Friday 30 March 2012

Bẫy thanh khoản và câu chuyện hạ lãi suất (Bai dang tren Dai bieu Nhhan dan; dong chi bien tap cung rat xuat sac cat giam cua to gan 500 chu!)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=242293

08:27 | 31/03/2012
Các nhà làm chính sách và giới chuyên gia đã xem nhẹ hoặc bỏ qua một trở ngại kỹ thuật rất quan trọng, bên cạnh một trở ngại lớn khác đến từ áp lực lạm phát buộc Ngân hàng Nhà nước phải rất thận trọng khi nới lỏng chính sách tiền tệ. Trở ngại kỹ thuật này chính là bẫy thanh khoản (liqudity trap).

Nguồn:: dangcongssan..vn
Hiện tại, lãi suất đang bị trói bởi 2 trở ngại, bẫy thanh khoản (chứ không phải là thanh khoản chung chung như người ta vẫn đang nói đến) và áp lực lạm phát. Bẫy thanh khoản là tình trạng mà ở đó Ngân hàng Nhà nước (NHNN) bơm tiền vào hệ thống ngân hàng thương mại nhưng vẫn không thể làm giảm lãi suất cho vay thương mại và do đó không kích thích được đầu tư và vì thế không kích thích được tăng trưởng.
5 trường hợp xảy ra bẫy thanh khoản
Bẫy thanh khoản xảy ra khi: (1) người dân/doanh nghiệp/ngân hàng thích nắm giữ tiền mặt hơn khi họ kỳ vọng rằng thời gian tới sẽ xảy ra thiểu phát, tức giá cả giảm đi. Lúc đó, dù có giữ tiền mặt thì trên thực tế số tiền đó của người ta vẫn tăng lên về giá trị trong tương lai tới; (2) người dân/doanh nghiệp/ngân hàng thích tích cóp, tiết kiệm hơn là đầu tư, chi tiêu. Trường hợp này xảy ra khi có suy thoái kinh tế hay triển vọng kinh tế u ám. Lúc đó tất cả các chủ thể kinh tế bi quan hơn và tiến hành “tích cốc phòng cơ”, đề phòng rủi ro bằng cách tăng cường tiết kiệm hơn là mang tiền ra chi tiêu, đầu tư. Cũng trong lúc suy thoái thì ngân hàng lại càng ngần ngại cho vay hơn vì sợ rủi ro đến từ các doanh nghiệp khách hàng phá sản, mất khả năng thanh toán. Vì vậy, NHNN hạ lãi suất cơ bản x% cũng không đồng nghĩa với lãi suất cho vay thương mại cũng sẽ giảm đi y% như kỳ vọng vì đơn giản là các ngân hàng không muốn cho vay để giảm rủi ro; (3) ngân hàng thiếu hụt thanh khoản. Các ngân hàng đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi nợ xấu nên tập trung củng cố bảng cân đối tài sản của mình, họ rất miễn cưỡng cho vay (vì sợ làm xấu thêm bảng cân đối tài sản); (4) ngân hàng không muốn chia sẻ lợi ích thu được từ việc NHNN hạ lãi suất chính sách, trần lãi suất huy động cho khách hàng vay tiền; và (5) nhà đầu tư không mặn mà với việc nắm giữ trái phiếu. Nếu lãi suất thấp một cách bất thường, người ta sẽ kỳ vọng lãi suất sẽ tăng trở lại. Khi đó, giá của trái phiếu sẽ sụt giảm đi (giá trái phiếu tỷ lệ nghịch với lãi suất của trái phiếu). Vì thế, nhà đầu tư/ngân hàng thà nắm giữ tiền mặt (cho những mục đích đầu tư khác) còn hơn là đầu tư vào trái phiếu.

Việt Nam đang hiện diện rõ nét 4 trường hợp
Ở Việt Nam, có thể thấy sự hiện diện rõ nét của tất cả các trường hợp trừ trường hợp (1), vì dù sao thiểu phát có xảy ra ở Việt Nam thì dường như cũng chỉ là trong thời gian ngắn và mức độ không lớn như ở các nền kinh tế đã phát triển khác. Các trường hợp (2), (3) và (4) khá hiển nhiên nên có lẽ không cần giải thích thêm. Riêng trường hợp (5), cần nói thêm một chút rằng kỳ vọng lạm phát đã có xu hướng tăng trở lại sau một loạt động thái tăng giá các hàng hóa cơ bản như xăng dầu, điện, và các hàng hóa phải nhập khẩu, làm tăng thêm kỳ vọng lãi suất sẽ tăng lại trong thời gian tới khi NHNN buộc phải giảm áp lực lạm phát bằng thắt chặt lại chính sách tiền tệ.
Như vậy, để hạ được lãi suất cho vay thương mại một cách thực sự và có ý nghĩa, trong hoàn cảnh NHNN vẫn bị trói tay bởi áp lực và kỳ vọng lạm phát thì đi kèm với mỗi một động thái nới lỏng có chừng mực (đúng hơn là rất hạn chế) cung tiền của NHNN (để không làm tăng áp lực lạm phát), nhất thiết cần phải có những biện pháp xử lý tình trạng ngân hàng giữ tiền hoặc chỉ cho vay loanh quanh trên thị trường liên ngân hàng mà không muốn cho doanh nghiệp và người tiêu dùng vay (với lãi suất thấp hơn so với trước khi NHNN nới lỏng cung tiền).

Theo lý thuyết, trong bối cảnh có suy thoái hoặc thiểu phát thì một biện pháp trong số này là phát tiền trực tiếp cho người tiêu dùng để kích cầu. Biện pháp khác là tăng chi tiêu Chính phủ, cũng nhằm mục đích kích cầu và cân bằng với cắt giảm đầu tư và chi tiêu từ khu vực tư nhân. Nhưng, như lưu ý ở đây, 2 biện pháp này (may ra) chỉ có tác dụng trong bối cảnh có suy thoái và thiểu phát. Và, nói “may ra” bởi không phải lúc nào 2 biện pháp này cũng thành công, như kinh nghiệm ở Nhật và các nước phát triển khác trong các cơn suy thoái kinh tế đã cho thấy. Ở Việt Nam, hiện vẫn còn quá sớm để nói rằng nền kinh tế đang (sắp) phải đối mặt với suy thoái và/hoặc thiểu phát, khi tăng trưởng cho dù giảm mạnh ở quý I năm nay thì vẫn là 4%/năm, còn lạm phát tuy có đang giảm đi thì vẫn ở mức 14,5% vào tháng 3 này và hy vọng sẽ kéo về được khoảng 9% vào cuối năm ở kịch bản lạc quan. Như vậy, 2 giải pháp trên không áp dụng được ở Việt Nam như hiện tại.

Chắc không ít người sẽ nhắc ngay đến giải pháp là áp trần lãi suất cho vay. Nhưng áp trần lãi suất cho vay không đồng nghĩa với việc buộc các ngân hàng tích cực cho vay hơn, nhất là ở lãi suất bằng hoặc dưới trần lãi suất cho vay, một cái trần rất phi kinh tế. Như thế, theo hướng hạ lãi suất kiểu này (đi từ NHNN), chỉ còn 1 giải pháp là NHNN hoặc các cấp chính quyền chỉ định/ra lệnh các ngân hàng thương mại cho vay theo nhu cầu vốn của khách vay và với các điều kiện có lợi cho khách vay. NHNN mới đây đã ban hành một cái lệnh có hơi hướng như vậy khi buộc các ngân hàng thương mại có cổ phần nhà nước chi phối phải cắt giảm chi phí ngõ hầu giảm lãi suất cho vay. Nhưng cũng có thể thấy rằng từ chuyện cắt giảm chi phí cho đến cho vay nhiều hơn và với lãi suất rẻ hơn là 2 chuyện khác xa nhau, trừ khi NHNN trực tiếp yêu cầu phải cho doanh nghiệp này và khu vực kia vay bao nhiêu vốn và với lãi suất là bao nhiêu.

Còn giải pháp nào hạ lãi suất nữa không?
Cách thức an toàn nhất và nhanh nhất để hạ lãi suất cho vay thương mại vẫn là nhanh chóng xóa bỏ ngay trần lãi suất huy động, không áp trần lãi suất cho vay, để cho các ngân hàng thương mại thiếu thanh khoản hoặc có bảng cân đối tài sản xấu có thể huy động được thêm vốn từ nền kinh tế. Những ngân hàng này, và những ngân hàng lành mạnh khác, sẽ có thêm vốn huy động từ nền kinh tế (chứ không phải từ NHNN, vốn sẽ tăng áp lực lạm phát) để cho vay với lãi suất tùy thuộc vào chất lượng khách hàng. Từ đó, sẽ có thêm nhiều doanh nghiệp, người tiêu dùng tiếp cận được với vốn vay, cho dù lãi suất lúc này hoàn toàn thả nổi theo điều kiện thị trường.

Giải pháp này có thể bước đầu sẽ làm tăng mặt bằng lãi suất chung vì các ngân hàng sẽ đua nhau tăng lãi suất huy động và, do đó, có thể sẽ tăng lãi suất cho vay để bù đắp. Nhưng chính việc tăng lãi suất huy động sẽ tăng được nguồn huy động vốn, đáp ứng được nhu cầu vốn của ngân hàng cho các nhu cầu nội tại (giảm căng thẳng thanh khoản, làm đẹp bảng cân đối tài sản v.v...) và nhu cầu cho vay của mình (với lãi suất cho vay giả thiết là tăng lên). Đến một lúc nào đó, nhu cầu huy động vốn sẽ dần giảm đi và thậm chí trở nên bão hòa vì các nhu cầu nội tại đã được đáp ứng (một phần) và đầu ra thì bị giới hạn bởi lãi suất cao, không phải người đi vay nào cũng chấp nhận. Lúc đó, ngân hàng sẽ có xu hướng điều chỉnh cắt giảm cả 2 loại lãi suất đầu vào và đầu ra, kích thích được đầu tư với lãi suất cho vay giảm đi, trong bối cảnh kỳ vọng lạm phát cũng đã “xẹp” đi nhờ tác dụng của việc tăng lãi suất huy động. Việc giảm mặt bằng lãi suất lúc này còn có thêm một thuận lợi lớn nữa từ tăng cung tiền NHNN khi mà áp lực lạm phát đã giảm đi rõ rệt, xuống đến mức an toàn cho hành động nới lỏng chính sách tiền tệ.

Lần này đến lượt đồng chí TS Cao Sĩ Kiêm!

Tớ đang và sẽ cố gắng lần lượt “lôi” từng đồng chí TS lên trên blog này hoặc lên mặt báo để góp vui cho bạn đọc (có lẽ tớ nên mở một cái chuyên mục đại loại không phải như “Tiến sĩ cười” mà là “Tiến sĩ không cười nổi” chăng?). Hôm nay đến lượt đồng chí Kiêm, người mà từ lâu lắm rồi tớ đã nhiều lần định lôi lên báo vì những phát biểu và nhận định của mình nhưng chưa có dịp.

Trong bài “Lạm phát,lãi suất hạ thì doanh nghiệp kiệt sức” trên VnExpress, đồng chí phóng viên có cho biết thế này: “Trong khi sản xuất có chậm lại thì tồn kho của các doanh nghiệp tăng gần 35% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó chế biến - bảo quản hoa quả tăng hơn 87%, sắt thép tăng gần 60%... Ngoài ra, tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ cũng chỉ tăng khoảng 5% so với cùng kỳ nếu loại trừ yếu tố giá. Theo các chuyên gia kinh tế, những chỉ báo nêu trên là những dấu hiệu đầu tiên của hiện tượng đình đốn trong sản xuất.

Thông thường, khi sản xuất có dấu hiệu “đình đốn” (cứ cho là đúng như vậy) vì tồn kho tăng cao thì có nghĩa là cung đang vượt cầu (cung có thể giữ nguyên như trước nhưng cầu đã bị giảm bởi chính sách tiền tệ thắt chặt). Cũng cần nói thêm với các đồng chí chuyên gia kinh tế liên quan là sản xuất trong tình trạng như vậy thì không thể gọi là đình đốn được vì năng lực sản xuất đâu có bị mất mát, sứt mẻ, ảnh hưởng? Chủ doanh nghiệp không thể duy trì và tăng sản xuất lên đơn giản chỉ vì họ không tiêu thụ hết sản phẩm của mình với giá như hiện tại, nên mới làm tăng tồn kho, dẫn đến sản xuất không có lãi nữa nên phải sản xuất cầm chừng hoặc thu hẹp sản xuất.

Mà như tớ đã viết trong bài Cáchthức nhanh nhất, an toàn nhất để phục hồi và tăng trưởng bền vững”, việc cần làm đối với các doanh nghiệp hiện nay là phải hạ giá để giải phóng tồn kho, chứ không thể, không nên trông đợi vào chính sách tiền tệ nới lỏng của NHNN, sự “thấu hiểu” và “tốt bụng” của các ngân hàng thương mại khi sẽ tiếp tục cho vay tiền (với lãi suất hợp lý) để doanh nghiệp cầm cự. Cũng trong hoàn cảnh này thì chẳng doanh nghiệp nào nên tiếp tục vay ngân hàng để sản xuất và mở rộng sản xuất thêm rồi tiếp tục chất đống sản phẩm ở trong kho. Còn các doanh nghiệp như sắt thép, xi măng v.v... thì có “chết” cũng không có gì oan cả vì tự mình nhảy vào trào lưu sản xuất ra chúng để rồi dư thừa quá mức, bất chấp những cảnh báo sớm.

Thế mà đồng chí Kiêm cho rằng: “...Vấn đề lớn nhất đối với các cơ sở sản xuất hiện nay là lãi suất cao và khả năng tiếp cận vốn. Tình trạng này tiếp tục kéo dài sẽ vượt quá sức chịu đựng của doanh nghiệp, dẫn đến giải thể, đóng cửa ở quy mô lớn. Trong trường hợp này, hậu quả sẽ không còn dừng lại ở kinh tế mà sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới xã hội khi rất nhiều công ăn việc làm bị mất”.

Thật oái oăm khi đồng chí Kiêm và các đồng chí hướng khác của đồng chí Kiêm “xui”, hoặc dồn doanh nghiệp vào con đường tự mình chôn mình và làm khó cho cả nền kinh tế với việc tăng áp lực ép NHNN nới lỏng chính sách tiền tệ và hạ lãi suất nhằm tiếp cận vốn dễ hơn, lãi thấp hơn.

Lẽ ra, thay vì kiến nghị về phía doanh nghiệp như vậy (tớ cũng hiểu “hoàn cảnh” của đồng chí Kiêm, vì đồng chí là Chủ tịch Hội doanh nghiệp mà), thà đồng chí cứ kiến nghị Chính phủ tiếp tục nối lại một gói kích cầu “nổi tiếng” năm 2009 để kích thích dân chúng và doanh nghiệp cả nước tiêu thụ bằng hết sản phẩm tồn kho và, từ đó, hối thúc doanh nghiệp (và cũng là ngân hàng) bỏ thêm vốn đầu tư tăng sản xuất có phải hơn không? Tất nhiên, lúc đó đồng chí Kiêm cũng nên “lờ” đi (và cả tớ cũng nên tự nhét tay bịt mồm mình) các hậu quả của chính sách kích cầu cực kỳ “Việt Nam” của (Chính phủ) Việt Nam như hồi năm 2009-2010.

Tóm lại, những phát biểu dễ dãi với hàm lượng chất xám thấp của đồng chí Kiêm vẫn còn được chuộng, được trích dẫn tràn lan như hiện nay, tuy có thể khó hiểu một chút từ góc độ chuyên môn, nhưng lại dễ hiểu vì luôn đi kèm với những câu, đại loại, như: “Trong trường hợp này, hậu quả sẽ không còn dừng lại ở kinh tế mà sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới xã hội khi rất nhiều công ăn việc làm bị mất”, vốn rất được lòng công chúng (i.e., mị dân).


Thursday 29 March 2012

Trao đổi - Nhiều mâu thuẫn (Chung quanh bài “Để tránh lạm phát đình đốn” đăng trên TBKTSG số 12, ngày 15-3-2012)

Bài này tớ đăng trên TBKTSG số ra hôm nay. Ngay trong cùng số hôm nay, TBKTSG cũng cho đăng lời đáp của đồng chí Phạm Đỗ Chí, một trong hai tác giả của bài “Để tránh lạm phát đình đốn”. Đọc xong lời đáp, thấy .... Nhưng thôi, bạn đọc nào có thể comment giúp tớ tất cả 3 bài liên quan ở đây được không? Tớ cũng đang hỏi lại TBKTSG xem là họ có đồng ý cho tớ phản biện lại ít nhất là thêm một lần nữa được không. Nhưng khả năng này chắc là cực thấp vì đồng chí Chí đã “rào” trước ở cuối bài rằng đại loại không nên tranh luận trên TBKTSG nữa.

Để cho công bằng, tớ sẽ đợi phản hồi của TBKTSG trước khi comment về lời đáp của đồng chí Chí.
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Liên quan đến chủ đề hạ lãi suất, Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia Vũ Viết Ngoạn và tác giả Phạm Đỗ Chí (“các tác giả”) đã có một bài viết nhan đề “Để tránh lạm phát và đình đốn”, đăng trên TBKTSG số ra ngày 17-3. Bài viết tuy ngắn nhưng lại chứa đựng nhiều vấn đề lớn gây tranh luận về mặt học thuật.

Các tác giả đề cập đến mô hình IS-LM để minh họa cho sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa.  Trước tiên, các tác giả cho rằng “có vẻ như khả năng sản xuất và hiệu quả nền kinh tế đang đến các giới hạn đặt ra bởi sự thiếu nhân công có tay nghề cao, đất đai có năng suất cao và công nghệ bị giới hạn… đã đặt ra những trở ngại đáng kể cho chu kỳ sản xuất”. Sau đó, các tác giả đề xuất sử dụng chính sách tài khóa chặt chẽ (di chuyển đường cong IS sang trái) kết hợp với chính sách tiền tệ nới lỏng từ từ (di chuyển đường LM sang phải) để nhằm đối phó với lạm phát và giảm lãi suất, đồng thời nâng cao Y (sản lượng) nhằm làm giảm tình trạng “đình đốn sản xuất”.
Với nhận định như ở đoạn trên (“có vẻ như...”) thì các tác giả đã gián tiếp thừa nhận rằng nền kinh tế Việt Nam đã ở (hoặc tiệm cận rất gần đến) mức tiềm năng cho phép (tức nền kinh tế đã (gần) đạt đến mức toàn dụng trong dài hạn, với các yếu tố đầu vào như hiện thời và mô hình tăng trưởng như hiện thời). Từ đây sẽ dẫn đến mấy nghịch lý, mâu thuẫn, bất cập như sau. Thứ nhất, nếu nền kinh tế đã ở (gần) mức toàn dụng rồi thì nó lại mâu thuẫn với chính lập luận ban đầu (và cũng là điều dẫn nhập cho bài viết) của các tác giả rằng nền kinh tế Việt Nam đang ở tình trạng đình đốn sản xuất – tức là tình trạng mà nền kinh tế hoạt động ở dưới mức tiềm năng, mức toàn dụng.

Thứ hai, quan trọng hơn, nếu đã thừa nhận rằng nền kinh tế đang ở (gần) mức toàn dụng rồi thì cũng xin được nhắc lại với các tác giả rằng, theo lý thuyết, nếu nới lỏng chính sách tiền tệ (hạ lãi suất) nhằm thúc đẩy cho sản lượng Y  vượt quá mức  tiềm năng (toàn dụng) thì giá cả (tức lạm phát) sẽ nhanh chóng tăng lên còn sản lượng Y thực tế sau một giai đoạn tăng lên ngắn ngủi sẽ nhanh chóng sụt giảm, trở về mức tiềm năng trong dài hạn.
Nói cách khác, nếu giả sử đúng như Việt Nam đang tăng trưởng với tốc độ là 6%/năm như công bố, và giả sử đúng như các tác giả nhận định rằng nền kinh tế Việt Nam đã đạt mức toàn dụng thì chính sách tiền tệ nới lỏng và hạ lãi suất như đề xuất của các tác giả không mang lại tác dụng gì cho thúc đẩy tăng trưởng sản lượng, ngoài tác hại hiển nhiên và tất yếu là lạm phát tăng lên.

Trên hết, cho dù có biện luận rằng nền kinh tế Việt Nam vẫn thấp xa so với mức toàn dụng, thì cũng cần phải nhớ lại một điều cơ bản là chính sách tiền tệ dùng để kích thích tăng trưởng sản lượng (GDP) chỉ có tác dụng trong ngắn hạn, và vô tác dụng đối với tăng trưởng trong dài hạn (ngoài việc làm tăng lạm phát). Tăng trưởng kinh tế trong dài hạn lúc đó sẽ phụ thuộc một phần vào khoảng cách giữa sản lượng Y hiện tại và sản lượng ở mức tiềm năng toàn dụng, cũng như mô hình và cách thức tăng trưởng hợp lý để mở rộng sản lượng tiềm năng hơn nữa, tạo điều kiện tăng thêm “room” cho tăng trưởng Y.

Trở lại với đề xuất kết hợp thắt chặt chính sách tài khóa và nới lỏng chính sách tiền tệ như trong lập luận dùng mô hình IS-LM trên của các tác giả. Thực chất của đề xuất này chẳng qua cũng chỉ là dựa vào chính sách tiền tệ nới lỏng để kích thích tổng cầu (thay vì dựa vào chính sách tài khóa như trước đây), từ đó hy vọng sẽ làm tăng nhu cầu đầu tư lợi dụng lãi suất thấp, và nhờ đó tăng Y. Lưu ý thêm một điều là, theo đề xuất, thì IS sẽ bị dịch chuyển sang trái, tức là chính sách tài khóa không phải là được sử dụng “chặt chẽ” như đề xuất nữa mà thực ra là bị thắt lại (chi tiêu công bị giảm đi). Điều này có nghĩa là chính sách tiền tệ càng phải được nới lỏng thêm nữa (so với trường hợp chính sách tài khóa không bị thắt chặt) để bù đắp cho phần tổng cầu đã bị  suy giảm bởi thắt chặt chính sách tài khóa. Mà như nói ở trên, chính sách thúc đẩy tăng trưởng dựa vào nới lỏng chính sách tiền tệ chỉ có tác dụng trong ngắn hạn và sẽ để lại hậu quả là lạm phát cao.

Các tác giả áp dụng một cách máy móc mô hình IS-LM. Mô hình này giả định rằng lãi suất là yếu tố duy nhất tác động đến đầu tư. Khi lãi suất hạ thì đầu tư sẽ phải tăng lên.
Thực tế, đầu tư còn phụ thuộc vào các điều kiện liên quan đến tín dụng. Các ngân hàng có sẵn lòng cho vay doanh nghiệp hay không nhiều khi không liên quan gì đến lãi suất. Ví dụ, nếu các ngân hàng nâng tiêu chuẩn cho vay lên thì tổng mức đầu tư trong nền kinh tế sẽ không có phản ứng gì với chính sách tiền tệ nới lỏng cả. Trong trường hợp này, đường IS trở nên rất dốc, và, vì thế, dù có tăng cung tiền làm đường LM dịch chuyển sang phải thì sản lượng Y cũng không tăng lên (đáng kể). Kết quả rõ nét hơn là giá cả tăng lên vì tổng cầu tăng lên. Nói cách khác, trong trường hợp này, chính sách tiền tệ nới lỏng (hạ lãi suất) không kích thích làm đầu tư tăng lên, và do đó, sản lượng Y không tăng lên. Trường hợp kinh tế đình trệ ở Nhật trong thập kỷ 90 và Mexico năm 1994 là ví dụ điển hình cho tình trạng này.

Ở Việt Nam, tình hình hiện nay cũng chính là hiện thân của tình trạng chính sách tiền tệ nới lỏng nhưng lãi suất cho vay không hạ thấp đi đáng kể hoặc các doanh nghiệp vẫn tiếp tục phàn nàn khó tiếp cận được vốn vay ngân hàng (có thể nói rằng Việt Nam đang vướng vào “bẫy thanh khoản” (liquidity trap)). Lúc đó, NHNN có tăng cung tiền nhưng không dẫn đến hạ lãi suất cho vay doanh nghiệp, do đó không làm tăng sản lượng Y.  Nói cách khác, chính sách tiền tệ nới lỏng trong trường hợp này cũng không có tác dụng làm tăng sản lượng Y. Như vậy, để mô hình trên phát huy tác dụng như trong đề xuất của các tác giả thì có lẽ các tác giả phải đề xuất thêm một biện pháp nữa là bắt buộc các ngân hàng phải cho doanh nghiệp vay theo nhu cầu của doanh nghiệp và theo lãi suất ấn định mà doanh nghiệp cho rằng là chấp nhận được chăng?

Wednesday 28 March 2012

Nhân vụ xử cán bộ Vinashin

Bài này tớ viết hồi tháng 8 năm 2010 thì phải, để trên blog cũ. Chắc vì nó và một số bài khác tương tự nên cái blog vô tội của tớ bị các đồng chí hacker mũ đen hay mũ đỏ tớ cũng chẳng biết nữa chiếm làm của riêng. Nay bác Bình được ra hầu tòa, tớ chợt nhớ ra bài này nên tìm và post lên đây cho bà con đọc chơi. Bài có tiêu đề như một tiếng khóc đưa ma.
---------------------------
Vinashin ơi, hỡi Vinashin – chả trách!

Đọc bài “Cựu chủ tịch Vinashin Phạm Thanh Bình: “Do bung ra không đúnglúc...” trên Pháp luật & Đời sống mà cứ phải than trời về cái đầu, cái tầm, cái trình độ tư duy của một ông Tổng và những chuyện xung quanh chúng, để rồi phải thốt lên rằng với những người như ông Tổng này, và cả những ai đằng sau ông ấy thì Vinashin không phá sản mới là lạ!

Trả lời câu hỏi của phóng viên, “nghĩ sao mà lại mua tàu Hoa Sen hơn ngàn tỷ rồi nay đắp chiếu?”, ông Bình đáp rằng: “Mua tàu Hoa Sen xuất phát từ chủ trương đầu tư một đội tàu biển cao tốc Bắc-Nam. Nếu đầu tư đường sắt cao tốc hoặc đường bộ Bắc-Nam thì phải mất hàng chục tỷ USD, thời gian mất hàng chục năm, khó đảm bảo an toàn khi bão lũ, tai nạn giao thông... Trong khi đó, đầu tư đội tàu chỉ hết khoảng 2 tỷ USD, hoàn thành trong vòng 3-5 năm và cần khoảng tám con tàu như Hoa Sen, 3-4 cảng, chi phí sẽ rẻ hơn vận chuyển trên bộ, không bị mưa lũ...”. Thật kỳ lạ khi ông đi so sánh vận tải thủy (thường để chở hàng hóa) với đường sắt cao tốc (chỉ chở được người), và cho rằng vận chuyển trên bộ sẽ chịu ảnh hưởng của mưa lũ, nhưng lại lờ đi chuyện vận tải đường biển sẽ bị ảnh hưởng của gió bão.

Ông còn kể ra những nguyên nhân làm cho chủ trương này phá sản: “Nhưng không may là mới chỉ mua một chiếc đã gặp thời điểm khủng hoảng, phía Trung Quốc đóng cửa khẩu, xe hàng trong nước chưa quen đi đường biển, mà chúng tôi chỉ chở xe lớn nên ít khách. Chạy thêm được một tháng thì thấy lỗ quá, phải dừng lại”. Trung Quốc chắc đã mở cửa khẩu lại (nếu quả thật có đóng) nhưng chắc ông Bình vẫn không thấy có khách từ Trung Quốc? “Xe hàng trong nước chưa quen đi đường biển” mà ông vẫn nhắm mắt cho mua tàu, chứng tỏ ông và bộ sậu của ông không hề làm, không hề có khái niệm gì về điều tra thị trường khi xây dựng một dự án kinh doanh nào đó. Cái việc “chỉ chở xe lớn nên ít khách” càng chứng tỏ nhận định này.

Khi được hỏi về phương hướng xử lý con tàu này, ông tự tin “Đã có hướng xử lý”. Đang phân vân không biết ông xử lý kiểu gì, thì ông nhấn mạnh “kiểu gì mình cũng phải phát triển. Mình chỉ cố chịu đựng thêm một thời gian nữa”. À, hóa ra là xử lý kiểu chịu đựng (tức cứ để nó nằm chịu lỗ ở đó), rồi tiếp tục mua thêm một vài con tàu cao tốc kiểu như vậy. Ông còn “tiết lộ” thêm: “Quan điểm của Chính phủ là vẫn phải phát triển đường cao tốc trên biển. Đến thời điểm nào thì do thị trường nhưng mình phải chuẩn bị trước”. Hóa ra chủ trương đầu tư mua tầu Hoa Sen và những con tàu tương tự không phải là do ông Bình nghĩ ra, mà ông chỉ là người thực hiện, nên chúng ta lâu nay vẫn chỉ trích sai người! Từ chi tiết này, có lẽ phải kêu gọi dư luận có cái nhìn nhân ái hơn với ông Bình, ít nhất trong chuyện mua tàu rồi để nằm chơi, vì ông Bình không phải là tội đồ duy nhất, và cũng không phải là người khởi xướng.

Nhưng nói gì thì nói, vẫn không thể không tức khi nghe ông chống chế với phóng viên khi bị vặn rằng liệu tàu Hoa Sen chỉ là một cái xà lan được hoán cải. Ông cho biết: “Sai hoàn toàn. Đây là một tàu khách hiện đại, tiện nghi như tàu du lịch khách sạn năm sao. Trên thế giới ít có tàu như vậy”. Câu này chỉ làm cho người ta thấy ông không những nói câu sau “đá” câu trước, khi bên trên ông đổ tại rằng tàu chỉ để chở xe (tải) lớn nên ít khách, mà còn thấy ông (và những người có trách nhiệm trên ông cho duyệt phương án mua tàu, nếu có) rất “chịu chơi” và “sáng tạo”. Tại sao không những là tàu chở khách, mà còn “hiện đại” mà ông lại mang ra để chở xe tải? Tại sao thế giới ít dùng (vì có ít tàu như vậy) mà ông lại “sáng tạo, đi tắt đón đầu”, bê về dùng để chở xe tải ở Việt Nam?

Khi biện minh cho vấn đề đầu tư dàn trải, ông chỉ nhận là “Dàn trải ở đây là dàn trải nhà máy đóng tàu chứ không phải ngành khác”, rồi lập luận “Khi trong tay tôi đã có cả mớ hợp đồng đóng tàu trị giá tới 17 tỷ USD mà tôi không đầu tư thì làm sao đáp ứng được nhu cầu của khách hàng”. Ông quả là có cái lối tư duy như của mấy tay tội phạm lừa đảo kinh tế, khi trong tay chỉ có chút tiền và năng lực chỉ có chút xíu nhưng bằng cách nào đó làm cho đối tác tin tưởng rằng ông là đại gia, có thể làm được những việc cực lớn, nên dễ dàng huy động được một lượng đặt hàng lên tới 17 tỷ USD đảm bảo đủ việc làm cho Tập đoàn cả vài năm trời. Cái gì xui khiến ông “có ít xít ra nhiều” và chạy theo con số để rồi phải ra sức mở rộng đầu tư như vậy? Có lẽ một trong những lý do là bầu sữa của Chính phủ tưởng vô tận trong mắt ông, minh chứng qua việc ông sẵn sàng “kể cả đề nghị Chính phủ hỗ trợ tiếp”.

Ông còn cố tình loanh quanh khi bào chữa rằng “Số tôi không gặp may. Ký xong hợp đồng thì xảy ra khủng hoảng kinh tế. Nhiều đối tác chấp nhận bỏ tiền cọc, hủy hợp đồng. Vốn liếng mình cũng bị kém đi, nhiều dự án không thực hiện được”. Ai cũng hiểu rằng khi đối tác chấp nhận bỏ tiền đặt cọc, hủy hợp đồng thì về nguyên tắc Vinashin chẳng bị thiệt hại gì, thậm chí còn có lợi, vì tiền đặt cọc và tiền thanh toán là để cho từng công đoạn hoàn thành sản phẩm, nên Vinashin cho dù có bị hủy hợp đồng thì cũng chỉ có một phần công việc phải bị dang dở, nhưng quan trọng hơn là phần việc đó vẫn đã được thanh toán hoặc có tiền đặt cọc đảm bảo.

Nực cười hơn nữa là chuyện ông cho biết tỷ số nợ trên vốn của Vinashin chỉ vào khoảng trên 4 lần (thực tế là trên 11 lần). Tôi không cho rằng ông cố tình nói sai vì chuyện này quá quan trọng và có thể dễ dàng kiểm chứng. Tôi tin rằng ông nghĩ tỷ số này đúng là như vậy. Vậy suy ra điều gì? Ông Bình là Tổng Giám đốc mà hoàn toàn mù tịt về tình hình tài chính của tổ chức của mình! Chắc vì thế mà ông cứ thỏa sức đầu tư, thỏa sức vay mượn, vì (chắc là) cho rằng nợ của Vinashin vẫn còn thấp chán, chẳng có gì đáng lo!

Tương tự vậy, ông phủ nhận ý kiến của phóng viên cho rằng nợ quá hạn của Vinashin đã lên đến hàng nghìn tỷ đồng. Ông chỉ biết đến mỗi khoản nợ 750 triệu đôla, nhưng lại cho rằng đây là nợ dài hạn, và Vinashin chắc chắn trả nợ được vì “Tới đây, các nhà máy đều đi vào sản xuất, làm ra rất nhiều tiền”. Thưa ông, cứ cho là các nhà máy ông đang đầu tư sẽ có đủ tiền để hoàn thành, đủ hoàn chỉnh để đi vào sản xuất được, nhưng xin hỏi ông một câu đơn giản là khách hàng ở đâu để ông trông mong người ta sẽ đặt hàng đóng tầu ở Vinashin và mang lại rất nhiều tiền cho Vinashin? Hay ông tin rằng những khách hàng đã hủy hợp đồng trước đây nay sẽ quay lại và ngành đóng tàu vẫn ở thời hoàng kim của nó khi các đơn đặt hàng dồn dập đến các nhà máy đóng tàu trên thế giới vượt quá công suất của họ mà nhờ đó Vinashin – với tư cách là kẻ sinh sau đẻ muộn, chẳng có tên tuổi và uy tín gì (xin đừng ảo tưởng ở chỗ này!) sẽ được hưởng “sái” lây? Và “tới đây... làm ra rất nhiều tiền” là thời điểm nào vậy? Hy vọng nó không phải là sau dăm năm nữa, “mưa lắm cũng phải nắng” như lối tư duy “giản dị” của ông. Mà lúc đó thì tiền trả lãi và vốn của Vinashin biến thành nợ quá hạn đã lên đến con số khổng lồ rồi, sao mà còn để ông tự tin rằng nợ quá hạn không đáng kể và chắc chắn sẽ trả được nợ?

Tóm lại, có lẽ phẩm chất duy nhất của ông Tổng Bình là liều và “giản dị”, “ngây thơ” trong tư duy và kiến thức quản lý, kinh doanh, lại được hậu thuẫn bởi một cái chống cực chắc, nên ông cứ thả sức tung hoành và chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi con tàu Vinashin được ông trực tiếp chèo lái cặp bến kết cục như hiện nay.

Tuesday 20 March 2012

Khẩn thiết đề nghị các quý đồng chí TS này nhanh chóng về hưu/vườn

Đọc bài này xong tớ mới thấy lạ lùng thật sự cho cái đội ngũ “trí thức” ở Việt Nam. Chẳng hiểu được là học ở đâu mà đồng chí TS Vũ Đình Ánh lại phát biểu như thế này:

“Sở dĩ phải “đẻ” ra trần LS vì thực tế từ trước tới nay NHNN chưa biết lấy công cụ gì để điều hành chính sách tiền tệ. Ở các nước khác, LS cơ bản, LS tái cấp vốn, tái chiết khấu được dùng để can thiệp vào thị trường tạo ra hiệu quả lớn, nhưng ở VN không dùng được những công cụ, biện pháp này do lạm phát cao, vĩ mô bất ổn... LS cơ bản đặt ra 10 năm nay nhưng không có tác dụng gì, vì vậy phải sử dụng biện pháp hành chính đặt trần LS để điều hành. Nếu bỏ trần thực sự tôi rất lo ngại, NHNN dùng cái gì để can thiệp vào thị trường. Trong bối cảnh hiện nay, tạm thời tôi ủng hộ trần LS huy động, chỉ có nó mới giữ được LS tiền gửi ở mức hợp lý nhằm giảm LS cho vay”.

Khỏi phí thì giờ, tớ chỉ nói nhõn một dòng thế này thôi, rằng không phải NHNN không dùng được những công cụ này, mà là vì không biết dùng, không dùng đúng cách, đúng thời điểm, đúng liều lượng, hoặc muốn/không muốn dùng mà không được vì bị can thiệp từ đâu đó bằng cái lệnh miệng hoặc lệnh giấy v.v... Đủ chưa, đồng chí Ánh?

Một đồng chí TS khác cũng họ Vũ là đồng chí Ngoạn (tớ rất miễn cưỡng dùng cái chữ TS ở đây) lý luận một cách chữ nghĩa và đao to búa nhớn hơn rằng:

“Mọi biện pháp hành chính đều là phi thị trường và ắt để lại hậu quả không mong muốn nếu không được thực thi một cách nghiêm túc. Hiện nay, Ủy ban GSTC mong muốn xóa trần, tuy nhiên do thị trường tiền tệ còn nhiều bất ổn, thanh khoản hệ thống chưa ổn định nên cần tiếp tục duy trì thêm một thời gian”.

Có bao giờ đồng chí Ngoạn tự vấn lương tâm và huy động hiểu biết của mình ra để xem quả thật duy trì cái trần lãi suất sẽ có tác dụng như đồng chí nêu ra không? Hay nó chính là cái làm trầm trọng thêm những vấn đề đó? Nói thế thôi, tớ chẳng hy vọng đồng chí Ngoạn làm được thế đâu, vì đọc các bài viết, nói của đồng chí là biết liền mà!

Đồng chí TS tiếp theo là đồng chí Nguyễn Thị Mùi, cũng kiến nghị chưa nên bỏ bởi “nguy cơ tái lạm phát cao vẫn có thể tái diễn. Ngoài ra, dù có bỏ thì mục tiêu giảm LS cho vay chưa chắc đã đạt được, vì các NH có thể chạy đua, đẩy LS lên quá cao.” Tớ cũng chỉ đặt câu hỏi ngắn gọn như với đồng chí Ngoạn cho đồng chí Mùi này. Cách tư duy của đồng chí Mùi và các đồng chí khác tương tự rất có vấn đề vì lẽ ra đồng chí phải chịu khó suy nghĩ thêm một chút là, ừ, cứ cho là lãi suất sẽ lên quá cao đi, nhưng sau đó thì thế nào? Rõ khổ cho cái căn bệnh cận thị tư duy!

Sunday 18 March 2012

Về hạ lãi suất - Nói lại cho đúng bản chất (Bai dang tren Dai bieu Nhan dan)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=241046

07:59 | 18/03/2012
Các động thái và chính sách liên quan đến tiền tệ được dư luận đặc biệt quan tâm trong suốt thời gian qua. Về chủ trương hạ lãi suất cách đây mấy hôm của mình, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Văn Bình đã có một số phát biểu và nhận định chưa hợp lý.
Thống đốc khẳng định: “Việc giảm lãi suất không phải nới lỏng tiền tệ và không tác động xấu đến lạm phát” (VnEconomy, 13.3). Như đã nói ở bài viết đăng trên Đại biểu Nhân dân (ra ngày 9.3), tác giả đã chỉ ra việc giảm lãi suất lần này của NHNN thực chất là kết quả của hành động bơm tiền của NHNN ra nền kinh tế thông qua hệ thống ngân hàng để tăng thanh khoản. Việc giảm lãi suất đồng thời cũng là kết quả của hành động NHNN mua một lượng lớn USD và qua đó tung thêm ra nền kinh tế (cũng thông qua hệ thống ngân hàng) một lượng lớn VND. Thanh khoản cải thiện với một lượng lớn VND được NHNN bơm thêm vào nền kinh tế đã kéo giảm lãi suất cho vay thương mại xuống, chứ không phải là do thị trường tự “vận động”, tự điều chỉnh, theo ý của Thống đốc.
Thêm nữa, cũng ở số báo trước chúng ta thấy Thống đốc NHNN đã tiết lộ thêm rằng sẽ tăng kỳ hạn (thậm chí lên 6 tháng) của các nguồn vốn của NHNN để “tạo ra cú hích ban đầu cho các tổ chức tín dụng có nguồn vốn để đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng”. Tức là NHNN cũng sẽ tiếp tục bơm tiền vào hệ thống, và đáng chú ý là với kỳ hạn dài hơn. Một khi đã gián tiếp thừa nhận hành động hạ lãi suất vừa rồi là có liên quan đến việc bơm tiền của NHNN như phân tích ở trên thì NHNN không thể và không nên nói khơi khơi rằng đó “không phải là nới lỏng tiền tệ”. Và vì thế họ cũng không thể gạt bỏ một cách nhẹ hều khả năng đợt hạ lãi suất này sẽ tác động xấu đến lạm phát, bất chấp việc Thống đốc cho rằng yếu tố lạm phát do cung tiền “chỉ” chiếm khoảng 50% cấu thành lạm phát ở Việt Nam. Hàm ý cho các phân tích ở đây là chúng ta phải chuẩn bị cho một khả năng xấu xảy ra là lạm phát cao sẽ quay trở lại ngay trong năm nay.
Một phát biểu đáng chú ý nữa của Thống đốc là khi cho rằng: “Việc hạ lãi suất cũng giúp cho kỳ vọng lạm phát, kỳ vọng vào ổn định kinh tế tốt hơn” (VEF, 13.3). Đây e rằng là một nhận định rất ngược đời (ngoài chuyện ý tứ lủng củng), bởi kỳ vọng lạm phát chỉ có thể giảm đi khi lãi suất tăng lên. Hành động hạ lãi suất vừa qua sẽ góp phần làm tăng kỳ vọng lạm phát trong dân chúng, và vì thế sẽ làm tăng áp lực lạm phát trong những tháng tới.
Hoặc có lẽ ý Thống đốc muốn nói rằng khi dân chúng thấy NHNN phát đi tín hiệu hạ lãi suất và thực tế đã làm vậy thì họ sẽ phải tin rằng lạm phát sẽ không vượt qua được mức lãi suất mà NHNN ấn định, từ đó kỳ vọng lạm phát sẽ phải giảm đi chăng? Nếu có đúng như vậy thì đã sai lầm ở chỗ, kỳ vọng lạm phát (của dân chúng) không mấy khi đồng hành với niềm tin về lạm phát của NHNN cả. Một ví dụ thuyết phục nóng hổi là tính chính xác trong dự báo lạm phát của Chính phủ trong năm 2011.

Cũng có thêm một khả năng nữa là do chỉ “lỡ lời” khi nói như trên, chứ thực ra ý Thống đốc muốn nói rằng đây là hiện thực hóa chủ trương để chính sách chủ động dẫn dắt thị trường đi theo các mục tiêu đề ra, thay vì để cho thị trường dẫn dắt như trước đây, như được trích dẫn trên VnEconomy (14.3). Cụ thể, theo dẫn giải của tờ báo này thì cách làm của NHNN (tức tuyên bố chủ trương hạ lãi suất trước khi thực hiện một vài ngày) là một cách làm hay, khi đánh động người gửi tiền rằng lãi suất sẽ tiếp tục được giảm trong những quý tiếp theo. Kết quả là người gửi tiền hoặc sẽ tranh thủ gửi thêm tiền để kịp hưởng lãi suất hiện tại 14% trước khi bị đưa về dưới trần lãi suất 13%, và/hoặc người gửi tiền cũng sẽ cơ cấu lại kỳ hạn tiền gửi chuyển sang các kỳ hạn dài hơn để hưởng lãi suất cao hơn vì biết rằng càng ngày lãi suất càng hạ, nếu lúc đó mới đi gửi thì lãi suất được hưởng sẽ thấp hơn. Động thái “đánh động” này, vì thế, được kỳ vọng rằng sẽ làm tăng mạnh tiền gửi và kéo dài kỳ hạn gửi tiền ra, góp phần tích cực đến giảm lãi suất cho vay, cũng như áp lực và kỳ vọng lạm phát.

Nhưng đây mới chỉ là suy đoán và hiện thực thì còn phải đợi thực tế trả lời. Như đã chỉ ra trước đây, hành động áp trần lãi suất huy động về bản chất chỉ là hành động cưỡng bức người gửi tiền chia sẻ các tổn thất của hệ thống ngân hàng, của các doanh nghiệp và khách hàng vay tiền. Tuy nhiên, với một công cụ mang tính cưỡng đoạt, trái với quy luật thị trường như vậy thì nó chỉ có thể “bắt bí” được một số người gửi tiền nhất định không còn lựa chọn nào khác buộc phải gửi tiền vào hệ thống ngân hàng để hưởng một lãi suất bị... như vậy. Rất tiếc, số người này và, quan trọng hơn, số tiền của họ thường là rất có hạn. Phần đáng kể hơn nhiều là những người gửi tiền với số tiền lớn hơn, và thường là những người có nhiều lựa chọn hơn, sẽ tích cực tìm kiếm những cơ hội đầu tư cho lợi suất lớn hơn là lãi suất tiết kiệm không hấp dẫn này. Đó mới chính là cái mất mát lớán, và nguy cơ cho hệ thống ngân hàng, chứ không đơn giản diễn ra giống hệt như suy đoán của Thống đốc.

Cụ thể hơn, trong bài viết ngày 9.3 (trên báo ĐBND), tác giả đã cảnh báo rủi ro này, khi lập luận rằng nếu NHNN cứ khiên cưỡng với việc duy trì trần lãi suất và còn hạ thấp nó xuống thêm trong các quý sau thì sẽ càng làm hệ thống ngân hàng ngày càng phụ thuộc vào cung tiền của NHNN để mở rộng tín dụng và hạ lãi suất cho vay, trong khi người gửi tiền ngày càng xa lánh với việc gửi tiền vào hệ thống ngân hàng. Kết cục của việc “khuyến khích” sự ly khai của dân chúng có tài sản khỏi VND như thế này tất nhiên là áp lực lạm phát sẽ tăng lên, và theo đó là tỷ giá cũng sẽ tăng lên (VND tiếp tục mất giá).

Nay thì nỗi lo trên của tác giả cũng đã được lặp lại bởi Giám đốc IMF Việt Nam khi nhận định vào ngày 13.3 rằng: “Việc hạ trần lãi suất huy động xuống 13% có thể khiến các ngân hàng nhỏ và yếu kém rơi vào tình thế khó khăn hơn. Họ không thể huy động vốn từ người gửi tiền dù lãi suất là 14%, cho thấy tình trạng yếu kém của họ. Với lãi suất tiền gửi 13%, họ sẽ thậm chí khó khăn hơn nữa. Điều đó sẽ đẩy họ thậm chí cần nhiều hơn hỗ trợ thanh khoản từ NHNN”.

Những phân tích trên cho thấy dường như NHNN hoặc không nhận thức được một cách đúng đắn và đầy đủ, hoặc đã quá đơn giản hóa và xem nhẹ những tác động chính sách tiêu cực của mình lên hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế. Rất mong lời cảnh tỉnh này đến được những địa chỉ cần đến.

Saturday 17 March 2012

Đúng như tớ nghĩ


Từ trước tới nay tớ vẫn nghi ngờ tính xác thực của các loại “thống kê” với “điều tra” của các loại cơ quan ở Việt Nam để cho ra được những con số đại loại như có 48.000 doanh nghiệp phá sản, đóng cửa, ngừng hoạt động v.v...

Tớ càng đặc biệt phản đối chuyện rất nhiều nhân vật tai to mặt nhớn có, mặt nhỏ cũng có dùng những con số này để minh họa cho cái chuyện gọi là nếu không có các giải pháp cứu trợ (điển hình là hạ lãi suất) thì cả nền kinh tế này sẽ nhanh chóng sụp đổ.

Nay thì đã có bàiviết này mà tác giả đã chỉ rõ ra cái sự nhập nhằng, vô lý trong những con số doanh nghiệp “phá sản” như thế này, với cái kết luận rất đúng rằng: “Nói như vậy để thấy, việc phá sản một DN không đơn giản và cơ quan chức năng cần phải có sự phân định rõ ràng về số lượng DN thuộc từng loại: phá sản, giải thể, ngừng hoạt động, tạm ngừng hoạt động, để tránh tác động tâm lý tới thị trường”.

Rất mong các ông bà mặt nhớn, mặt bé mà tớ nhắc đến bớt chút thời gian quý báu để đọc những bài thế này mà thôi ngay cái giọng kêu gọi thảm thiết (hộ) cho giới doanh nghiệp.

Friday 16 March 2012

Cân nhắc chủ trương Nhà nước mua lại bất động sản (Bai dang tren Dai bieu Nhan dan)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=240935

07:39 | 17/03/2012
Đề án 254 cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015 của Chính phủ, được ký ban hành ngày 1.3 vừa qua, tập trung cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng theo hướng lành mạnh, hiện đại, đồng thời khơi thông vốn tồn đọng nhằm giảm nhanh lãi suất. Một trong những giải pháp chính là xử lý nợ xấu như mua bán nợ. Theo ông Trần Hoàng Ngân, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, thì: “Nhà nước sẽ mua lại một số bất động sản để dùng vào mục đích an sinh xã hội. Khi những đồng vốn này được giải phóng, trở lại vòng quay tiền tệ sẽ tạo ra một lượng vốn mới để ngân hàng cho vay mà không cần tăng lãi suất huy động” (Tuổi trẻ, ngày 12.3).
    Cụ thể hóa hơn về chủ trương này, ông Ngân cho biết thêm rằng: “Nhà nước có thể mua lại một số căn hộ phù hợp với tái định cư cho các chương trình giải tỏa, ký túc xá, tái định cư... Phải làm chặt chẽ, từ khâu đánh giá nợ, tài sản, giá bán... Mục tiêu làm sao để đồng vốn của dân được dùng đúng mục đích, hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, vừa khơi thông được đồng vốn bị khê đọng”. Như vậy, có thể hiểu theo ý ông Ngân rằng mục đích chính của chủ trương này là dùng vốn ngân sách (cũng theo ông Ngân chỉ ra là gồm vốn từ trái phiếu Chính phủ hoặc từ vốn ODA) để mua lại (một phần) các công trình xây dựng bất động sản đang tồn đọng của các doanh nghiệp bất động sản để “giải cứu” các doanh nghiệp này khỏi tình cảnh tiến thoái lưỡng nan khi cùng lúc phải trả các chi phí để duy trì hoạt động trong khi không tiêu thụ được sản phẩm (là các công trình bất động sản). Việc giải cứu doanh nghiệp bất động sản này cũng có nghĩa là giải cứu các ngân hàng khi phải đối mặt với khả năng nợ xấu cho vay bất động sản tăng lên vì doanh nghiệp bất động sản khách hàng không bán được.
   Ý nghĩa việc làm này nghe rất to lớn nhưng rất tiếc lại không hợp lý. Một trong những nguyên nhân cho những khó khăn mà các doanh nghiệp bất động sản đang đối mặt chính là ở yếu tố giá bán vẫn còn quá cao so với kỳ vọng của thị trường và/hoặc so với giá trị thực tế. Lẽ ra, trong hoàn cảnh tiêu thụ sản phẩm chậm, các doanh nghiệp bất động sản phải tích cực giảm giá bán sản phẩm đến mức tối đa để kích thích nhu cầu mua của dân chúng. Lưu ý rằng vấn đề nằm ở chuyện giá cả chứ không phải là ở nhu cầu về nhà ở của dân chúng, khi mà cầu thật về nhà ở còn quá lớn so với khả năng cung hiện tại của thị trường.
    Thế nhưng, các doanh nghiệp bất động sản thì vẫn đang tìm mọi cách cầm cự, và chỉ có doanh nghiệp nào không trụ được nữa mới tuyên bố giảm giá bán bất động sản. Một ví dụ rõ nét là Công ty cổ phần Hoàng Anh Gia Lai mới đây trong thông báo về việc hãng xếp hạng tín dụng Fitch hạ triển vọng tín nhiệm của công ty xuống đã tiết lộ rằng họ “chưa gặp áp lực phải bán” vì “tin tưởng vào các nỗ lực của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong việc hạ lãi suất. Khi lãi suất giảm thì chắc chắn sức mua sẽ tăng lên và khi đó mới là thời điểm tốt để bán”.
    Như thế đã rõ rằng, các doanh nghiệp bất động sản thay vì giảm giá để tự cứu mình lại trông chờ, ỷ lại vào “chùm khế ngọt” là ngân sách nhà nước, là nguồn cung tiền từ NHNN nhằm giữ giá bất động sản ở mức có lợi nhất cho họ. Niềm hy vọng của họ gần như bao giờ cũng sẽ được đáp ứng trên thực tế bằng động thái chính sách này hay kia của Chính phủ, mà cụ thể là bằng chủ trương Nhà nước mua nhà theo Đề án 254, cũng như hành động giảm lãi suất mới đây của NHNN. Đây là một rủi ro đạo đức lớn cho cả nền kinh tế và sẽ tiếp tục được lặp lại, bất chấp những sai trái, bất hợp lý từ tất cả các bên liên quan (doanh nghiệp bất động sản, ngân hàng cho vay, NHNN). Hàm ý của điều này là sự giúp đỡ ngầm định của Nhà nước tiếp tục là “bà đỡ” cho các hoạt động bất cẩn, sai trái, rủi ro từ cả phía hoạch định chính sách và phía doanh nghiệp, và vì thế là nguồn gốc cho các bất ổn vĩ mô trong tương lai.
    Điều quan trọng hơn, Nhà nước sẽ phải bỏ tiền (của toàn dân) ra mua bất động sản với cái giá không giảm hoặc giảm không đáng kể so với giá trị thực, và hành động này tự nhiên chỉ làm lợi một cách bất công bằng cho các doanh nghiệp bất động sản, và tiếp đến là các ngân hàng cho vay. Còn dân chúng nói chung và cả nền kinh tế nói riêng sẽ chịu tổn hại đến từ một số kênh như sau.
1. Giá bất động sản sẽ tiếp tục đứng ở mức cao bất hợp lý, ngoài tầm với của nhiều gia đình có nhu cầu thực sự về nhà ở.
2. Ngân sách và các nguồn vốn của Nhà nước lẽ ra dùng cho các mục đích dân sinh lại bị đổ vào vực giá bất động sản, vực lợi nhuận cho một số nhóm lợi ích thiểu số.
3. NHNN phải tăng cung tiền (như đã và đang thực hiện như hiện nay) để cứu bất động sản thì áp lực lạm phát sẽ tăng, và hậu quả của nó là cả nền kinh tế sẽ gánh chịu. Còn thị trường bất động sản lại tiếp tục trải qua các cơn sốt đầu cơ khi các dòng tiền đầu cơ tiếp tục được nối lại.
4. Kể cả khi biện hộ rằng các bất động sản mua lại sẽ có một phần dùng cho nhà ở xã hội, thay vì phải chi tiền cho các doanh nghiệp xây nhà ở xã hội, việc này vẫn gây ra tổn thất chung vì các bất động sản tồn đọng, khó bán hiện nay thường là những bất động sản ở phân khúc trên phân khúc nhà tái định cư, nhà ở xã hội (ở cấp thấp), và tức là vẫn phải mua với giá cao hơn giá cần mua.
   Chủ trương trên còn tạo ra những bất hợp lý ngay cho cộng đồìng các doanh nghiệp bất động sản. Như trường hợp của Hoàng Anh Gia Lai cho thấy, không phải doanh nghiệp bất động sản nào cũng khó khăn, đang trên bờ vực phá sản. Việc giải cứu này sẽ tự nhiên làm lợi cho cả những doanh nghiệp lành mạnh khác, tương tự như kiểu cấp gạo cứu đói cho cả những hộ giàu ở các nơi có thiên tai. Đó là chưa kể sẽ có nhiều khuất tất, bất minh bạch trong việc tại sao Nhà nước lại mua bất động sản này mà không mua bất động sản kia, với giá này mà không phải là giá kia v.v… Mặc dù chắc chắn sẽ có một số quy định và tiêu chuẩn để thực hiện việc này nhưng thực tế chỉ ra rằng chúng đều có thể bị dễ dàng lách qua được.
    Mới chỉ phân tích sơ qua, chúng ta đã có thể thấy nhiều điểm bất hợp lý trong chủ trương trên. Điều này đòi hỏi các cơ quan hữu trách phải suy nghĩ 2 lần trước khi đi vào thực hiện.

Thursday 15 March 2012

Cần hoan nghênh đồng chí TS Lê Hồng Giang


Thỉnh thoảng tớ có đọc bài của đồng chí này, đa phần thấy đồng chí rất vững trình độ, suy nghĩ thấu đáo, viết đúng và tốt (giống tớ, thế mới chết chứ!), như những bài viết như thế này. Trừ một lần đọc bài gì đó có chi tiết liên quan đến đôla hóa. Đồng chí ấy có nói rằng đại loại đôla hóa không làm giảm tính hữu hiệu của chính sách tiền tệ thì phải, là cái ngược lại với hiểu biết của tớ nên chắc chắn là sai luôn! Nhưng thôi, đó chỉ là tiểu tiết vặt.

Nhân đây, tớ đề nghị các báo chí phải tăng cường hối thúc, đặt bài của đồng chí Giang để làm lợi cho nền kinh tế nước nhà. Tớ chẳng thấy có khuôn mặt nào ở Việt Nam đáng phải hoan nghênh như đồng chí Giang cả.

Đợi mãi mới có đồng chí Lê Xuân Nghĩa nói trúng ý tớ về chuyện bỏ trần lãi suất!


Trong bài trả lời phỏng vấn trên VEF hôm nay của đồng chí Nghĩa, tớ khoái mỗi cái đoạn này:

Bỏ trần lãi suất, khi đó ngân hàng khó khăn thanh khoản sẽ tăng lãi suất huy động. Tuy nhiên các ngân hàng này do cần tiền để đáp ứng cho thanh toán tiền gửi và các khoản nợ trên thị trường liên ngân hàng, sau khi huy động đủ sẽ dần hạ lãi suất xuống. Như vậy chỉ 1 thời gian ngắn các ngân hàng nhỏ sẽ hồi phục. Sự hồi phục ở đây là nhờ thị trường chứ không phải là nhờ sự hỗ trợ vốn từ ngân hàng Trung ương, dẫn đến áp lực cung tiền sẽ giảm”.

Khoái vì đơn giản là nó có ý giống với phát biểu của tớ trong bài “Bao giờ hạ lãi suất?” đăng ở đây. Tớ phục tớ quá!

Wednesday 14 March 2012

Ngất luôn với đồng chí Tiến sĩ này!

     Đồng chí TS tác giả của bài viết này xứng đáng được coi là một đại biểu xuất sắc cho những loại TS tớ nói đến trong bài “Tiến sĩ để làm gì?” ở trong blog này. Cụ thể, tớ có bình luận thế này:
     “…Hàng ngày, hàng tuần, có biết bao sự kiện, vấn đề quan trọng chỉ riêng trong lĩnh vực kinh tế thồi. Thế nhưng quanh đi quẩn lại chỉ có một số ít khuôn mặt và cái tên “thân thuộc” đến độ hầu như mở báo nào ra cũng thấy của một số ít người nói ra, viết ra. Và trong số đó có một số người là tiến sĩ.
     Lạ cái là, tức cái là một số trong họ (và một số tiến sĩ ít xuất đầu lộ diện khác) nói ra, viết ra có lúc thì như học sinh trả bài (nhưng không thuộc), lúc thì chung chung, chẳng chết ai nhưng cũng chẳng có ích cho ai, lúc thì sai lầm, ngớ ngẩn đến độ người dân bình thường cũng phải tự hỏi học ở đâu mà ra cái nông nỗi thế?”.
     Ừ nhỉ, tớ rất tò mò muốn biết đồng chí TS này học TS ở đâu ra nhi? Có ai biết không thì trả lời giùm tớ với.
---------------------------------
Cần chấm dứt biến động lãi suất để cứu nền kinh tế

Ngân hàng phải có biện pháp tích cực trong việc đưa ra mức trần về lãi suất huy động, Trung Quốc 3,25%; Thái Lan 2%, Mỹ 0,5%, Nhật 1% thì Việt Nam chỉ nên 5%/năm.

Tình hình tài chính hiện nay của các doanh nghiệp thật đáng lo ngại, thị trường chứng khoán buồn tẻ, nhiều sàn giao dịch chứng khoán rục rịch xin giải thể, giá cổ phiếu rớt thê thảm; Thị trường bất động sản có nguy cơ sụp đổ.

Sự siết chặt tín dụng và lãi suất tín dụng cao ngất ngưởng đã làm cho nhiều dự án đình đốn không dám tiếp tục triển khai. Nhiều căn hộ, nhiều căn nhà bán dưới giá gốc vẫn không có người mua.

Những người dân có nhu cầu mua nhà để ở, dành dụm mãi mới có 30% giá trị căn hộ, vay vốn ngân hàng 70% bây giờ đành trả lại nhà, chấp nhận mất tiền đặt gốc vì không thể trả vốn và lãi ngân hàng leo thang như thế.

Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hóa cũng lắc đầu ngao ngán khi quyết định đầu tư hoặc mở rộng nhà máy. Số đông doanh nghiệp thường sử dụng vốn tự có khoảng 25%, vay ngân hàng 75%, trong luận án khả thi của dự án ghi lãi vay vốn dài hạn 8%/năm, vốn lưu động 12%/năm. Hợp đồng tín dụng với NH có điều khoản 6 tháng điều chỉnh một lần.

Ai ngờ bây giờ lãi suất 20% (thậm chí 25%), chỉ một năm trả tiền lãi đã ngốn gần hết vốn tự có rồi, sản phẩm làm ra đội chi phí, giá thành quá cao, làm sao cạnh tranh nổi với thị trường? Chết thật rồi, chết đến nơi rồi…

Doanh nghiệp "chết" hệ lụy khó lường
̣̣̣̣̣
Ngân hàng huy động vốn trong dân là 14%/năm với lý do đảm bảo lãi suất thực dương do tình hình lạm phát. Trong thực tế huy động tín dụng của nhiều ngân hàng thực sự cao hơn 14%, vì thế cho vay thỏa thuận với các doanh nghiệp có nơi đến 22%/năm.

Vấn đề này tôi không đồng quan điểm với các ngân hàng về lãi suất thực dương vì tỷ giá USD so với VND năm 2010 có tăng lên từ 16.900 đồng đến 21.000 đồng/USD.

Nhưng từ đầu năm 2011 đến nay tỷ giá USD đã được kéo xuống còn khoảng 20.600 đồng/USD. Vậy tại sao lãi suất tiền gửi USD có 2%/năm mà lãi suất tiền đồng vẫn huy động ở mức 14%++/năm?

Điều tôi lo lắng cho cái chết báo trước là mặc dù lãi suất cao như thế mà doanh nghiệp vẫn vay, vì họ không còn con đường nào khác.

Đã lỡ vay rồi, đáo hạn nợ mà hàng hóa tồn đọng khó bán, không có tiền trả ngân hàng, nên phải vay khoản sau trả khoản trước cộng với tiền lãi. Nên họ cố cầm cự đến phút chót trông chờ vào một sự may mắn nào đó.

Ngân hàng biết rằng lãi suất huy động quá cao nhưng vẫn phải huy động để cho doanh nghiệp tiếp tục vay, doanh nghiệp mà chết thì ngân hàng làm sao đòi nợ, ngân hàng cũng chết.

Người dân gửi tiết kiệm bắt đầu nhìn vào cái gương “tham thì thâm” nên họ chia nhỏ tiền gửi nhiều nơi, gửi ngắn hạn để lỡ ngân hàng có làm sao thì rủi ro cũng ít. Vì thế gây ra sự thiếu vốn trên toàn hệ thống, lượng cung tiền không đáp ứng đủ cho yêu cầu về vốn cho doanh nghiệp.

Doanh nghiệp “chết” (nếu chỉ vài nơi thì là sự bình thường) nhưng “chết” hàng loạt sẽ có nhiều hệ lụy, nhà máy đóng cửa, công nhân mất việc làm, nhu cầu mua sắm giảm, cung sẽ vượt cầu, hàng hóa sẽ tồn đọng và xuống giá, tăng trưởng kinh tế sẽ thụt giảm, nhà nước sẽ thất thu thuế, an sinh xã hội sẽ là bài toán khó.

Những vấn đề xã hội hóa toàn dân về hạ tầng cơ sở, về giáo dục, y tế.. cũng sẽ rất khó vì phú quý sinh lễ nghĩa, doanh nghiệp khó khăn, cán bộ công nhân viên khó khăn lấy đâu ra tiền cho con ăn học tốt, chữa bệnh trong điều kiện tốt. Lại trở về thời kỳ thắt lưng buộc bụng…

Quan hệ cung cầu, có người “chết” sẽ có người hưởng lợi

Các doanh nghiệp đang cắt lỗ, bán tống hàng tồn kho, sản phẩm làm ra thì đội giá do chi phí lãi vay ngân hàng, do chi phí đẩy đầu vào nên không cạnh tranh nổi với hàng nhập khẩu cùng loại trong khu vực.

Nhiều doanh nghiệp sản xuất cầm chừng, nhiều doanh nghiệp chuyển đổi phương thức kinh doanh, nhập hàng từ các nước lân cận về bán vì giá thành hàng hóa của các nước này rẻ hơn do lãi suất của ngân hàng Trung Quốc chỉ có 3,25%/năm, Thái Lan là 2%/năm.

Vậy là khẩu hiệu Người Việt dùng hàng Việt chỉ là phong trào cho vui chứ không thực tế. Người dân thấy hàng hóa nào rẻ hơn, hợp túi tiền là mua. Những dự án bất động sản, doanh nghiệp đang cố gắng mời gọi đầu tư liên doanh để thoát ra tình trạng nợ nần.

Nhà đầu tư trong nước không còn khỏe thì mời nhà đầu tư nước ngoài và các cao ốc sẽ có nhiều người nước ngoài vào ở. Nhà nước lại phải lo nhiều chính sách cho người nước ngoài tạm cư ở Việt Nam. Phức tạp quá!!!

Giải pháp nào cho chúng ta?

Giải quyết các mâu thuẫn của các nhóm quyền lợi là bài toán khó, được mặt này, mất mặt kia.
Nhưng theo tôi, đơn giản nhất là ngân hàng phải có biện pháp tích cực trong việc đưa ra mức trần về lãi suất huy động, Trung Quốc 3,25%; Thái Lan 2%, Mỹ 0,5%, Nhật 1% thì Việt Nam chỉ nên 5%/năm.

Không thể suy nghĩ là lãi suất phải thật dương (so với lạm phát) vì: Yếu tố chính của lạm phát là đồng tiền nội tệ mất giá so với thị trường tiền tệ quốc tế. Tỷ giá USD so với VND từ cuối năm 2010 đến nay là không tăng (còn giảm một chút), Giá vàng tăng hay giảm là do quan hệ cung cầu, giá bất động sản tăng hay giảm là do quan hệ cung cầu (thực tế hiện nay là đang giảm).

Chỉ số giá tiêu dùng CPI chỉ là một chỉ số tham khảo chứ không thể xem là yếu tố chính của lạm phát. Giá tiêu dùng tăng hay giảm do yếu tố cung cầu hoặc do chi phí đầu vào tăng mà lãi suất ngân hàng cao là thủ phạm làm tăng giá thành sản xuất.

Lãi suất cao làm khó khăn cho sản xuất trong nước, trong khi nhu cầu tiêu dùng vẫn có, sẽ là thời cơ cho nhập khẩu hàng hóa dẫn đến tình trạng nhập siêu và nhu cầu lớn về ngoại tệ trong thanh toán hàng nhập khẩu sẽ là yếu tố chính làm tăng giá ngoại tệ chuyển đổi. Đây chính là tác nhân gây ra lạm phát.

Chúng ta chưa bao giờ tuyên bố chính thức là quan hệ “kim bản vị” hay “Đôla bản vị” trong thanh toán, mà đó chỉ là thói quen thanh toán trong dân gian mà thôi. Các chủ trương vừa qua của Ngân hàng Nhà nước là không Vàng hóa hay Đôla hóa trong thanh toán là một chủ trương đúng. Vậy thì Ngân hàng nên mạnh dạn đưa ra khung lãi suất trần tiền gửi là 5%/năm. Lãi suất trần cho vay là từ 6% đến 8%/năm tùy theo loại tín dụng dài hạn hay ngắn hạn. Và có biện pháp xử lý nghiêm minh với mọi sai trái dưới mọi hình thức trong việc huy động và cho vay của các ngân hàng thương mại.

Làm được việc này sẽ có kết quả:

Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế mà hoạt động kinh doanh có vay vốn sẽ thoát “chết oan”.
Doanh nghiệp không “chết” thì chắc chắn ngân hàng sẽ không “chết” vì họ không bị mất vốn. Ngân hàng huy động thấp, thì cho vay thấp, nhưng ngân hàng vẫn có lãi.

Người dân gửi tiết kiệm, trước đây ngân hàng huy động lãi suất thấp họ vẫn gửi, họ đã được hưởng lãi suất cao bất hợp lý trong thời gian qua rồi, giờ lãi suất thấp họ không thích gửi thì họ rút về. Họ không mất gì cả.

Lãi suất NH cao làm người dân trở nên lười tính toán, không muốn đầu tư SXKD hoặc mua cổ phiếu. Chính điều này làm cho nền kinh tế trì trệ và ảnh hưởng lớn tới thị trường chứng khoán.
Giảm lãi suất NH, giá hàng hóa và nhà đất sẽ giảm do chi phí giảm, người dân sẽ có điều kiện mua tốt hơn trong khả năng của họ.

Doanh nghiệp không chết thì nhà nước lại thu được thuế, lại chăm lo tốt an sinh xã hội cho dân, các dự án hạ tầng cơ sở lại được thực hiện

Điều quan trọng nhất là lực lượng lao động sẽ có việc làm, sẽ có thu nhập tốt. Họ chính là người tiêu thụ mạnh hàng hóa và nhà ở trong nền kinh tế..

TS. Nguyễn Thị Sơn

http://vnexpress.net/gl/ban-doc-viet/2012/03/can-cham-dut-bien-dong-lai-suat-de-cuu-nen-kinh-te/#aComment

Friday 9 March 2012

Hạ lãi suất VND - những nguyên nhân và tác động (Bai dang tren Dai bieu Nhan dan)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=240130

07:53 | 09/03/2012

Trong cuộc họp Chính phủ thường kỳ ngày 6.3, Thủ tướng đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phải hạ lãi suất tín dụng VND. Để cụ thể hóa chỉ thị này, NHNN cho biết sẽ sớm hạ mặt bằng các mức lãi suất của mình xuống thêm 1%. Theo đó, trần lãi suất huy động VND của các tổ chức tín dụng cũng sẽ được hạ 1%. Nói cách khác, cả Chính phủ và NHNN đã chính thức công khai chủ trương nới lỏng chính sách tiền tệ thông qua bơm tiền vào hệ thống ngân hàng, với thời gian thực hiện chỉ còn tính theo ngày.

Lý giải cho chủ trương hạ ngay lãi suất tín dụng, Chính phủ và NHNN đưa ra 2 lý do chính. Thứ nhất, tình hình thanh khoản của các ngân hàng đã được cải thiện. Thứ hai, lạm phát và kỳ vọng lạm phát đã giảm rõ nét trong thời gian qua. Như vậy, cả điều kiện cần (lạm phát giảm) và điều kiện đủ (thanh khoản ngân hàng được cải thiện) đã được thỏa mãn, làm cơ sở vững chắc cho việc giảm lãi suất tín dụng.

Khách quan mà nói, lạm phát đã có xu hướng giảm tốc rõ rệt, và có thể coi đây là kết quả chủ yếu của động thái thắt chặt (hơn) chính sách tiền tệ của NHNN trong năm 2011. Nhưng xu hướng giảm tốc của lạm phát này không tự động dẫn tới, hay nói cách khác, là không đồng nghĩa với việc lạm phát trong những tháng còn lại của năm 2012 cũng sẽ tiếp tục xu hướng giảm tốc như vậy. Tác động tích cực và trễ từ chính sách tiền tệ thắt chặt hơn của NHNN trong năm trước sẽ có thể nhanh chóng (và quá mức) bị trung hòa cũng bởi chính chính sách tiền tệ nới lỏng của NHNN trong thời gian tới. Vì vậy, sẽ là rất chủ quan, khiên cưỡng và quá sớm khi nhận định rằng lạm phát năm nay chỉ ở mức dưới 10%, nếu không đặt nó bên cạnh một điều kiện đủ nữa là NHNN phải rất thận trọng và hạn chế trong việc tăng cung tiền.

Về lý do thứ hai, thanh khoản được cải thiện, có thể kết luận luôn rằng đây là kết quả trực tiếp của việc NHNN bơm tiền ra để “cứu” thanh khoản của hệ thống, chứ không phải là kết quả tương tác của các lực lượng thị trường. Nếu không phải vậy, thanh khoản làm sao có thể cải thiện được trong bối cảnh tái cơ cấu ngân hàng – công cụ chính, theo NHNN, để xử lý vấn đề căng thẳng thanh khoản – vừa mới chỉ bắt đầu bằng việc sáp nhập 3 ngân hàng nhỏ, yếu kém, cuối tháng 12 năm trước, và lãi suất huy động thì vẫn bị không chế?

Có thêm 2 bằng chứng rõ nét hơn để bổ trợ cho kết luận này. Bằng chứng thứ nhất là việc NHNN tiết lộ: “... sẽ điều phối cung ứng tiền trong thời gian tới theo hướng tạo ra nguồn vốn để các tổ chức tín dụng có thể sử dụng để cho vay được. Vừa rồi chúng ta mới chủ yếu giải quyết vấn đề thanh khoản, có nghĩa là những vấn đề ngắn hạn, cho nên qua thị trường mở của ngân hàng thì kỳ hạn chỉ có 7 đến 14 ngày. Với kỳ hạn ngắn như vậy chỉ có thể giải quyết được thanh khoản cho các tổ chức tín dụng. Trong các chương trình tái cấp vốn sắp tới, kỳ hạn của chúng tôi có thể tăng lên, thậm chí đến 3 tháng, 6 tháng, tạo ra cú hích ban đầu cho các tổ chức tín dụng có nguồn vốn để đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng”. Như thế này, NHNN không những đã thừa nhận rằng cung tiền từ NHNN là yếu tố chủ yếu cứu thanh khoản mà còn tiết lộ rằng cung tiền từ NHNN cũng sẽ là nguồn vốn chủ yếu để cho hệ thống ngân hàng thương mại mở rộng tín dụng và hạ lãi suất cho vay trong thời gian sắp tới.

Bằng chứng thứ hai cũng xuất phát từ một tiết lộ của NHNN liên quan đến chuyện tăng dự trữ ngoại hối lên tới 20% trong tháng 2 so với cuối năm trước: “NHNN mua vào ngoại tệ thì đồng thời đẩy ra thị trường một lượng lớn tiền Việt Nam, và khối lượng tiền này không có kỳ hạn, cũng là một dòng vốn nữa cung cấp cho thị trường”. Với ước đoán dự trữ ngoại hối của Việt Nam vào khoảng trên 15 tỷ USD đến cuối năm 2011 thì con số ngoại hối tăng lên trong 2 tháng vừa qua sẽ vào khoảng 3 tỷ USD, cũng đồng nghĩa với việc NHNN đã tung ra thêm khoảng 60 nghìn tỷ VND để thu mua ngoại tệ và tất cả số này đã đi vào lưu thông, hỗ trợ đáng kể thanh khoản và giảm lãi suất tín dụng trong hệ thống ngân hàng.

Tóm lại, mặt bằng lãi suất tín dụng đã có dấu hiệu hạ và thanh khoản đã dồi dào hơn chỉ là kết quả chủ yếu của hành động nới lỏng chính sách, tăng cung tiền của NHNN. Trong bối cảnh triển vọng lạm phát trong thời gian tới sẽ phụ thuộc chủ yếu (như thường lệ) vào mức độ nới lỏng tiền tệ của NHNN, việc nới lỏng chính sách tiền tệ như đã qua và sắp tới của NHNN nhằm kích thích tăng trưởng sẽ dẫn đến một kết cục không thể khác là một chút tăng trưởng thêm sẽ được đánh đổi bằng nhiều hơn thế áp lực lạm phát (vì còn phải cộng thêm cả kỳ vọng lạm phát). Một rủi ro chính từ đây sẽ là nếu Chính phủ nói chung và NHNN nói riêng quá mải mê với việc “vực” lại khu vực doanh nghiệp được cho là đã bị tổn hại nặng nề bởi chính sách tiền tệ thắt chặt của NHNN trong thời gian qua bằng chính sách tiền tệ nới lỏng quá mức của mình thì lạm phát cao sẽ nhanh chóng quay trở lại.

Nhân đây, cũng cần nói thêm đôi điều về hành động hạ trần lãi suất (sắp tới) của NHNN. Thủ tướng có chỉ đạo hạ lãi suất tín dụng tức lãi suất cho vay, chứ không phải lãi suất huy động. Như thế, việc NHNN “tự giác” muốn hạ trần lãi suất huy động xuống còn 13% là một hành động vừa không “trúng” (trừ khi Thủ tướng cũng muốn nói là phải hạ cả lãi suất huy động), vừa không cần thiết/thích hợp. Nói không cần thiết/thích hợp vì trần lãi suất chỉ là một công cụ hành chính, chứ không phải là công cụ điều hành chính sách tiền tệ truyền thống của NHNN. Để hạ lãi suất tín dụng (cho vay), NHNN chỉ cần thực hiện các công cụ chính sách tiền tệ truyền thống của mình như thị trường mở, tái cấp vốn, tái chiết khấu, và dự trữ bắt buộc là quá đủ để tăng cung tiền, làm cơ sở hạ lãi suất cho vay thương mại.

Nếu NHNN cứ khiên cưỡng với việc duy trì trần lãi suất và còn hạ thấp nó xuống thêm (theo chủ trương là mỗi quý hạ đi 1 điểm phần trăm) thì sẽ dẫn đến một khả năng là hệ thống ngân hàng ngày càng phụ thuộc vào cung tiền của NHNN để mở rộng tín dụng và hạ lãi suất cho vay, trong khi người gửi tiền ngày càng xa lánh với việc gửi tiền vào hệ thống ngân hàng. Kết cục của việc “khuyến khích” sự ly khai của dân chúng có tài sản khỏi VND như thế này tất nhiên là áp lực lạm phát sẽ tăng lên, và theo đó là tỷ giá cũng sẽ tăng lên (VND tiếp tục mất giá).

Cũng nhân đây xin được lên tiếng cảnh báo một nguy cơ khác là sự sống lại của chủ trương “kích cầu”, “hỗ trợ lãi suất” trong tình hình hiện tại, vốn là một trong những thủ phạm chính gây ra những bất ổn kinh tế vĩ mô nghiêm trọng trong mấy năm qua. Chúng ta sẽ quay trở lại với đề tài này khi nào có dấu hiệu các chính sách này được làm sống lại.

Friday 2 March 2012

Phương án hạ lãi suất của VAFI không hợp lý (Bai dang tren Dai bieu Nhan dan; dong chi bien tap da rat xuat sac cat giam cua to hon 300 chu ma dai de la to van nhan ra duoc bai cua minh!)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=239547

07:27 | 03/03/2012

Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI) vừa có văn bản gửi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đề xuất 3 phương án giảm lãi suất cho vay. Cả 3 phương án này đều chứa đựng nhiều mâu thuẫn và bất cập.

Lập luận cảm tính

Để dẫn giải đến 3 phương án này, VAFI đã đưa ra một số nhận định làm nền cho lập luận cần phải nhanh chóng hạ lãi suất cho vay.

Theo dự báo của VAFI, trong 7 năm tới sẽ diễn ra tiến trình thặng dư về cán cân thanh toán, nhập siêu sẽ giảm dần và tiến tới Việt Nam trở thành quốc gia xuất siêu. Lập luận này được đưa ra dựa trên cơ sở phân tích dòng vốn FDI và xu hướng đầu tư của các doanh nghiệp trong nước. Theo đó, dòng vốn FDI vẫn tiếp tục vào Việt Nam ở mức bình quân 12 tỷ USD/năm, con số này không đạt đỉnh cao như các năm trước, tuy nhiên sẽ là không nhỏ nếu so với nhiều nước trên thế giới. Dòng vốn FDI sẽ chảy nhiều vào các ngành có lợi thế xuất khẩu. Việt Nam tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu ở mức 10%/năm. Nhiều dự án trong nước thay thế hàng nhập khẩu đã và sẽ tiếp tục ra đời như xi măng, sắt thép, phân bón, các sản phẩm hóa dầu, tiêu dùng... sẽ góp phần làm giảm nhập siêu.

Có thể đúng là FDI sẽ tiếp tục vào Việt Nam ở mức khả quan (so với thế giới) nhưng điều này không hề đồng nghĩa với FDI sẽ “chảy nhiều” vào các ngành có lợi thế xuất khẩu. Nếu VAFI tiến hành phân tích cơ cấu ngành mà FDI đổ vào Việt Nam trong hơn 2 thập kỷ qua thì sẽ thấy một bức tranh khác với nhận định này. Quan trọng hơn, FDI chỉ là một trong những nguồn vốn cho tăng trưởng của Việt Nam, bên cạnh vốn tư nhân trong nước, vốn của doanh nghiệp nhà nước, vốn của Chính phủ. Chính những nguồn vốn trong nước này mới là yếu tố quyết định nền kinh tế Việt Nam là nhập siêu hay xuất siêu, bên cạnh thực tế là bản thân khối doanh nghiệp FDI cũng đang ở mức ngấp nghé giữa nhập siêu hay xuất siêu. Vậy, có thể suy ra luôn rằng nhận định của VAFI rằng trong 7 năm nữa Việt Nam sẽ thành xuất siêu nhìn từ góc độ FDI là vô căn cứ.

Theo lập luận của VAFI, đầu tư tài sản cố định của doanh nghiệp đang ở giai đoạn cuối, theo đó, thời kỳ bùng nổ đầu tư bắt đầu từ năm 2006, 2007, 2009, giảm dần từ 2010, 2011. Đầu tư của cộng đồng doanh nghiệp sẽ thấp đi do đã xuất hiện tình trạng dư thừa năng lực sản xuất tại nhiều ngành kinh tế. Trong giai đoạn tới, cộng đồng doanh nghiệp sẽ chuyển sang đầu tư cho chiều sâu là chủ yếu, và như vậy tỷ trọng nhập khẩu tài sản cố định sẽ giảm đi nhiều, góp phần đáng kể giảm nhập siêu.

Lập luận trên của VAFI là cảm tính và thiếu logic. Thứ nhất, VAFI phải chứng minh được rằng “xuất hiện tình trạng dư thừa năng lực sản xuất tại nhiều ngành kinh tế” là tình trạng có tính dài hạn chứ không phải nhất thời (trong thời điểm NHNN thắt chặt chính sách tiền tệ). Thứ hai, “đầu tư cho chiều sâu” vẫn hoàn toàn có thể làm tăng (mạnh) tài sản cố định của doanh nghiệp chứ không đơn giản như theo cách hiểu của VAFI. Doanh nghiệp sẽ làm gì với “đầu tư chiều sâu” nếu không đầu tư vào thiết bị, máy móc hiện đại hơn có năng suất cao hơn và/hoặc sản xuất ra những sản phẩm tốt hơn, có giá trị gia tăng cao hơn? Thứ ba, “đầu tư chiều sâu” không có nghĩa là dẫn đến giảm nhập khẩu. Cứ cho là nhập khẩu “tài sản cố định” sẽ giảm đi, nhưng nhập khẩu cho những thứ có liên quan như công nghệ mới, vật liệu mới... để chuyển sang phát triển “chiều sâu” sẽ tăng lên, chưa kể nhu cầu nhập khẩu máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên vật liệu cho những ngành sản xuất hiện tại không nhất thiết giảm đi khi cầu các sản phẩm của chúng vẫn tăng lên theo đà tăng trưởng của nền kinh tế. Nói cách khác, tình trạng dư thừa năng lực sản xuất nếu chỉ là nhất thời thì sẽ không nhất thiết dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư (sang “đầu tư chiều sâu”); và sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư này, nếu có, cũng không nhất thiết dẫn đến giảm nhập siêu. Như vậy, mệnh đề thứ hai của VAFI làm nền cho nhu cầu cấp bách hạ lãi suất cho vay (nói thêm dưới đây) cũng là vô căn cứ.

Đề xuất không khả thi

Tiếp theo, xin được bàn đến tính đúng đắn, khả thi của 3 phương án mà VAFI đưa ra.

Phương án thứ nhất, NHNN chỉ đạo các ngân hàng thương mại nhà nước hạ dần lãi suất cho vay, từ đó lan tỏa đến các ngân hàng thương mại cổ phần khác.

Có thể thấy ngay một bất cập trong phương án này là NHNN chỉ đạo các ngân hàng hạ lãi suất cho vay. Nếu lạm phát vẫn ở mức cao (16,5% tháng 2), trần lãi suất huy động vẫn còn đó, trong khi NHNN không muốn bơm tiền ra, làm cho thanh khoản hệ thống ngân hàng vẫn căng thẳng thì các ngân hàng thương mại lấy đâu ra vốn để cho vay với lãi suất thấp hơn?

VAFI “thòng” thêm một câu: “Đồng thời, theo tín hiệu của chỉ số giá tiêu dùng và thị trường liên ngân hàng, NHNN thực hiện bơm tiền ở liều lượng thích hợp và cuối cùng sẽ điều chỉnh trần lãi suất huy động”. Nếu NHNN bơm tiền “theo tín hiệu của chỉ số giá tiêu dùng”, vậy thì, theo logic, với mức CPI vẫn ở con số 16,5% như hiện nay, tại sao NHNN phải bơm tiền? Nếu nói rằng CPI đang có xu hướng tăng chậm lại, vậy thì hãy chờ nó xuống dưới một ngưỡng an toàn nào đó (chắc chắn không phải ở mức 2 con số) thì hãy nới cung tiền mới đúng chứ? Sao lại cứ đòi phải hạ ngay lãi suất tại thời điểm này?

Về phương án hai, NHNN nên giảm ngay lãi suất huy động đối với tổ chức xuống 11%/năm. Theo đó, việc giảm ngay lãi suất với đối tượng này sẽ không ảnh hưởng đến trật tự huy động vốn của hệ thống ngân hàng thương mại, cũng như không tác động tới thị trường ngoại tệ. Mặt khác, NHNN đặt ngay trần lãi suất cho vay không quá 18%/năm, sau đó, theo tín hiệu thị trường giảm dần lãi suất tiền gửi của dân cư, và hạ tiếp trần lãi suất cho vay.

Cần lưu ý rằng, việc đặt trần lãi suất huy động đối với tổ chức xuống 11% và việc huy động được từ các tổ chức này với lãi suất dưới 11% là 2 việc khác nhau, vì, cũng như với tiền gửi huy động từ cá nhân, các ngân hàng sẽ tìm cách “lách”, nâng lãi suất huy động thực tế để huy động từ các tổ chức khi mà cơn khát vốn đòi hỏi phải làm vậy. Còn các tổ chức cũng có xu hướng tìm những ngân hàng chào lãi suất cao hơn để gửi.

Điều tương tự cũng sẽ đúng với trần lãi suất cho vay, khi mà các ngân hàng sẽ có cách để buộc doanh nghiệp phải trả thêm mới được vay khi mà chi phí vốn đầu vào vẫn cao, còn doanh nghiệp buộc phải chấp nhận vay với lãi suất cao hơn vì không còn lựa chọn nào khác. Ngoài ra, trần lãi suất cho vay còn có một khiếm khuyết lớn là nó phá vỡ nguyên tắc tín dụng là lãi suất được tính theo mức độ rủi ro của doanh nghiệp. Với những doanh nghiệp rủi ro lớn hơn mà vẫn được vay với mức lãi suất tối đa cũng chỉ bằng những doanh nghiệp khác có rủi ro nhỏ hơn, chắc không mấy ngân hàng dám cho vay. Kết cục là tuy lãi suất cho vay trên danh nghĩa có giảm đi nhưng sẽ có nhiều doanh nghiệp vẫn không tiếp cận được với vốn vay.

Phương án ba, nghị định về quản lý kinh doanh vàng cần sớm được ban hành vì nó có tác động tích cực đến bình ổn thị trường ngoại hối. Điểm mấu chốt của Nghị định là sẽ ban hành chính sách thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hoạt động kinh doanh vàng. Theo phân tích của VAFI, nếu Nhà nước sớm công bố chủ trương thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt với hoạt động kinh doanh vàng ở mức 20% trên giá bán thì đây sẽ là giải pháp đột phá để hạ lãi suất cho vay về dưới 10%/năm. Hiệu quả của giải pháp này là nhanh chóng kích thích thị trường chứng khoán cũng như thị trường trái phiếu phục hồi và phát triển. Cùng với đó hệ thống ngân hàng sẽ có cơ hội huy động nguồn vốn dài hạn. Mặt khác, giải pháp này không những ngăn chặn tình trạng chảy máu ngoại tệ mà nguồn ngoại tệ, nguồn vàng trong dân sẽ chảy vào hệ thống ngân hàng thương mại một cách dễ dàng.

Không hiểu VAFI nhìn nhận mối quan hệ giữa việc áp dụng những loại thuế này (với ngụ ý sẽ buộc nhà đầu tư chuyển hướng đầu tư từ vàng sang trái phiếu và chứng khoán), với việc giảm lãi suất cho vay. Mối quan hệ này thậm chí còn diễn ra trái với mong muốn của VAFI. Ví dụ, chứng khoán (và kể cả trái phiếu) tăng trưởng quá nóng sẽ kích thích đi vay ngân hàng để đầu tư vào chứng khoán, hoặc thu hút hết nguồn vốn lẽ ra đem gửi vào ngân hàng. Cả 2 khả năng này đều làm tăng lãi suất huy động và cho vay. Ngoài ra, nếu xiết được việc đầu cơ kinh doanh vàng thì rất có thể bất động sản lại nóng lên, lại thu hút các nguồn vốn vào đó với hậu quả tương tự như khi chứng khoán nóng lên.

Thêm nữa, vàng và ngoại tệ chảy vào hệ thống ngân hàng cũng không đồng nghĩa với lãi suất cho vay VND hạ đi, vì lãi suất cho vay VND phụ thuộc vào cung VND chứ không phải cung ngoại tệ hay vàng (kể cả từ hệ thống ngân hàng). Kể cả nếu VAFI nói đến lãi suất cho vay bằng vàng hoặc ngoại tệ, chuyện huy động được vàng hoặc ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng cũng không đồng nghĩa với việc giảm lãi suất cho vay bằng vàng hoặc ngoại tệ vì lãi suất này phụ thuộc vào nguồn cung vàng và ngoại tệ trong cả nền kinh tế (là cái sẽ khó thay đổi chỉ với giải pháp áp thuế kinh doanh như trên), chứ không phải chỉ từ hệ thống ngân hàng, vì hệ thống ngân hàng chỉ là kênh trung chuyển từ nơi cung đến nơi cầu.

Tóm lại, cả 3 phương án hạ lãi suất cho vay của VAFI đều chứa đựng nhiều mâu thuẫn và bất cập. Trên hết, VAFI dường như vẫn chưa nhận thức được đầy đủ những trở ngại xung quanh việc hạ lãi suất tại thời điểm này (lạm phát vẫn cao, áp lực gia tăng trở lại lạm phát khi NHNN bơm tiền, tình trạng thanh khoản ngân hàng vẫn căng thẳng, tính phi hiệu quả của các giải pháp hành chính như trần lãi suất cho vay hoặc huy động v.v...).

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).