Friday 10 February 2012

Về việc một số ngân hàng xin xuất vàng: Không phải là lối thoát (Bai dang tren Dai bieu Nhan dan)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=237548

07:50 | 11/02/2012

Trong tình cảnh cạn kiệt thanh khoản trong hệ thống ngân hàng, một số ngân hàng nắm giữ vàng với ước tính khoảng 100 tấn đã lên tiếng kêu gọi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho phép xuất khẩu vàng tài khoản (vốn mới chỉ có 5 ngân hàng và công ty SJC được phép thực hiện) để giải quyết nhu cầu thanh khoản cấp bách của mình. Điều gì sẽ xảy ra khi NHNN cho phép thêm những ngân hàng này thực hiện xuất vàng, dù là trên tài khoản?

Hiển nhiên, khi vàng xuất đi, các ngân hàng sẽ thu về một số lượng USD tương ứng, tính theo giá vàng quốc tế. Với mục đích giải quyết nhu cầu thanh khoản cấp bách, các ngân hàng có thể hoán đổi số USD thu được này ra VND. Hoặc họ cũng có thể sử dụng luôn (một phần) lượng USD này để thanh toán các khoản huy động USD đến hạn, hoặc tiếp tục cho vay bằng USD.

Ở lựa chọn thứ nhất, khi các ngân hàng hoán đổi USD ra VND, cầu về USD tăng lên trong khi cầu USD giảm đi tương đối (với giả thiết các yếu tố khác không thay đổi). Cầu VND tăng sẽ dẫn đến lãi suất huy động VND phải tăng cao tương ứng, khi mà NHNN không tăng cung tiền VND với quan ngại sẽ làm tăng áp lực lạm phát.

Nhưng vì lãi suất huy động VND bị áp trần lãi suất 14%/năm nên người gửi tiền càng không mặn mà với việc gửi VND vào ngân hàng chỉ để hưởng lãi suất cố định 14%/năm này, mà tiếp tục chuyển sang các kênh tín dụng/đầu tư khác (không chính thức). Điều này buộc các ngân hàng phải tiếp tục liều lĩnh phớt lờ quy định trần lãi suất của NHNN và tìm cách huy động VND với lãi suất cao hơn để cứu thanh khoản cho chính mình. Nếu các ngân hàng không làm vậy thì tức là tình trạng khan hiếm thanh khoản càng trở nên quẫn bách hơn. Hai trường hợp này đều làm tăng lãi suất cho vay, tức là đi ngược lại mong muốn hạ lãi suất cho vay của Chính phủ và NHNN.

Với lựa chọn sử dụng luôn USD, không chuyển đổi ra VND, các ngân hàng bán vàng thu USD như vậy sẽ làm tăng tình trạng đô la hóa, là hậu quả của việc có thêm một lượng USD đáng kể đi vào lưu thông, vào nền kinh tế mà không được NHNN “nội tệ hóa” (thu mua lại và bán đối ứng ra bằng VND theo tỷ giá quy định). Mà như đã biết, đô la hóa trầm trọng hơn sẽ làm giảm đi tính hữu hiệu của chính sách tiền tệ, ảnh hưởng đến tính tự chủ của NHNN trong việc điều hành chính sách lãi suất và tỷ giá. Cụ thể hơn, mọi thay đổi về cung tiền nay đều phải ở mức độ lớn hơn mới tạo ra được cùng một hiệu ứng lên lãi suất và tỷ giá so với trước đây khi nạn đô la hóa chưa trầm trọng thêm.

Đô la hóa còn làm giảm đi nguồn thu nhập cho ngân sách thông qua “thuế lạm phát”- tức là quyền in tiền của NHNN tài trợ cho chi tiêu Chính phủ.

Thậm chí, ngay cả trong trường hợp cực đoan khi NHNN bắt buộc các ngân hàng trên phải bán lại số USD thu được từ việc xuất vàng cho NHNN để lấy VND, việc này cũng gây ảnh hưởng không mong muốn cho hệ thống ngân hàng và cho cả nền kinh tế trong bối cảnh hiện tại. Cụ thể, nếu NHNN dừng lại ở việc chỉ cung ứng đúng số VND cho số USD mình mua vào từ các ngân hàng thì vô hình trung cung tiền VND tăng lên, làm tăng áp lực lạm phát.

Nếu không muốn tăng cung tiền VND với lo ngại tăng áp lực lạm phát thì NHNN, sau khi mua USD, trả bằng VND, có thể bắt buộc các ngân hàng thương mại (những ngân hàng đã xuất vàng thu USD và bán lại cho NHNN thu về VND) phải mua tín phiếu, trái phiếu bắt buộc để hút lại số VND đã tung ra. Mà như vậy thì tình hình thanh khoản của những ngân hàng xuất vàng tài khoản và của cả hệ thống ngân hàng vẫn không được cải thiện. Có khác chăng là thay vì nắm giữ vàng trên tài khoản, nay các ngân hàng này lại nắm giữ một mớ tín phiếu, trái phiếu (vàng đã đổi lấy trái phiếu, tín phiếu; còn dự trữ ngoại hối của NHNN thì tăng lên tương ứng).

Tóm lại, cả hai lựa chọn (hoặc phối hợp giữa hai lựa chọn) nếu có thì chỉ có thể mang lại tác dụng cấp cứu thanh khoản tức thời cho cá nhân từng ngân hàng có vàng, chứ không có tác dụng cứu thanh khoản cho toàn bộ hệ thống ngân hàng và nền kinh tế, đặc biệt xét trong thời gian dài hơn, khi hành động bán vàng thu USD của các ngân hàng đẩy lãi suất VND lên cao hơn. Đó là chưa kể đến tác dụng phụ nhưng không hề nhỏ của việc này khi làm nạn đô la hóa trầm trọng thêm, cũng như làm tăng thêm áp lực lạm phát. Nói cách khác, giải pháp cho phép xuất vàng không giải quyết được vấn đề khó khăn thanh khoản của cả hệ thống ngân hàng. Giải pháp khả thi nhất vẫn là phải tự do hóa lãi suất huy động để giải quyết thanh khoản cho cả hệ thống ngân hàng, làm cơ sở để hạ dần lãi suất khi khó khăn thanh khoản đã qua và kỳ vọng lạm phát giảm đi.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).