũng đầy đủ, chặt chẽ cả đấy chứ? Vậy mà kết quả và kết luận về nó sau này ra sao thì đồng chí chắc cũng đã rõ rồi chứ?

Cuối cùng, về phát biểu của đồng chí Ánh. Cũng tương tự, tớ thấy rõ cái hình ảnh của cầm đèn chạy trước ô tô. Đồng chí khuyên các doanh nghiệp: “Để giải quyết hàng tồn kho, cần phân tích xem sự thích ứng của sản phẩm với nhu cầu của thị trường. Yếu tố thứ hai cần xem xét là giá bán hàng hóa. Doanh nghiệp xây dựng giá bán dựa trên các yếu tố đầu vào và lợi nhuận nhưng trong lúc dư cung, việc xem lại giá bán là cần thiết, thậm chí chấp nhận thua lỗ để bán hàng, lúc đó mới có tiền quay vòng vốn. Đặc biệt với những sản phẩm đang dư cung hoặc đã sắp hết chu kỳ sống, doanh nghiệp càng cần bán hàng để có vốn để ra được sản phẩm mới.” Tớ nghĩ là chẳng cần phải bình luận thêm về lời khuyên này.

Tiếp theo, đồng chí Ánh nêu ra một số con số về mức độ không đáng kể của các biện pháp hỗ trợ của nhà nước thông qua hoãn/miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp và GTGT. Nhưng mặt khác, đồng chí lại nhấn mạnh rằng (qua cách hành văn) nếu có làm mạnh tay hơn nữa thì tổng giá trị miễn giảm thuế là không quá lớn (chỉ 60-70 ngàn tỷ mỗi khoản).

Ở đây có 2 điều cần lưu ý. Thứ nhất, lập luận rằng miễn giảm thuế tích cực hơn nữa thì gói miễn giảm thuế cũng không quá lớn sẽ dẫn đến câu hỏi ngược, nếu đã không quá lớn thì liệu việc miễn giảm thuế sẽ có tác dụng như mong muốn? Thứ hai, cứ cho là gói miễn giảm thuế là không quá lớn, nhưng xin nên nhớ rằng mọi khoản hụt thu, tăng chi hiện nay đều tạo thêm gánh nặng nợ nần đã/đang trở nên quá sức chịu đựng của ngân sách, với bằng chứng là ngay việc tăng lương cơ bản (đâu như 10 ngàn tỷ?) mà còn đang dự định phải trông vào việc phát hành trái phiếu.

Tóm lại, nội dung phát biểu của 3 đồng chí trên vừa trẻ…, vừa ngây…, vừa ấm… (tớ lại phải tự kiểm duyệt … nửa vời một phát nữa).

Friday 23 November 2012

5 nhận xét về Báo cáo tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh của tập đoàn, tổng công ty năm 2011 (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=264922

08:47 | 24/11/2012
Báo cáo tình hình tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước năm 2011; phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp giai đoạn 2012 – 2015 được Chính phủ gửi tới Quốc hội ít ngày trước phiên bế mạc Kỳ họp thứ Tư. Ngoài những con số thống kê khô khan, có một số thông tin đáng chú ý liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN).
Nợ lẫn nhau, chuyển nợ và cách xử lý
Báo cáo cho biết, Tập đoàn Điện lực (EVN) nợ quá hạn tới hơn 10 nghìn tỷ đồng, trong đó có nợ mua điện của Tập đoàn Dầu khí. Đáng nói là cách xử lý nợ lại như kiểu đà điểu vùi đầu xuống cát, bằng cách chỉ đạo cho khoanh nợ khoản nợ xấu này, mà về thực chất là không cho thể hiện trên sổ sách kế toán của cả 2 bên liên quan để làm đẹp tình hình kinh doanh của chúng, trong khi thực tế nợ xấu vẫn còn đó.
 
Thêm nữa, việc tái cơ cấu Vinashin với những lời hứa hẹn và cam kết tốt đẹp rốt cuộc đã không mang lại kết cục tốt đẹp như thế, với thực tế là Tập đoàn Dầu khí phát sinh khoản nợ quá hạn 1.731 tỷ đồng nhưng là do… nhận bàn giao nợ từ Vinashin! Đây là một biến thể xử lý nợ truyền thống kiểu khác, chuyển nợ từ nơi này sang nơi kia để nợ xấu đỡ gớm ghiếc hơn nhưng nợ xấu vẫn là nợ xấu và vẫn còn nguyên đó.
 
Cố tình quên bài học sơ đẳng về kinh doanh
Báo cáo nhận định: năm 2011 hoạt động sản xuất kinh doanh của các tập đoàn, tổng công ty (TĐ, TCT) gặp nhiều khó khăn, phải đối mặt với nhiều rủi ro về tài chính như chi phí lãi vay cao (hầu hết các TĐ, TCT đầu tư dựa trên vốn vay).
 
Một cách làm thường thấy là đổ lỗi cho tình hình hoạt động yếu kém của các DNNN là do các điều kiện bất lợi của thị trường, trong đó có lãi suất cao và khó vay vốn ngân hàng. Nhưng với thực tế được thừa nhận như trên, lỗi nằm ngay ở những người hoạch định chính sách, những người quản lý, điều hành các DNNN khi chủ trương cho các DNNN sản xuất kinh doanh dựa chủ yếu trên vốn vay, và (cố tình) quên rằng kiểu sản xuất kinh doanh này thế nào cũng có ngày sập tiệm. Cũng có thể họ nghĩ rằng vốn cần vay nằm sẵn ở ngân hàng và chỉ cần một sự can thiệp nào đó là có thể vay được và xù được dưới hình thức này hay hình thức khác khi cần.
 
Nhìn nhận hời hợt và mâu thuẫn về DNNN
Báo cáo khẳng định: trong bối cảnh suy giảm kinh tế, lạm phát tăng cao giai đoạn 2010 - 2011, các doanh nghiệp nhà nước đóng góp lớn để xây dựng và phát triển KT - XH, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhưng tiếc rằng Báo cáo không nêu những dẫn chứng để chứng minh rằng DNNN “đã đóng góp lớn”, nào là bình ổn giá cả (bình ổn thế nào mà các DNNN thi nhau đòi tăng giá và đã được phép tăng một số thứ?), kiềm chế lạm phát (kiềm chế thế nào mà lạm phát lên tới gần 20% năm 2011?), nào là ổn định kinh tế vĩ mô (ổn định thế nào mà DNNN là một trong những nguồn đóng góp đáng kể nhất vào nhập siêu?) và đảm bảo an sinh xã hội (đảm bảo thế nào mà ngay cả DNNN cũng phải đau đầu với việc giảm biên chế?).
 
Chỉ có một chi tiết trong Báo cáo về sự đóng góp này, nếu có, đó là những con số về nộp ngân sách, năm 2011 tăng 10,1% so với năm 2010. Nhưng lưu ý rằng trong tổng số nộp ngân sách này có đến phân nửa là thuế GTGT và thu nhập doanh nghiệp, là nghĩa vụ bắt buộc phải nộp của mọi doanh nghiệp. Đáng nói hơn là tốc độ tăng trưởng 10,1% này nếu so với tỷ lệ lạm phát gần 20% năm 2011 thực tế là sự thụt lùi. Nói cách khác, đóng góp của DNNN vào ngân sách thực tế giảm đi trong năm 2011.
 
Báo cáo còn có những nhận định mâu thuẫn về hoạt động và vai trò của DNNN. Một mặt, Báo cáo thừa nhận (một cách đúng đắn) rằng: “Hầu hết các doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa có tốc độ tăng trưởng tốt, hoạt động kinh doanh có hiệu quả”. Điều này có nghĩa là hầu hết các DNNN không tăng trưởng tốt, không hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Mặt khác, trong phần “Ưu điểm”, Báo cáo vẫn đánh giá đầy mâu thuẫn với lời thừa nhận trên rằng: hầu hết các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước kinh doanh có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn, đóng góp số thu cho ngân sách nhà nước. Hơn nữa, nếu là tốt như vậy thì cần gì phải đặt ra chủ trương tái cơ cấu và cổ phần hóa DNNN làm gì nữa?
 
Ngay sau đó, trong phần “Những bất cập, khó khăn”, Báo cáo lại tự vạch ra những điểm phủ nhận những đánh giá trên, như năng lực quản trị doanh nghiệp “chưa tương xứng”; chưa có sự phân định đủ rõ quyền hạn và trách nhiệm của các cấp quản lý nhà nước; sự phân công, phân cấp, giao quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của Chính phủ cho Hội đồng thành viên, Ban giám đốc chưa rõ ràng; chưa có chế tài đủ mạnh để yêu cầu, buộc các DNNN thực hiện nghiêm các kiến nghị của các cơ quan quản lý nhà nước; những lỗ hổng trong các quy chế giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động v.v... Với hàng loạt những bất cập, khó khăn thế này, điều dễ hiểu, dễ hình dung là chất lượng hoạt động của các DNNN đã và sẽ ra sao, và điều khó hiểu là tại sao Báo cáo vẫn dành những lời tốt đẹp ca ngợi về vai trò và chất lượng hoạt động của DNNN.
 
Yếu kém luôn có một phần do lỗi khách quan
Phần “Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém”, Báo cáo nêu rằng: “Việc sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước tiến hành trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước có nhiều khó khăn, phức tạp. Sau giai đoạn khôi phục kinh tế của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997 - 1998; từ năm 2008 đến nay liên tục phải ứng phó với khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu; trong nước lạm phát cao, thị trường tài chính, chứng khoán sụt giảm”. Hình như những người viết Báo cáo quên rằng nếu mọi thứ đều tốt đẹp thì đã không phải, đúng hơn là chẳng ai bận tâm đến sắp xếp với đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN làm gì cả. Chỉ khi nào có những biến động bất lợi trong và ngoài nước thì nhiệm vụ trên mới được đặt ra và coi là đương nhiên, nên cần phải coi những bất lợi này là điều kiện tốt cho nhiệm vụ này, chứ không thể/không nên đổ lỗi cho chúng.
 
Chậm chạp đến khó hiểu
Báo cáo nêu: thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3, Hội nghị lần thứ 6 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI; Nghị quyết số 42/2009/QH12 ngày 27.11.2009 của Quốc hội về nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, Chính phủ đang chuẩn bị ban hành ngay một số chính sách. Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao đã có Nghị quyết của đảng và Quốc hội ngay từ năm 2009 mà đến hơn 3 năm sau, Chính phủ mới “đang chuẩn bị ban hành”, mặc dù có thêm từ “ngay”, một số chính sách? Một loạt câu hỏi tiếp theo về ai, thế nào... là tất yếu sau câu hỏi này.

Thursday 22 November 2012

Thật mừng là đã có một vài người lên tiếng về phát biểu của đồng chí Bình

Trong entry trước tớ phải chán ngán thốt lên là không thấy có một ai, một chuyên gia nào lên tiếng về cái phát biểu đầy tính… ngộ chữ của đồng chí Bình về bộ ba bất khả thi.

Nay quả thật mừng vì cho đến giờ ít ra cũng có 3 người khác lên tiếng về cùng chủ đề. 3 người này là đồng chí Nguyễn Trí Dũng, Phạm Đỗ Chí, và Hiệu Minh. Trong số này, đồng chí Hiệu Minh có bài viết (trên Dân Luận) mạch lạc, rõ ràng nhất. Tớ copy cái link ở đây để bạn đọc nào chưa đọc thì vào đọc và mừng với tớ là ít ra xã hội còn nhiều người không bị ngộ chữ như đồng chí Bình.

Saturday 17 November 2012

Tiền đi đâu? Và hệ lụy của nó (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân)

 
08:47 | 17/11/2012
Việc cần làm hiện nay là giảm thiểu việc phát hành trái phiếu Chính phủ để tín dụng cho nền kinh tế có điều kiện tăng tốc. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh lạm phát có nguy cơ tăng mạnh trở lại, buộc Ngân hàng Nhà nước phải giới hạn việc tiếp tục tăng cung tiền trong thời gian tới.
Trong phiên chất vấn tại Quốc hội vừa qua, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Văn Bình cung cấp một thông tin rất có ý nghĩa, liên quan đến tăng trưởng tín dụng. Theo Thống đốc thì lý do tăng trưởng tín dụng thấp (tính đến ngày 30.6, tín dụng chỉ tăng khoảng 3,36% so với cuối năm 2011; trước đó, báo chí đưa tin tăng trưởng tín dụng đến cuối tháng 9 mới đạt 2,35%) là do các ngân hàng đã mua vào tới 183 nghìn tỷ giá trị trái phiếu Chính phủ. Con số này tương đương với khoảng 7% của tổng dư nợ tín dụng tính đến cuối năm 2011.
 
Thông tin trên rất có ý nghĩa vì nó giải thích được cho điều được coi là bí ẩn: tiền đi đâu? Người ta buộc phải hỏi câu này khi cung tiền (còn được gọi là tổng phương tiện thanh toán, M2) tính đến tháng 9 năm nay đã tăng 10,37% so với cuối năm 2011, trong khi tín dụng cho nền kinh tế chỉ tăng rất khiêm tốn như đã nói. Trước đó, một số chuyên gia đã giải thích một cách khiên cưỡng và thiếu logic rằng, tiền đã được các ông chủ ngân hàng đổ vào các doanh nghiệp sân sau của mình; hoặc các ngân hàng với nỗi lo nợ xấu gia tăng nên đã giữ tiền lại, không cho vay ra nền kinh tế nữa. Nay với giải thích của Thống đốc, chuyện tiền đi đâu đã có câu trả lời xác thực.
 
Điều đáng nói hơn là nơi đến của lượng tiền mới cung ra này. Theo đó, có đến hơn 2/3 lượng tiền mới cung ra đã chảy vào trái phiếu, phục vụ cho nhu cầu đầu tư công. Tất nhiên, có những lý do để lý giải tại sao trái phiếu lại hấp dẫn các ngân hàng đến vậy, thay vì cho vay doanh nghiệp và cá nhân như thông thường phải thế (ví dụ, trái phiếu tuy có lãi suất thấp hơn lãi suất cho vay nhưng an toàn hơn, đặc biệt trong bối cảnh nợ xấu cao và tăng nhanh như hiện nay; với kỳ hạn trên 1 năm và với kỳ vọng lạm phát thấp hơn trong các năm tới thì lãi suất trái phiếu như hiện tại vẫn rất hấp dẫn v.v…).
 
Nhưng dù vì lý do gì thì thực tế này đã cho thấy đầu tư công đang bóp nghẹt đầu tư tư nhân. NHNN tăng cung tiền với kỳ vọng lượng tiền tăng thêm đó sẽ chảy qua các ngân hàng để đi đến các doanh nghiệp và cá nhân dưới dạng tín dụng, nhờ đó sản xuất kinh doanh được duy trì và thúc đẩy. Nhưng với việc Chính phủ mạnh tay huy động vốn thông qua trái phiếu với lãi suất hấp dẫn, tiền thay vì đến doanh nghiệp và cá nhân lại chảy vào ngân sách. Tất nhiên, cuối cùng thì lượng tiền tăng thêm này cũng sẽ chảy vào nền kinh tế thông qua chi tiêu của Chính phủ, các dự án sử dụng ngân sách, và các doanh nghiệp nhà nước được cấp phát vốn ngân sách v.v… Nhưng điều đáng nói là đầu tư công thường gắn liền với hiệu quả thấp so với đầu tư tư nhân. Vì thế, cùng một lượng vốn đầu tư, tổng lợi ích mang lại cho xã hội sẽ nhỏ hơn ở đầu tư công và lớn hơn ở đầu tư tư nhân.
 
Sự chèn lấn của đầu tư công còn gây ra một tác hại khác nữa là khu vực tư nhân sẽ bị co lại, phá sản một phần, từ đó không chỉ làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế (khu vực tư nhân thường là động lực cho tăng trưởng kinh tế ở các nước) mà còn làm giảm số việc làm vì khu vực tư nhân là nơi tạo ra nhiều việc làm hơn.
 
Bởi vậy, sẽ hoàn toàn không có gì đáng phải vui mừng như Thống đốc đã “vui mừng” nói rằng “sau nhiều năm chúng ta không thể phát hành được trái phiếu thì năm nay chúng ta phát hành thành công trái phiếu và phát hành với khối lượng lớn”. Ngược lại, cần phải coi việc có đến hơn 2/3 lượng tiền cung ứng mới từ NHNN chảy vào ngân sách là một thất bại chính sách vì đã để trái phiếu Chính phủ bóp nghẹt tín dụng doanh nghiệp/tư nhân.
 
Cũng sẽ có người lập luận rằng trong hoàn cảnh nợ xấu gia tăng thì các ngân hàng không biết đầu tư vào đâu hơn là trái phiếu nên dù không có trái phiếu thì tín dụng sẽ không tăng đáng kể được. Thực tế sẽ không như vậy vì với thanh khoản dồi dào hơn và lãi suất (cho vay của NHNN) thấp hơn thì tín dụng cho doanh nghiệp và cá nhân chắc chắn sẽ tăng lên với lãi suất hạ đi một cách tương đối, tuy có thể không đến mức như kỳ vọng, và đây chính là mục tiêu của chính sách nới lỏng tiền tệ để hỗ trợ nền kinh tế của NHNN.
 
Do đó, việc cần làm hiện nay là giảm thiểu việc phát hành trái phiếu Chính phủ để tín dụng cho nền kinh tế có điều kiện tăng tốc. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh lạm phát có nguy cơ tăng mạnh trở lại, buộc NHNN phải giới hạn việc tiếp tục tăng cung tiền
trong thời gian tới.

Friday 16 November 2012

Đồng chí Bình khoe chữ nhưng lại bị… ngộ chữ!

Đồng chí Bình NHNN phân bua trên báo Giáo dục Việt Nam về nội dung trả lời chất vấn  có đoạn nói về bộ ba bất khả thi và nửa giải Nobel như thế này: “Còn về giải Nobel thì đó cũng chỉ là một cách nói ví von. Bởi vì trên thế giới, người nghĩ ra bộ ba bất khả thi (tăng trưởng, lạm phát, tỷ giá) thì người ta được giải Nobel rồi. Bây giờ Quốc hội giao cho tôi 3 cái đó không bớt khả thi thì chắc là phải thêm một cái giải Nobel nữa nhưng rất khó và tôi không thể làm được. Và nếu tôi có làm được thì cũng chỉ dám nhận một nửa giải Nobel.  Thực tế thì làm gì có nửa giải Nobel. Và câu nói đó của tôi nói với Chủ tịch Quốc hội để thấy rằng việc đó rất khó, không thể làm được và có làm thì chỉ có thể ở một mức độ nào đó chấp nhận được. Cách thức nói như thế để khẳng định rằng thế giới còn thấy là khó nữa là mình”.    

Tớ phải nói luôn là đồng chí Bình “nghe hơi nồi chõ” ở đâu đó được cái khái niệm “bộ ba bất khả thi”, chẳng hiểu mô tê gì sất và nhớ theo kiểu “râu ông nọ cắm cằm bà kia” nên nói bừa đó là bộ ba giữa tăng trưởng, lạm phát và tỷ giá. Tớ cứ đợi mãi xem có ai lên tiếng phê phán, chỉ ra cái lỗi ngớ ngẩn của đồng chí Bình không mà rốt cuộc chẳng có một ai cả, không một chuyên gia nào cả! Mọi người chỉ tập trung vào cái cách nói của đồng chí Bình. Chán!
Thực tế, đó là bộ ba giữa chính sách tiền tệ độc lập, tỷ giá hối đoái cố định, và tự do lưu chuyển vốn. Còn cái ông “nghĩ ra bộ ba bất khả thi” này mà đồng chí Bình nói đến chắc là GS Robert Mundell, nhưng cái ông Mundell này được giải Nobel hình như cũng chẳng phải là vì “nghĩ ra bộ ba bất khả thi” này, mà chỉ là một trong số những người am hiểu về nó nhất thôi. Về vấn đề này tớ đã viết một bài trên báo Đại biểu Nhân dân từ lâu lắm rồi (chính xác là đăng ngày 29/6/2007, link ở đây), mời các đồng chí bạn đọc ghé xem để thấy cái tầm cũng xứng một góc to tướng của cái giải Nobel của tớ nhé! Các đồng chí đừng có băn khoăn, tìm cách phang tớ về chuyện này nhé!

Lại nói về câu nói của đồng chí Bình. Với bộ ba tăng trưởng, lạm phát và tỷ giá (theo cách hiểu của đồng chí Bình), nó vẫn có thể là bộ ba khả thi. Bằng chứng ư? Chẳng cần nói lôi thôi, cứ lôi ngay ví dụ về nền kinh tế Trung Quốc, đã tăng trưởng mạnh trong suốt hơn 3 thập kỷ qua với tỷ giá cứng nhắc (gần như cố định) và lãi suất/lạm phát thì hầu như hoàn toàn nằm trong tầm kiểm soát và theo ý muốn của NHTƯ. Nói vậy để thấy cái dốt, cái liều của người nói.
Nói thêm, bài trên Đại biểu Nhân dân nói trên chính ra là để “phang” bài viết của đồng chí Huỳnh Thế Du của cái trường Fulbright gì gì đó ở Sài Gòn đăng trên TBKTSG cũng về bộ ba bất khả thi mà theo đó đồng chí Du lập luận (đúng hơn, vẹt một cách máy móc) là luôn bất khả thi (vì vậy tiêu đề của bài mới được tớ đặt như vậy).

Saturday 3 November 2012

Nên chất vấn Ngân hàng Nhà nước về quản lý thị trường vàng như thế nào? (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân, đã biên tập)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=262911

08:47 | 03/11/2012

Trong phiên chất vấn Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Văn Bình sắp tới đây tại Quốc hội, một trong những vấn đề nổi cộm hiện nay là việc quản lý thị trường vàng của NHNN chắc chắn sẽ được nêu ra. Bài viết này phân tích và gợi ý một số điểm cần chất vấn và tranh luận với NHNN nhằm buộc họ có các biện pháp quản lý thị trường vàng ở Việt Nam đúng đắn và hữu hiệu hơn.
Câu chất vấn đầu tiên cần phải là NHNN quan niệm thế nào là “vàng hóa”. Điều này rất quan trọng vì nếu hiểu sai ngay từ khái niệm thì sẽ dẫn theo những hành động sai.

Theo giải trình hôm 3/10 của Thống đốc tại Quốc hội thì: “Trong thời gian qua, do bất ổn của kinh tế thế giới và bất ổn của kinh tế trong nước, giá vàng thế giới đã tăng cao và giá vàng trong nước có nhiều biến động thất thường. Như vậy, tình trạng vàng hóa của nền kinh tế đã được đẩy lên rất cao”.  Theo cách lý giải này, hóa ra vàng hóa là tình trạng giá vàng trong nước có nhiều biến động thất thường. Nếu thế thì sai. Vì vàng hóa chỉ tình trạng vàng đã thay thế cho VND ở một mức độ nào đó trong cả 3 vai trò (thanh toán, đo lường giá trị, và lưu giữ giá trị). Tình trạng vàng hóa càng nặng nề nếu mức độ thay thế VND ở cả 3 vai trò này càng lớn, chứ tình trạng vàng hóa chẳng có liên quan trực tiếp gì đến biến động giá vàng trong và ngoài nước cả.
Tuy Thống đốc có nói tiếp: “Theo đánh giá không chính thức sơ bộ ban đầu, trong nền kinh tế của nước ta có khoảng từ 300 - 400 tấn vàng, hay nói một cách khác là có một nguồn lực cỡ khoảng từ 15 - 20 tỷ USD không được đầu tư vào sản xuất kinh doanh và bị chôn chặt vào vàng. Hơn nữa, mỗi khi giá vàng có biến động đã làm ảnh hưởng đến tỷ giá thông qua hoạt động nhập khẩu lậu vàng gây nên ảnh hưởng đến hoạt động xuất, nhập khẩu và gián tiếp làm cho lạm phát tăng cao trong những năm qua và tạo ra sự bất ổn của kinh tế vĩ mô”, nhưng câu giải thích này cũng không có liên quan trực tiếp gì đến chuyện vàng hóa cả, nếu cứ theo lý giải bên trên. Cũng có thể, ý của Thống đốc ở đây muốn nhấn mạnh rằng lượng vàng trong dân là đã lớn đến mức mỗi khi có biến động mạnh về giá sẽ gây ra ảnh hưởng đến ổn định kinh tế vĩ mô thông qua hoạt động nhập lậu vàng. Nếu vậy thì việc cần làm là thắt chặt nhập (lậu) vàng chứ không phải là làm giảm bớt/thiểu lượng vàng nắm giữ trong dân.

Thống đốc còn sai khi cho rằng 15-20 tỷ đôla giá trị vàng trong dân không được đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Cần khẳng định ngay không phải tất cả số vàng trên được đem cất vào két, để dưới chiếu, mà chắc chắn rằng một phần không nhỏ trong chúng đã và đang được mang ra cho vay mượn/mua bán, để đổi lấy vốn sản xuất kinh doanh, tất nhiên là thông qua các giao dịch nằm ngoài hệ thống ngân hàng (khi ngân hàng bị cấm huy động/cho vay bằng/mua bán vàng). Nói cách khác, một số lượng vàng trong dân đã và đang thực hiện các chức năng của nó trong sản xuất, kinh doanh chứ không như khẳng định của NHNN.
Cũng chắc chắn rằng một phần không nhỏ trong số trên tuy “chôn” ở đâu đó, ngoài sản xuất, kinh doanh, nhưng đây là điều tất yếu vì vàng còn được dùng làm đồ trang sức, và đồ trang sức thì đương nhiên phải nằm ngoài sản xuất, kinh doanh. Như vậy, con số vàng thực tế cần phải “huy động” trong dân không đến mức 15-20 tỷ đôla như nói trên để người ta phải hoảng sợ đến mức mà tìm mọi cách hạn chế dân giữ vàng. Ngoài ra, sở hữu/trao đổi/mua bán vàng (dùng làm) trang sức là điều không thể/nên cấm đoán được, vì đây là những nhu cầu cũng thiết yếu tương tự như với quần áo, và vì thế càng làm giảm tính cấp thiết phải ngăn chặn việc nắm giữ vàng trong dân.

Thêm nữa, hình như ông Bình quên một thực tế rằng lạm phát mới làm cho tình trạng tích trữ vàng (tức một dạng thức của vàng hóa) tăng lên khi người ta sợ tài sản của mình bằng VND bốc hơi theo lạm phát, chứ không phải ngược lại, vàng hóa gây ra lạm phát, kể cả có là gián tiếp nếu NHNN không bất cẩn với chính sách tiền tệ của mình.
Chính vì sai lầm ngay từ khái niệm nên NHNN mới có những động thái khá kỳ quặc như bình ổn giá vàng và độc quyền nhãn hiệu vàng SJC. Có lẽ NHNN chưa nhận thức được rằng để chống vàng hóa thì không có giải pháp nào khác căn bản, hữu hiệu và bền vững hơn là giải pháp tăng uy tín cho và niềm tin vào VND để người dân tự nguyện nắm giữ VND thay cho vàng trong lãnh thổ Việt Nam.

Thống đốc có lấy những ví dụ như không còn thấy người dân đổ xô đi mua vàng, mặc dù giá vàng biến động lớn nhưng tỷ giá vẫn ổn định, hệ thống ngân hàng đã mua được 60 tấn vàng v.v... để nhấn mạnh rằng các giải pháp chống vàng hóa đã phát huy tác dụng mà bỏ qua nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác. Người dân không còn đổ xô đi mua vàng nữa có thể đơn giản vì giá vàng trong nước đã trở nên quá cao so với giá quốc tế nên người ta không dám mua vào vì sợ rủi ro kép – (i) giá vàng quốc tế quay đầu, và (ii) mức chênh lệch quá lớn đến mức phi lý giữa giá vàng trong nước và quốc tế sẽ thu hẹp lại một thời điểm nào đó vì không thể ở mức phi lý mãi như vậy được. Hoặc có một lý do đơn giản hơn nữa, tài sản khả dụng của người dân hiện nay so với cách đây 2, 3 năm giảm đi nhiều vì sự đi xuống của bất động sản làm cho số vốn khả dụng có thể dùng để mua vàng không còn nhiều nữa, làm cho dòng người xếp hàng mua vàng vì thế cũng giảm mạnh (so với trước đây), gây ra ngộ nhận của NHNN rằng vàng hóa đã được kiềm chế (mà thực chất vàng trong dân vẫn còn từng đó, như nói thêm dưới đây).
Còn chuyện mặc dù giá vàng biến động mạnh nhưng tỷ giá vẫn ổn định có thể chẳng có gì liên quan đến câu chuyện chống vàng hóa thành công mà NHNN đang gán ghép cả. Tỷ giá ổn định có thể đơn giản vì nguồn cung ngoại tệ vẫn tăng lên trong khi cầu ngoại tệ (nhất là từ nhập khẩu) sút giảm. Tương tự, chuyện ngân hàng mua vào 60 tấn vàng cũng nên coi là việc bình thường khi trước đây họ đã huy động rồi bán ra một khối lượng (còn lớn hơn) từng đấy, nay phải tích cực mua vào để sẵn sàng hoàn trả cho người gửi vàng khi họ đến rút ra khi đáo hạn; và rốt cuộc lượng vàng trong dân vẫn không thay đổi, và cũng có nghĩa là tình trạng vàng hóa không thay đổi.

Tóm lại, khi chất vấn Thống đốc về các giải pháp quảnlý thị trường vàng, các đại biểu cần yêu cầu ông Bình làm rõ khái niệm, mục đích và cách thức xử lý giá vàng, quản lý thị trường vàng trong mối liên quan đến vàng hóa để từ đó vạch ra những sai lầm trong cách hiểu và hành động của NHNN như hiện tại vốn góp phần không nhỏ gây ra những rối ren không đáng có trên thị trường vàng. Trên cơ sở chất vấn vạch ra những cái sai như vậy, các đại biểu nên yêu cầu NHNN phải sửa đổi, rút lại các biện pháp quản lý thị trường vàng cũ, thi hành các biện pháp mới chống vàng hóa một cách đúng đắn và hữu hiệu.

Friday 26 October 2012

2 ý kiến đóng góp vào Báo cáo KT - XH của Chính phủ (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân)

08:34 | 27/10/2012
 
Thủ tướng Chính phủ đã trình bày bản báo cáo trên trong ngày khai mạc Kỳ họp thứ Tư, Quốc hội Khóa XIII. Báo cáo sẽ được đưa ra thảo luận tại Quốc hội. Bài viết này muốn góp ý 2 điểm chính cần tập trung thảo luận.
Góy ý đầu tiên. Có thể thấy toát ra từ Báo cáo là tâm lý ưu tiên cho các hành động và thành quả mang tính ngắn hạn và theo tư duy định kỳ nhằm đạt các chỉ tiêu về KT - XH đã được Quốc hội thông qua.
Điều đáng nói là chính vì tâm lý chạy theo các mục tiêu ngắn hạn thế này nhiều khi sẽ nảy sinh những tác động tiêu cực trong trung và dài hạn. Một ví dụ cụ thể là việc kiềm chế lạm phát. Chính phủ “trong những tháng cuối năm nay sẽ thực hiện các biện pháp để giữ mức lạm phát cả năm khoảng 8%”, theo bản báo cáo. Dòng chữ này tuy ngắn nhưng chứa đựng ít nhất một thông điệp lớn rằng Chính phủ sẽ thực hiện các biện pháp cả cũ và mới, nếu cần thiết, để kìm giữ lạm phát dưới 8%.
Thực ra lạm phát nếu đã ở mức 8% thì cũng không khác biệt bao nhiêu so với mức lạm phát 2 con số ví dụ 10% hay 15%. Điều khác biệt thực sự chỉ là ở cái ngưỡng tâm lý lạm phát 1 con số hay 2 con số mà thôi, chứ không phải ở tác động tiêu cực nhiều hơn hay ít hơn (đáng kể) lên phát triển KT - XH. Bởi vì ngay ở mức 8% thôi, lạm phát ở Việt Nam vẫn cần phải được coi là mức khá cao nếu so với khu vực và thế giới, và so với chính Việt Nam những năm trong thập kỷ trước.
Nhưng điều gì sẽ xảy ra khi đến cuối năm, triển vọng lạm phát sẽ không dừng lại ở con số 8% như dự tính? Tất nhiên, lúc đó, ngoài những biện pháp rất chung chung và đã quá quen thuộc mà năm nào, báo cáo nào cũng nhắc đi nhắc lại, một số biện pháp mới, mà chắc chắn đa phần mang tính hành chính, sẽ lại được những người có trách nhiệm đưa ra. Dù cũ hay mới, với cường độ như cũ hoặc mạnh hơn, tất cả những biện pháp này đều nhằm khóa mức lạm phát theo báo cáo ở mức 8% cho đến hết năm nay, bất chấp hậu quả để lại cho (các) năm tới.
Ví dụ dễ thấy cho tình trạng này là giải pháp không cho phép một số ngành, doanh nghiệp tăng giá một số hàng hóa dịch vụ nào đó, ví dụ, xăng dầu, điện, nước, học phí, phí y tế v.v… trong một thời gian nào đó. Tuy những giải pháp này có thể ở một mức độ nào đó có tác dụng kìm giữ lạm phát không tăng lên ngay lập tức, nhưng đó chỉ là một hành động tương tự như việc chườm đá lên một cái nhọt đang sưng, và rốt cuộc cái nhọt sẽ vỡ ra, sớm hay muộn.
Lạm phát trong tháng 9 vừa rồi tăng mạnh đến 2,2% được quy kết cho nguyên nhân là quản lý giá cả không khéo léo làm cho một loạt ngành như xăng dầu, điện, giáo dục, y tế chọn cùng thời điểm để tăng giá. Nhưng nếu lật ngược lại vấn đề, vì việc kìm tăng giá những hàng hóa và dịch vụ nói trên không thể kéo dài mãi nên đến một lúc nào đó thì giá cả các hàng hóa đó phải được thả ra, vậy thì việc kìm hãm như trên chỉ có tác dụng làm đẹp số liệu trong một hạn định nào đó (cụ thể là cho đến trước tháng 9 vừa rồi), chứ không có, nếu không muốn nói là ngược lại, tác động tích cực gì đến ổn định kinh tế vĩ mô sau hạn định đó cả. Nếu không thả viện phí, học phí, giá điện, xăng v.v…, lạm phát tháng 9 có thể không tăng tới mức 2,2% nhưng chắc muộn nhất thì đến năm sau lạm phát của một tháng nào đó sẽ phải tăng vọt để bù lại cả một thời gian bị kìm hãm trước đó. Với cung cách điều hành nền kinh tế như vậy thì vô hình trung khuyến khích có các giải pháp ngắn hạn (chủ yếu là hành chính) mang tính bất ổn nhiều hơn là bền vững trong trung và dài hạn.
Với phân tích như trên, nên chăng Quốc hội không nâng lên đặt xuống từng điểm thập phân của mỗi 1 điểm % trong các chỉ tiêu như lạm phát, tăng trưởng GDP, tăng trưởng xuất khẩu, nhập khẩu, tiền tệ và tín dụng v.v… và coi đó như chỉ tiêu pháp lệnh để đánh giá chất lượng điều hành của Chính phủ và/hoặc một thành viên nào đó? Suy cho cùng, việc này, nếu tiếp tục tồn tại, cũng sẽ không còn mấy ý nghĩa khi mỗi lần thấy khả năng không đạt được mục tiêu, Chính phủ lại xin điều chỉnh, và Quốc hội thì thường là thông qua.
Điểm thứ hai muốn góp ý là sự cần thiết phải yêu cầu Chính phủ có những hành động cụ thể chứ không chỉ là những lời nói chung chung luôn luôn được lặp đi lặp lại với tần suất lớn. Chẳng hạn, trong phần Đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, Báo cáo nêu ra một loạt các biện pháp mà không cần nói thì cũng biết phần lớn chúng đã được đề cập đến từ lâu rồi. Điều người đọc quan tâm không phải là (người đứng đầu) Chính phủ đã có những chỉ đạo gì, quy định gì, triển khai gì v.v… mà là Chính phủ đã đạt được những gì, tiến được bao xa với những biện pháp/chỉ đạo/quy định đó, triển khai cụ thể những biện pháp đó vào thực tiễn như thế nào v.v… Nói cách khác, cái cần được biết là kết quả thực tiễn của các biện pháp chứ không phải là bản thân các biện pháp đó.
Vì những biện pháp này hay biện pháp khác đã được Chính phủ nêu ra trước đây, nên điều Quốc hội cần làm không phải là nghe Chính phủ trình bày và yêu cầu Chính phủ phải có (thêm) các giải pháp khắc phục các yếu kém về KT - XH hiện thời. Thay vào đó, phải chăng Quốc hội nên có thêm một động thái là thảo luận và bỏ phiếu cho chất lượng điều hành của Chính phủ trên phương diện thực hiện các chủ trương, đường lối phát triển chung của Đảng, Nhà nước (ví dụ việc thực hiện 3 đột phá chiến lược)?

Friday 19 October 2012

Xử lý nợ xấu - Bắt đầu từ đâu và như thế nào? (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=261526

08:58 | 20/10/2012
Nợ xấu, một trong những vấn đề nổi cộm hiện nay, đã được nhắc đến nhiều trong phiên họp của UBTVQH tuần này và chắc chắn sẽ còn được thảo luận nhiều trong Kỳ họp thứ Tư Quốc hội Khóa XIII khai mạc ngày 22.10 tới. Dẫu vậy, chuyện xử lý nợ xấu thế nào là điều còn đang rất mơ hồ, và vẫn chưa được định hình trong giới hoạch định chính sách. Bài viết này gợi ý một số bước đi trong xử lý nợ xấu.
Vì nợ xấu phát sinh từ các ngân hàng thương mại nên chủ thể đầu tiên cần phải tích cực và tự giác xử lý nợ xấu chính là các ngân hàng thương mại. Điều đáng ngạc nhiên là hiện nay hầu như trách nhiệm xử lý nợ xấu lại dường như được dồn lên các cơ quan hữu trách nhà nước. Người ta vẫn còn đang băn khoăn có nên thành lập các công ty mua bán nợ xấu (AMC) trực thuộc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hay không, có nên mở rộng mô hình Công ty quản lý tài sản (DATC) thuộc Bộ Tài chính hay không, có nên dùng ngân sách để giải quyết nợ xấu không v.v..., mà không mấy nhắc đến vai trò chính của các ngân hàng thương mại, buộc họ phải tích cực dọn dẹp đống nợ mình đã để lại trong quá trình kinh doanh nhiều bất cẩn chạy theo lợi nhuận như vừa qua.
Còn phía ngân hàng thương mại thì cũng rất ngạc nhiên khi ta thấy họ hầu như chẳng có mấy động thái gì để chứng tỏ họ đang dốc sức, quyết tâm xử lý nợ xấu để làm lành mạnh hoạt động của mình. Ngay đến việc báo cáo tỷ lệ nợ xấu của mình chính xác là bao nhiêu thì hầu như cũng chẳng có ngân hàng nào thực hiện (được), và vì thế việc xử lý nợ xấu trong tình huống này cứ như thể bảo bác sĩ chữa bệnh mà người bệnh chỉ thò mỗi ngón tay ra cho xem. Dường như đang có một thái độ ỷ lại vào sự cứu trợ và can thiệp của Chính phủ trong việc xử lý những hậu quả do chính các ngân hàng làm nảy sinh với suy nghĩ rằng Chính phủ không thể để các doanh nghiệp phá sản hàng loạt vì không tiếp cận được vốn vay ngân hàng, vì thế sẽ phải làm cái gì đó để cứu trợ cho cả hệ thống ngân hàng.
Vậy, bước đầu tiên cần làm là buộc các ngân hàng thương mại tích cực và tự giác xử lý nợ xấu. Để làm được điều này thì trước tiên NHNN phải tổ chức thanh tra chọn mẫu một số ngân hàng thương mại để biết được mức độ nợ xấu thực sự, mức dự phòng rủi ro, thị giá và loại hình tài sản thế chấp v.v... của từng ngân hàng trong hệ thống. Đồng thời với đó là mạnh tay với việc xử phạt nếu phát hiện các ngân hàng thương mại khác không làm nghiêm túc việc kiểm toán, thanh tra nội bộ (theo các quy trình và tiêu chuẩn đã quy định) để xác định những vấn đề tương tự. Việc này là để khuyến khích các ngân hàng tự giác với mức nợ xấu thực tế của mình mà NHNN không cần phải bỏ công đi thanh tra từng ngân hàng một.
Tiếp đến, sau khi đã biết được mức độ nợ xấu nói chung của hệ thống và của từng ngân hàng nói riêng, cũng như mức dự phòng rủi ro và thị giá của các tài sản thế chấp của họ, NHNN sẽ cần thiết phải buộc những ngân hàng nào có tỷ lệ nợ xấu quá mức quy định/hoặc mức được cho là nguy hiểm (có thể ảnh hưởng đến cả hệ thống) gấp rút xử lý trong một thời gian hạn định (ví dụ, 6 - 9 tháng) nhằm đưa nợ xấu về ngưỡng an toàn (bằng những cách ví dụ như bán nợ, thanh lý tài sản thế chấp, sử dụng trích lập dự phòng và lợi nhuận v.v...). Quá trình xử lý gấp rút, trong một hạn định như thế này có thể sẽ rất thiệt thòi cho ngân hàng thương mại đó nhưng đây là một việc cần thiết và phải thực hiện hết sức nghiêm túc để lập lại kỷ cương trong hệ thống. Bất kể ngân hàng nào không thực hiện nghiêm túc việc xử lý này cần phải có chế tài mạnh từ NHNN.
Đồng thời với quá trình xử lý nợ xấu ở các ngân hàng, Nhà nước cũng cần phải hoàn thành các khuôn khổ luật pháp chưa hoàn chỉnh (nếu có) để quá trình xử lý nợ xấu diễn ra trôi chảy hơn (ví dụ những rắc rối pháp lý liên quan đến việc phát mại tài sản thế chấp, nếu có).
Sau khi đã thực hiện xử lý nợ xấu ở bước thứ nhất (cấp độ từng ngân hàng thương mại), Chính phủ và NHNN sẽ nắm được một bức tranh đầy đủ hơn về những vấn đề tồn đọng, chẳng hạn quy mô và bản chất/cấu thành của khối nợ xấu còn lại mà không thể giải quyết được ở bước thứ nhất bởi từng ngân hàng thương mại. Tùy theo quy mô nợ xấu tồn đọng, NHNN và Chính phủ ở bước thứ hai có thể phải cân nhắc đến những giải pháp mang tính hệ thống hơn như dùng ngân sách để xóa nợ cho một nhóm con nợ nào đó (ví dụ các đối tượng được NHNN chỉ định cho vay), cho một nhóm con nợ nào đó được vay vốn từ ngân sách để trả nợ ngân hàng thương mại, thành lập AMC với nguồn vốn từ ngân sách để mua nợ xấu tồn đọng với giá chiết khấu tối đa (mang tính bắt buộc đối với ngân hàng thương mại phải bán nợ xấu cho AMC này nếu không còn bán được ở nơi khác).
Ở bước thứ ba, NHNN sẽ phải cân nhắc việc quốc hữu hóa (toàn bộ hoặc từng phần) hoặc cho phá sản một số ngân hàng nào đó mà tất cả các biện pháp trên vẫn không giải quyết được hết nợ xấu, đến mức mà phần nợ xấu còn lại ăn lạm cả vào một phần hoặc toàn bộ vốn chủ sở hữu. Cũng tương tự như trên đã đề cập, các khuôn khổ pháp lý cho những biện pháp này (ví dụ việc buộc các cổ đông sở hữu phải giảm tỷ lệ nắm giữ cổ phần tương ứng, việc NHNN cử cán bộ của mình vào các vị trí quản trị ngân hàng v.v...) cũng cần phải được hoàn thiện song hành.
Trong quá trình xử lý theo các bước nói trên, một nguyên tắc cần được quán triệt là phải tối thiểu hóa nguồn lực công nếu cần phải sử dụng đến, và tối đa hóa các nguồn tài chính từ chính các ngân hàng thương mại có nợ xấu. Nguồn lực công có thể là từ ngân sách (hoặc thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ) hay từ NHNN và điều này không quan trọng vì đằng nào thì gánh nặng tài trợ cũng sẽ dồn lên NHNN và kết thúc ở việc NHNN bơm tiền cho hệ thống.
Song song với các bước giải quyết nợ xấu, điều không kém phần thiết yếu là NHNN phải tiếp tục củng cố và xiết lại các tiêu chuẩn hoạt động an toàn của hệ thống ngân hàng để không làm phát sinh thêm nợ xấu. Chính phủ nói chung cũng phải có những động thái tích cực, ví dụ như ngừng các chỉ đạo cho vay (ưu đãi) một số nhóm đối tượng nào đó, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước v.v... để sao cho cho vay thương mại sẽ chỉ còn đơn thuần được tiến hành trên những cân nhắc mang tính thị trường giữa các bên liên quan.

Thursday 18 October 2012

Kết quả thực tế cho kiến nghị chính sách kiểu của 2 đồng chí TS Phạm Đỗ Chí và Vũ Viết Ngoạn


Trong mấy bài viết đi và phản hồi lại của tớ với 2 đồng chí TS này trên TBKTSG và cả trên blog này, tớ đã vạch ra cái sai lầm về khuyến nghị chính sách của 2 đồng chí theo mô hình IS-LM là nới lỏng chính sách tiền tệ để hạ lãi suất nhờ đó kích thích đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng.

Cụ thể, tớ nói rằng mô hình IS-LM dựa trên giả thiết cơ bản rằng đầu tư chỉ phụ thuộc vào lãi suất. Nhưng thực tế thì đầu tư còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác, trong đó có việc doanh nghiệp tiếp cận được với vốn tín dụng ngân hàng. NHNN nới lỏng chính sách tiền tệ để/sẽ dẫn đến hạ lãi suất nhưng điều này lại không nhất thiết sẽ dẫn đến làm tăng đầu tư vì ngân hàng lúc đó có cho doanh nghiệp vay hay không là chuyện khác, và rất có thể ngân hàng sẽ khắt khe hơn về tiêu chuẩn được vay vốn khi đầy nợ xấu và rủi ro phá sản. Rốt cuộc thì tăng trưởng tín dụng và đầu tư sẽ không được như kỳ vọng.

Nay thì ngay cả đồng chí Chí trong bài viết mới nhất của mình cũng phải thừa nhận rằng nới lỏng chính sách tiền tệ (tăng hơn 10% trong 9 tháng, mà theo đồng chí ấy thì là “vừa phải”) và lãi suất đã hạ nhưng tín dụng vẫn tăng “nhỏ giọt” (sic). Tức là kịch bản mà đồng chí Chí và Ngoạn dựng nên trong kiến nghị chính sách của họ đã không xảy ra.

Nói qua vậy thôi để mong đây là một bài học kinh nghiệm cho những học giả/học thật trước khi động chạm gì đến lý thuyết thì cần phải có sự hiểu biết một cách thực sự lý thuyết đó. Tuyệt đối cần tránh tình trạng dùng những lý thuyết/mô hình với những khái niệm và ký hiệu (toán học) lằng nhằng để làm le với thiên hạ, theo kiểu khoe chữ và làm hàng.

Cũng qua cái sự việc nêu trong entry này, sự ngớ ngẩn trong cái kiểu kiến nghị chính sách của đồng chí Bùi Kiến Thành (NHNN in tiền thật nhiều cho ngân hàng thương mại vay với lãi suất cực thấp để ngân hàng thương mại cho vay lại doanh nghiệp với lãi suất thấp...) cũng đã được vạch ra. Hy vọng đến một lúc nào đó những cái loa gây nhiễu kiểu này sẽ tự censored/tự kiểm duyệt và đục bỏ.

Sunday 14 October 2012

Chuyện về Moody’s và Standard and Poor’s


Tuần trước nữa và tuần vừa rồi tớ đã thu xếp đến gặp 2 đồng chí Moody’s và Standard and Poor’s (S&P) ở Singapore để hỏi cho ra nhẽ tại sao 2 đồng chí ấy tuy cùng là hãng xếp hạng tín nhiệm lại có hành động mâu thuẫn nhau đến vậy (đồng chí Moody’s thì cuối tháng 9 đã hạ hạng tín nhiệm của Chính phủ Việt Nam và một số ngân hàng Việt Nam, còn đồng chí S&P thì lại sửa lại triển vọng hạng tín nhiệm của Chính phủ Việt Nam từ Tiêu cực thành Ổn định và cũng cuối tháng 9 vừa rồi lại nâng hạng của một số ngân hàng thương mại Việt Nam).

Nhìn chung, có thể nói 2 đồng chí này ở 2 thái cực khác hẳn nhau. Một đồng chí thì quá tiêu cực và lo xa, nhưng ẩu (Moody’s). Đồng chí còn lại (S&P) thì quá tích cực và hời hợt, nhưng cả tin.

Về Moody’s, các đồng chí ấy lo ngại rằng nợ xấu và thiếu hụt thanh khoản trong hệ thống ngân hàng sẽ là một gánh nặng rất nặng chất lên vai Chính phủ và Chính phủ không thể trốn tránh được khỏi nghĩa vụ phải nhảy vào cứu trợ hệ thống ngân hàng trong khi bản thân (Chính phủ) thì nợ đầm đìa, khó mà xoay xở ở đâu được. Tăng trưởng chậm lại cũng làm khuyếch đại những khó khăn của Chính phủ thêm nữa.

Sau một hồi tớ vặn vẹo thì các đồng chí Moody’s cũng phải thừa nhận rằng sự cứu trợ này của Chính phủ, nếu có, thì cũng có hạn (chứ không phải cần bao nhiêu thì đáp ứng bấy nhiêu) và cũng không thể xảy ra ngay nay mai được. Mà như vậy thì lại mâu thuẫn với lập luận ban đầu của các đồng chí ấy để làm cơ sở để hạ hạng tín nhiệm của các ngân hàng Việt Nam như nói ban đầu. Cuối cùng, các đồng chí ấy đành bào chữa rằng hành động vừa rồi của các đồng chí ấy là hành động mang tính phòng xa, đi trước sự việc (ring-fencing), có nghĩa là cảm thấy sẽ xảy ra thế thì hành động luôn, chứ không chờ cho đến khi sự việc xảy ra rồi thì mới hành động!

Trong quá trình thuyết minh, các đồng chí ấy đưa ra một vài bảng biểu với đồ thị ước tính mức độ nợ xấu của Việt Nam và theo đó là mức độ vốn cứu trợ (tái cấp vốn) cần thiết cho hệ thống ngân hàng mà mức cao nhất là (tương ứng với tỷ lệ nợ xấu là 30%) chỉ là tương đương với 11% của GDP. Nghe thì cũng hơi hơi... kinh (vì tớ không nghĩ nó lại ... thấp thế!) để minh họa cho tính nguy cấp, trầm trọng của vấn đề nợ xấu và nhu cầu can thiệp của Chính phủ. Nhưng vấn đề là các đồng chí ấy sử dụng số liệu có đến năm 2011 thôi! Thế thì tớ mới có cái cớ để hỏi xoáy rằng tại sao các đồng chí ấy không hạ hạng tín nhiệm ngay từ đầu năm (cùng lắm là cuối quý 1 hoặc sang quý 2), khi các loại số liệu mà các đồng chí ấy sử dụng trong các bảng biểu và đồ thị trên được công bố? Sao phải chờ đến tận cuối tháng 9?

Điều đáng nói là sau cái ngày bọn tớ viếng thăm đó 2 ngày (tức vào thứ 2 tuần qua), các đồng chí ấy lại gửi cho tớ một bản Special Comment chính thức (hình như có đăng trên website của Moody’s), trong đó cũng có những bảng biểu với đồ thị như trước, nhưng điều đáng nói hơn nữa là các số liệu gánh nặng tái cấp vốn của Chính phủ lại tăng vọt, từ 11% trong ước tính hôm gặp bọn tớ vọt lên đâu như 20-30% của GDP gì đó, và tất nhiên vẫn là tính trên số liệu cuối năm 2011. Lên bao nhiêu thì không quan trọng lắm bằng cái bản chất sự việc là các đồng chí ấy đã phải sửa sang số liệu trước và sau khi công bố chính thức. Điều này cũng chứng tỏ các đồng chí ấy hành động khi chưa có một cơ sở chắc chắn cho các nhận định làm nền tảng cho các hành động điều chỉnh hạng tín nhiệm.

Vì những vấn đề ấm ớ như trên nên tớ khi viết báo cáo nội bộ phải cố vắt óc nghĩ ra một lý do khả dĩ hơn để làm nhẹ “tội phán mò” của các đồng chí Moody’s. Cuối cùng thì tớ cũng tìm ra được một chi tiết, đó là chuyện Moody’s đề cập đến việc bắt đồng chí bầu Kiên, và bình luận thêm rằng việc bắt giữ này gây ra quan ngại cho Moody’s và họ cũng không nghĩ rằng sự việc tương tự chỉ dừng lại ở ACB (mặc dù các đồng chí ấy có vẻ cũng chẳng biết nhiều về những chuyện này, và cũng có vẻ cũng không sẵn sàng để nói về chúng lắm). Từ đó, tớ mới triển khai thêm rằng phải chăng đây mới chính là một (trong những) lý do thực sự để Moody’s đến thời điểm này mới hạ hạng tín dụng của các ngân hàng Việt Nam, khi lo ngại rằng nếu có các hành động bắt bớ hoặc trấn chỉnh mạnh tay của các cơ quan có thẩm quyền sẽ gây ra một cơn chấn động trong toàn hệ thống làm tăng đột ngột rủi ro đổ vỡ hệ thống và Chính phủ buộc phải nhảy ngay vào can thiệp và cứu trợ đúng như kịch bản mà các đồng chí ấy vạch ra? Nếu đúng Moody’s nghĩ vậy thì còn thông cảm được. Bằng không thì buồn lắm, các đồng chí Moody’s à! Chắc cũng đoán được những “băn khoăn” của tớ trong buổi gặp gỡ, mấy đồng chí Moody’s này 2, 3 lần gửi email nhắc tớ là nếu cần trao đổi thêm thì cứ cho biết. Nhưng tớ thì vốn lịch sự nên đành trả lời là để bọn tớ nắm lại vấn đề đã rồi có gì hỏi thêm sau, để cho các đồng chí ấy còn đường mà làm ăn, vì rõ ràng là các đồng chí ấy đã rất nao núng.

Về S&P, các đồng chí này thì theo kiểu thấy đâu nói đó, rất cả tin. Chẳng hạn, các đồng chí ấy thấy anh Bình nhà ta (thống đốc NHNN) tuyên bố cái này cái kia, quyết tâm làm cái này cái kia (tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, khống chế tăng tín dụng cho ngành phi sản xuất v.v...) thì tin sái cổ rằng anh Bình đang làm thật và kết quả có tốt hơn thật. Các đồng chí ấy còn khen anh Bình hết lời, nào là con người của đổi mới, nào là con người của minh bạch (là Thống đốc lần đầu tiên công bố tỷ lệ nợ xấu cao hơn con số báo cáo của các ngân hàng thương mại, là người mạnh tay áp đặt các chuẩn mực hoạt động nghiêm khắc hơn cho hệ thống ngân hàng v.v...). Cũng tương tự, các lời khen ngợi được dành cho các chính sách vĩ mô của Chính phủ, nào là đã thắt chặt chính sách tiền tệ để giảm lạm phát, giữ ổn định tỷ giá, chấp nhận giảm tăng trưởng tín dụng (giảm tăng trưởng GDP) để ổn định vĩ mô. Từ đó, hệ thống ngân hàng thương mại dần đi vào ổn định, và S&P thấy là cần phải tăng hạng của họ lên. Xong! Rất đơn giản và... dễ hiểu!

Tớ nghe các đồng chí này nói một hồi về những chuyện tốt đẹp trên mà ù hết cả tai, bèn chỉ dám khẽ khàng hỏi lại là thế các đồng chí có biết rằng chính sách tiền tệ thực tế là nới lỏng rất mạnh không (10,5%/9 tháng), có biết tại sao tín dụng chỉ tăng 2,5%/9 tháng không (mà không phải là do chính sách kiềm chế tăng trưởng tín dụng đâu), có biết anh Bình hứa nhiều nhưng chẳng làm được bao nhiêu không, Chính phủ thực tế đang thi hành những chính sách ngược lại với ý định ban đầu không v.v... Tức là những cái các đồng chí S&P ca ngợi và lấy đó làm cơ sở để nâng hạng tín dụng của các ngân hàng thực ra đã không còn tồn tại, nếu có. Và vì thế hành động nâng hạng của các đồng chí như vừa rồi rất là vội vã, dựa trên những hiểu biết hời hợt về Việt Nam – superficial – là từ mà tớ dùng trong báo cáo nội bộ của mình.

Không biết các đồng chí S&P có khách sáo không, vì khi tớ phản biện lại, các đồng chí ấy thỉnh thoảng lại nói “justified”, và tỏ ý sẽ trao đổi với tớ sau này. Tớ trộm nghĩ khéo mà mình có ảnh hưởng to lớn đến các quyết định xếp hạng của S&P chứ chẳng chơi! Nhưng có điều chắc chắn là S&P sẽ không tăng hạng của Việt Nam ít nhất là hết năm 2013. Khả năng đánh tụt hạng là nhiều hơn, nhất là sau khi các đồng chí ấy ngộ ra nhiều chuyện ở Việt Nam, nhờ cuộc nói chuyện với tớ! Thế thì cũng gay go cho tớ quá lắm!

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).