Monday 28 May 2012

Những quan điểm này liệu có đất sống?

UBKTQH trong một động thái khá là bất ngờ với tớ đã nhấn mạnh không thể tiếp tục xem DNNN là công cụ điều tiết vĩ mô. Nói khá bất ngờ vì UBKT xem ra đang “chơi” cái quan điểm được lặp lại của đảng về vai trò chủ đạo của các DNNN (trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa), mặc dù có thể không phải là một hành động “cố ý”.

Có thể UBKT sẽ “bào chữa” rằng quan điểm nhấn mạnh trên của mình chỉ là để tước bỏ cái lý do “ổn định kinh tế vĩ mô” của DNNN để biện minh cho các khoản thua lỗ khổng lồ, buộc các DNNN tập trung vào hoạt động kinh tế như một doanh nghiệp đơn thuần chịu sự chi phối của các lực lượng và nguyên tắc thị trường như các doanh nghiệp khác.
Tuy nhiên, nếu tước bỏ cái lý do trên thì DNNN chẳng còn cớ gì để vẫn đóng được vai “chủ đạo” trong nền kinh tế thị trường mang mầu sắc Việt Nam cả. Để có thể điều tiết được kinh tế vĩ mô thì có nghĩa là quy mô và sự lấn lướt của DNNN trong toàn bộ nền kinh tế phải ở mức độ rất lớn (đúng nghĩa là chủ đạo) đủ để mỗi một hành động can thiệp vào thị trường của chúng có ảnh hưởng rõ rệt lên các cán cân thị trường theo chủ ý của nhà nước. Bị tước mất cái vai trò này, xem ra tương lai của DNNN bỗng nhiên trở nên “tầm thường” hơn hẳn!

Mà như thế có nghĩa rằng UBKT đang chủ trương một cuộc cách mạng “mini” về quan điểm xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó DNNN chỉ đóng một vai trò “không phải là chủ đạo”. Xem ra cái quan điểm này hơi... khó nuốt ở Việt Nam đây.
Tuy nhiên, UBKT vô tình hay cố ý thì tớ chỉ thấy khá bất ngờ thôi (vì xem ra điều này nếu có thật như tớ suy diễn thì mới chỉ là “một cơn bão trong chén chè”, rồi mọi việc lại đâu vào đấy). Điều đáng nói hơn với tớ là UBKT đề nghị “chỉ cho phép duy trì các tập đoàn theo nguyên tắc “bốn có ba không”. Bốn có gồm duy trì doanh nghiệp có phục vụ quốc phòng, an ninh; lĩnh vực tạo ra hàng hóa cực kỳ thiết yếu cho nền kinh tế; ngành có áp dụng công nghệ mới nhiều rủi ro; ngành đặc thù như chất độc, thuốc lá, rượu... Ba không là: “không đầu tư vào những ngành vì lợi nhuận đơn thuần; không đầu tư vào những ngành vì địa tô đơn thuần; không đầu tư tạo ra doanh nghiệp cạnh tranh không bình đẳng với các thành phần kinh tế khác cùng ngành, cùng lĩnh vực”.

UBKT cũng đề nghị: “tiếp tục áp đặt các nguyên tắc và kỷ luật thị trường, tăng trách nhiệm giải trình với DNNN nói chung và người đại diện chủ sở hữu, cán bộ quản lý chủ chốt của DNNN nói riêng. Doanh nghiệp bị thua lỗ ngoài dự kiến kế hoạch, hoặc không đạt được các mục tiêu kế hoạch, thì giám đốc, tổng giám đốc đương nhiên bị miễn nhiệm...
Các nội dung của 2 cái đề nghị trên của UBKT xem ra khó mà có thể cùng đi chung một con đường. Với doanh nghiệp, đã áp đặt các nguyên tắc và kỷ luật thị trường thì có nghĩa là doanh nghiệp đó được yêu cầu phải hoạt động có lợi nhuận. Nhưng những lĩnh vực thuộc loại “bốn có” nói trên xem ra rất “xương xẩu” cho một doanh nghiệp nhà nước nào đó, mà nếu không có ưu đãi, “cơ chế riêng”... thì cầm chắc chẳng DNNN nào có thể đáp ứng được tiêu chuẩn vừa duy trì được hoạt động và lớn mạnh, vừa có hiệu quả và có lãi.

Hơn nữa, cái đề nghị thứ hai (áp đặt các nguyên tắc kỷ luật thị trường, tăng trách nhiệm giải trình, không đạt mục tiêu kế hoạch thì tổng giám đốc bị miễn nhiệm...) hình như hơi... quen quen với tớ, vì có lẽ nó đã được nhắc đến có khi cả hàng hơn một thập kỷ trước chứ chẳng chơi! Mà kết quả như thế nào thì chẳng cần phải nói ai cũng biết.
Tóm lại, mấy cái quan điểm, đề xuất trên của UBKT trước tiên xem ra là một bước đi mang tính “cách mạng mini” (từ phạm húy!), và thứ hai là một đề xuất vừa “chơi khó” (doanh nghiệp) nhà nước, vừa hơi bị... cũ! Chính vì thế nên tớ rất nghi ngờ tính hiện thực của chúng!

Friday 25 May 2012

“Nhà nước chỉ được làm những gì luật pháp cho phép” = “Nhà nước được phép làm những gì luật pháp không cấm”?

Sau khi một phiên bản của entry bình luận về bài viết của 2 tác giả Vũ Quang Việt và Nguyễn Sĩ Dũng (với tiêu đề “Đọc báo giùm bạn”) được phổ biến trên Dân Luận, tớ đã phải tiêu mất gần cả tuần qua để “chiến đấu” với dư luận ở đó. Vấn đề tranh luận chủ yếu xoay quanh câu của đồng chí Dũng rằng “nhà nước chỉ được làm những gì luật pháp cho phép” bị tớ hiểu thành: “Nhà nước được phép làm những gì pháp luật không cấm”.

Dưới đây là một phần tóm tắt kết luận mà tớ đã đưa ra ở Dân Luận để chứng minh luận điểm của mình. Đúng sai thế nào mời các đồng chí bạn đọc ở đây tranh luận, nếu muốn. Lưu ý rằng trên Dân Luận, cuộc tranh luận rất dài, đề cập đến nhiều chi tiết, nhiều trường hợp, nên để tránh trùng lặp, mong các đồng chí ghé qua đó xem trước rồi hãy tranh luận ở đây.

http://danluan.org/node/12629#comment-59092

------------------------------------------

Nhiều người có hiểu biết về pháp luật đều biết đến nguyên tắc: “Nhà nước chỉ được làm gì pháp luật cho phép”, và họ còn nhấn mạnh rằng “Nhà nước không được làm bất cứ việc gì khác (ngoài những việc pháp luật cho phép)”.

Như chúng ta đã biết, có nhiều trường hợp nhà nước lách luật có thật trên thế giới mà cuối cùng dẫn đến sửa luật, hiến pháp.

Có thể nói luôn rằng khi đã phải sửa luật và hiến pháp có nghĩa là cho đến thời điểm trước khi sửa thì các trường hợp lách luật của nhà nước là hợp pháp, được phép. Nói cách khác, điều này chứng tỏ rằng nhà nước trên thực tế đã làm những việc pháp luật không quy định/không cấm, không có trong văn bản về chức năng và nhiệm vụ của nhà nước v.v... và KHÔNG BỊ COI LÀ PHẠM LUẬT.

Có người nói đây chỉ là những ngoại lệ, số ít. Đương nhiên là vậy vì pháp luật càng ngày càng chặt chẽ, rõ ràng hơn, nên hành vi lách luật, làm những điều pháp luật KHÔNG CẤM nhưng lại không phạm vào những điều pháp luật KHÔNG CHO PHÉP càng ngày càng khó hơn, ít hơn về số lượng.

Dù vậy, ngay cả coi là ngoại lệ, thiểu số, thì chuyện lách luật hợp pháp thành công này vẫn là một minh họa cho nguyên tắc tôi rút ra: "(Trên thực tế) nhà nước được làm gì pháp luật không cấm".  Và như thế, rõ rằng rằng cái nguyên tắc bất di bất dịch của nhiều người: "Nhà nước chỉ được làm những gì luật cho phép. (Ngoài ra nhà nước không được làm bất cứ điều gì khác)" đã bị vi phạm, và chuyện “vi phạm” này buộc phải bị công nhận, được chấp nhận (trên thực tế).

Nói đơn giản theo kiểu khác, nếu nguyên tắc chính thống trên không bị vi phạm (một cách hợp pháp) bao giờ, thì người ta lý giải thế nào cho sự tồn tại của những trường hợp lách luật hợp pháp của nhà nước và dẫn đến phải sửa luật cho tương thích? Đây là một câu hỏi rất nghiêm túc, mong những ai không đồng ý với tôi trả lời giúp.








Thursday 17 May 2012

Bài này không phải của tớ!

Tớ trả lời phỏng vấn báo Tiền Phong về chuyện tái cơ cấu. Nhưng trả lời một đằng, Tiền Phong đăng một nẻo, thậm chí ngược lại với ý tớ. Tớ thấy cần phải post ra đây để tự thanh minh cho bản thân, để nhỡ có đồng chí nào đọc bài trên báo lại quay ra cười tớ ngớ ngẩn.

Bài trên Tiền Phong
Ngân hàng Việt Nam: ‘Đông nhưng không khỏe’

TPO - Phân tích thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng trong thời gian qua chỉ ra rằng, mặc dù đóng vai trò lưu thông tiền tệ cho toàn bộ nền kinh tế, song ngân hàng Việt Nam “đông nhưng không khỏe”.

Nhiều chuyên gia phân tích kinh tế về nhận định xu thế sáp nhập ngân hàng Việt Nam, cho rằng, quá trình mua bán sáp nhập doanh nghiệp (M&A) ngành ngân hàng sẽ diễn ra sôi nổi và kịch tính hơn trong năm tới.

PV Tiền Phong đã có cuộc phỏng vấn Tiến sỹ Phan Minh Ngọc, Phó Giám đốc Phòng Nghiên cứu doanh nghiệp, Ngân hàng Sumitomo, chi nhánh Singapore, về hoạt động M&A ngành ngân hàng Việt Nam thời gian qua.

- TS nhìn nhận thế nào về xu hướng sáp nhập của các ngân hàng Việt Nam hiện nay?

Có ý kiến cho rằng, quá nhiều ngân hàng trong một nền kinh tế nhỏ như Việt Nam nên không cần thiết phải để tồn tại một số lượng ngân hàng lớn như vậy.

Một lý do khác nữa là các ngân hàng nhỏ (và thường cho rằng đi đôi với yếu kém) là nguyên nhân gây ra thiếu hụt thanh khoản, làm lãi suất tăng cao, vì các ngân hàng này lâm vào tình trạng “giật gấu vá vai”, phải bằng mọi cách lách trần lãi suất huy động để thu hút vốn đáp ứng nhu cầu thanh khoản của họ.

Thế nhưng, kết quả sáp nhập ngân hàng còn rất khiêm tốn, với chỉ 1 vụ sáp nhập 3 ngân hàng cùng yếu như nhau trong quý 1-2012, và 1 vụ khác mới hồi đầu tháng này (Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB) sáp nhập với ngân hàng Habubank (HBB) – PV) . Trong khi đó thì lãi suất đã được chủ động hạ xuống bằng nhiều biện pháp của NHNN, mà thanh khoản vẫn còn thiếu hụt cục bộ.

Một lý do rất chung chung nữa rằng những ngân hàng nhỏ yếu này là nguyên nhân gây ra bất ổn cho hệ thống nên cần thiết phải sáp nhập để làm trong sạch và lành mạnh hóa hệ thống.

Theo tôi, hai vụ sát nhập đã xảy ra chỉ là giữa các ngân hàng sàn sàn, cùng tầm như nhau nên thực ra không có tác dụng tích cực gì nhiều. Thay vào sáp nhập thì biện pháp tái cơ cấu từng ngân hàng có vẻ là hợp lý hơn.

- Có ý kiến cho rằng, sau các vụ sáp nhập vừa qua, đã đến lúc Việt Nam cần thực hiện việc tái cơ cấu toàn bộ hệ thống ngân hàng?

Thực ra, các ngân hàng tham gia quá trình sáp nhập vừa qua chỉ chiếm một thị phần không đáng kể trong hệ thống (theo NHNN cho biết thì các ngân hàng nhỏ yếu chỉ chiếm chừng 10% thị phần trong toàn hệ thống), vì thế, chưa đến mức tái cơ cấu toàn bộ hệ thống ngân hàng.

- Vậy, theo TS, cần có những bước đi như thế nào đối với hoạt động M&A ngành ngân hàng, mà theo nhiều chuyên gia kinh tế, sẽ diễn ra sôi nổi và kịch tính hơn trong năm tới?

Theo tôi, tùy thuộc vào mức độ mất an toàn của hệ thống, có thể điều cần làm hiện nay chỉ là tái cơ cấu từng ngân hàng riêng lẻ, bao gồm cả biện pháp cho phá sản nếu con bệnh thực sự trầm trọng vô phương cứu chữa. Chính phủ và NHNN chỉ thực hiện việc điều tiết và định hướng cũng như đưa ra chính sách vĩ mô.

Cám ơn TS!

 Bài nguyên bản
1. Anh nhìn nhận thế nào về xu hướng sáp nhập của các ngân hàng Việt Nam hiện nay?

Có thể nói xu hướng sáp nhập ngân hàng Việt Nam hiện nay đang và sẽ diễn ra theo ý muốn chủ quan của các nhà làm chính sách mà rất có thể đã không được hậu thuẫn bằng những lý do thỏa đáng. Bản thân tôi chưa bao giờ cắt nghĩa được tại sao phải tái cơ cấu hệ thống ngân hàng bằng cách sáp nhập các ngân hàng với nhau. Trước đây thì thấy có nêu ra lý do rằng hiện có quá nhiều ngân hàng trong một nền kinh tế nhỏ như Việt Nam nên không cần thiết phải để tồn tại một số lượng ngân hàng lớn như vậy. Nhưng lý do này có thể thấy rõ ràng không ổn. Tôi có thể hỏi vặn những người có quan niệm như thế này rằng liệu có cần thiết phải cho ra đời đến gần 700.000 doanh nghiệp trong nền kinh tế chỉ có hơn 100 tỷ đôla như Việt Nam, và còn lập mục tiêu tiến tới 1 triệu doanh nghiệp không? Nếu câu trả lời của họ là cần thiết (ví dụ, với lý do vì đa phần các doanh nghiệp này là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên cần phải bù lại bằng con số số lượng) thì họ sẽ tự phủ định lý do của mình khi muốn xóa bỏ bớt số lượng ngân hàng (nhỏ).
Sau đó thì lý do trên chìm đi và nổi lên lý do các ngân hàng nhỏ (và thường cho rằng đi đôi với yếu kém) là nguyên nhân gây ra thiếu hụt thanh khoản, làm lãi suất tăng cao, vì các ngân hàng này lâm vào tình trạng “giật gấu vá vai”, phải bằng mọi cách lách trần lãi suất huy động để thu hút vốn đáp ứng nhu cầu thanh khoản của họ. Vì thế, sáp nhập các ngân hàng nhỏ, yếu kém này (chứ không phải cho giải thể, theo cam đoan của Ngân hàng Nhà nước (NHNN)) được xác định là một trong những yếu tố then chốt để hạ lãi suất cho vay. Thế nhưng, kết quả sáp nhập ngân hàng còn rất khiêm tốn, với chỉ có 1 vụ sáp nhập 3 ngân hàng cùng yếu như nhau trong quý I, và 1 vụ khác mới hồi đầu tháng này. Trong khi đó thì lãi suất đã được chủ động hạ xuống bằng nhiều biện pháp của NHNN, trong khi thanh khoản vẫn còn thiếu hụt cục bộ. Những điều này cho thấy bản thân việc sáp nhập ngân hàng trên thực tế và cả trong nhận thức của nhiều người làm chính sách không liên quan đến thanh khoản hay lãi suất, và cũng không phải phải là mấu chốt để hạ lãi suất.

Cũng có thể đâu đó nêu ra một lý do rất chung chung nữa rằng những ngân hàng nhỏ yếu này là nguyên nhân gây ra bất ổn cho hệ thống nên cần thiết phải sáp nhập để làm trong sạch và lành mạnh hóa hệ thống. Nhưng tiêu chí cho việc sáp nhập này lại không rõ theo hướng này. Hai vụ sát nhập đã xảy ra chỉ là giữa các ngân hàng sàn sàn, cùng tầm như nhau nên thực ra không có tác dụng tích cực gì nhiều. Thay vào sáp nhập thì biện pháp để cho phá sản thì có vẻ là hợp lý hơn, nếu thực sự đến mức phá sản.
Quan trọng hơn, các ngân hàng đối tượng này chỉ chiếm một thị phần không đáng kể trong hệ thống (theo NHNN cho biết thì các ngân hàng nhỏ yếu chỉ chiếm chừng 10% thị phần (không rõ là của cái gì) trong toàn hệ thống), nên thay vì sáp nhập, biện pháp tái cơ cấu từng ngân hàng này (chứ chưa đến mức tái cơ cấu toàn bộ hệ thống ngân hàng như đang được cổ xúy hiện nay) là biện pháp cần thiết và có tác dụng hơn.

Tất nhiên, tình hình sẽ khác nếu thực sự con số nợ xấu và các chỉ tiêu an toàn của toàn hệ thống ngân hàng thực sự là xấu hơn rất nhiều so với những gì công bố thì chuyện sáp nhập ngân hàng này cũng chỉ là một trong những biện pháp có thể xem xét đến, và tiêu chí phải khác đi, rõ ràng hơn.

2. Trong thời gian tới xu hướng này sẽ tiếp tục diễn ra theo kịch bản nào?

Câu trả lời đến từ phần phân tích nói trên. Nói cách khác, sáp nhập bao nhiêu ngân hàng trong thời gian tới sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của các nhà làm chính sách. Nếu muốn tiếp tục sáp nhập thì sẽ chẳng có gì lạ khi con số các ngân hàng bị sáp nhập sẽ tăng lên trong năm nay vì các nhà làm chính sách muốn vậy. Còn nếu đến một lúc nào đó người ta chợt nghĩ lại trước những phản biện như trên thì có lẽ xu hướng sáp nhập sẽ dừng lại giữa chừng.

3. Xu hướng này có cho thấy điều gì bất thường ở nền kinh tế Việt Nam không?

Tôi chỉ thấy một xu hướng là người ta đang muốn “chôn” đi các chứng tích của một thời quản lý lỏng lẻo để cho nhiều ngân hàng ra đời mà không được quản trị, giám sát nghiêm túc, lành mạnh, trong khi các bất ổn vĩ mô do chính sách kinh tế sai lầm lại góp phần đẩy chúng nhanh đến bờ vực khủng hoảng. Thay vì để cho phá sản (nếu đến mức độ đó) hoặc sáp nhập tự nguyện thì người ta chọn con đường ít “tai tiếng” và có vẻ an toàn, dễ làm hơn là đạo diễn/bắt buộc sáp nhập các ngân hàng yếu kém với nhau, bên cạnh những biện pháp hỗ trợ của NHNN để duy trì sự tồn tại của các ngân hàng có vấn đề.

4. Các chuyên gia nước ngoài, ví dụ như nơi anh đang công tác, nhận định như thế nào?

Tôi là người Việt, đọc tiếng Việt, có hiểu biết nhất định và làm việc trong lĩnh vực liên quan, thường xuyên theo dõi tình hình ở Việt Nam mà tôi còn không biết được nhiều chi tiết liên quan đến chuyện sát nhập thì chắc quý báo cũng có thể hình dung ra sự hiểu biết của các chuyên gia nước ngoài, ở chỗ tôi hay ở các nơi khác, về nền kinh tế Việt Nam đến đâu. Có chuyên gia (tạm gọi như vậy) thậm chí còn nhờ tôi truy cập vào trang web của NHNN để dịch các thông tin từ đó ra tiếng Anh vì trang web bằng tiếng Anh hầu như chẳng có mấy thông tin (cập nhật).

Có thể có nhiều người quan tâm, nhưng chỉ ở khía cạnh muốn biết điều gì đang xảy ra ở Việt Nam. Một số bình luận, nếu có, của họ hay của những người khác, chỉ dừng lại ở mức nói theo các tuyên bố và giải thích của các quan chức liên đới ở Việt Nam, đại loại là sáp nhập là biện pháp thích hợp để giải quyết khó khăn thanh khoản và là một biện pháp để tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Nhưng điều này lại làm hại họ vì bản thân lập trường chính sách của các quan chức hữu trách Việt Nam cũng thường xuyên thay đổi.

5. Theo anh ở tầm vĩ mô, chính phủ cần phải có những bước đi như thế nào trong bối cảnh hiện nay?
Cũng đã có một số người lên tiếng phê phán chủ trương của NHNN không để cho ngân hàng nào phá sản. Tôi ủng hộ sự phê phán này, và, như nói ở trên, nếu cần thiết thì phải để cho một số ngân hàng phá sản. Tùy thuộc vào mức độ mất an toàn của hệ thống, có thể điều cần làm hiện nay chỉ là tái cơ cấu từng ngân hàng riêng lẻ, bao gồm cả biện pháp cho phá sản nếu con bệnh thực sự trầm trọng vô phương cứu chữa. Tóm lại, hãy để thị trường lên tiếng nhiều hơn nữa và trừng phạt các hành vi sai trái nhiều hơn nữa.

Tất nhiên, ở đây tôi mới chỉ bình luận liên quan đến chuyện tái cơ cấu, sáp nhập ngân hàng thôi, chứ chưa đề cập đến những vấn đề khác.


Wednesday 16 May 2012

Đọc báo giùm bạn

Hôm nay tớ lại mới có dịp lôi ra đây 2 đồng chí TS cũng thuộc diện có tiếng ở Việt Nam để bình luận. Nói “mới có dịp” đơn giản vì báo chí hiện vẫn như thường, tức là quanh đi quẩn lại chỉ thấy mấy khuôn mặt cũ mèm mà tớ chẳng còn thiết bình luận nữa, ngoại trừ hôm nay khi tớ đọc bài của 2 đồng chí TS, Vũ Quang Việt và Nguyễn Sĩ Dũng, lâu lâu mới thấy xuất hiện và rất đáng bình luận vì hàm lượng chất xám của chúng, dù đúng hay sai, có vẻ như nhiều hơn hẳn tác phẩm của mấy đồng chí TS khác hay/thích xuất đầu lộ diện.

Bài thứ nhất, của đồng chí Vũ Quang Việt, xuất hiện trên cả Bauxite Việt Nam và tamnhin.net, với tiêu đề “Phân tích dự án Văn Giang” (tamnhin.net) Chi phí, doanh thu và lãi cho người đầu tư ở Văn Giang” (Bauxite Việt Nam). Ngoài một số giả định đưa ra để tính toán chi phí bỏ ra và lợi nhuận thu về được nêu trong Bảng 2 của bài viết mà tớ không muốn bình luận vì có thể đúng, có thể sai, tớ thấy tác giả có một số thiếu sót/sai lầm trong bài toán lợi nhuận của mình.

Thứ nhất, về giả thiết chỉ có ½ diện tích đất thu hồi (tức 250ha trong tổng số 500ha) được xây dựng với giá 6 triệu VND/m2, tác giả đã bỏ qua mấy thực tế như diện tích xây dựng có thể nhỏ hơn 250ha nhiều vì có khản năng với những dự án loại này, diện tích xây dựng có thể chỉ là 1/3 hoặc ít hơn.

Thứ hai, tác giả giả định giá bán là 20 triệu VND/ha trong số 250ha này (giả thiết là diện tích xây dựng đúng như tác giả giả định). Giá bán này có thể là bình thường, hợp lý vào thời điểm hiện tại, nhưng có thể là quá cao khi mới quy hoạch dự án (2003-04 gì đó), nên phải công bằng hơn với chủ đầu tư rằng họ hoàn toàn có thể chỉ dự tính một con số lãi khiêm tốn hơn nhiều con số mà tác giả đưa ra, nếu căn cứ vào giá cả đất đai tại thời điểm cách đây gần chục năm. Bản thân tớ mua cái nhà vào giữa năm 2007 giá tính ra chỉ có khoảng 35 triệu VND/m2 gì đó nhưng giá tại thời điểm năm ngoái có thể gấp đến trên 5 lần, hoàn toàn nằm ngoài sức tưởng tượng của tớ! Vậy thì giá đất Ecopark chắc cũng có thể tương tự theo xu hướng tăng giá như vậy lắm chứ? Cũng cần nói thêm rằng đã có rất nhiều hộ nông dân trong khu vực Ecopark tự nguyện đồng ý nhận đền bù trước đó, chứng tỏ rằng giá đền bù (kèm các quyền lợi khác) thực sự không phải là phi lý quá mức vào thời điểm trước.

Thứ ba, tác giả cũng đã bỏ qua thực tế rằng không phải 250ha còn lại thì chủ đầu tư chẳng phải tốn tiền. Nếu không tốn tiền thì chả nhẽ để đó làm đất hoang à? (Mà thậm chí có là đất hoang thì vẫn tốn tiền thuê người trông coi). Nói cách khác, dù với bất cứ mục đích làm gì với đất đó thì chủ đầu tư chắc chắn phải bỏ ra một mớ tiền nữa, và chắc là cũng không phải nhỏ, nếu so với quy mô và tính chất cao cấp của dự án tổng thể.

Thứ tư, tác giả còn bỏ qua rất nhiều loại chi phí có tên và không tên khác liên quan đến dự án, ngoài cái 6 triệu VND/m2 xây dựng nói trên và chi phí bỏ ra làm đường cao tốc. Một trong những chi phí này chắc chắn là chi phí lobby, hối lộ, bôi trơn (vì thế dự án mới được cấp phép nhanh như vậy). Mà chắc không cần phải nhắc lại rằng những loại chi phí này đôi khi mới là chi phí đáng kể nhất ở Việt Nam.

Tóm lại, qua mấy cái thiếu sót quan trọng kia, bài toán chi phí và lợi nhuận nói trên của đồng chí Vũ Quang Việt hoàn toàn là thiên lệch, phóng đại quá mức. Đồng chí cần phải xem lại một cách hết sức nghiêm túc nhé!

 Về bài của đồng chí Nguyễn Sĩ Dũng có tiêu đề “Lạmquyền” đăng trên tờ Lao động, có mấy đoạn đập vào mắt tớ như sau.

Thứ nhất,  đồng chí Dũng viết “Lạm quyền là con bệnh đặc trưng và phổ biến của quyền lực nhà nước”.

Hình như đồng chí Dũng nhầm lẫn lung tung trong cách sử dụng các cụm từ “lạm quyền” với “quyền lực”. Lạm quyền là lạm dụng quyền lực. Không thể nói nó (lạm quyền) là con bệnh đặc trưng và phổ biến của quyền lực nhà nước, đơn giản vì quyền lực nhà nước không phải là chủ thể có thể sử dụng quyền lực một cách sai trái (lạm quyền). Nếu đồng chí Dũng nói nhà nước lạm (dụng) quyền (lực) của mình thì nghe còn lọt lỗ tai một chút.

Thứ hai, đồng chí Dũng viết: “Vấn đề không phải là chỉ ở ta quyền lực mới như vậy, mà là chỉ ở ta quyền lực mới chưa bị kiểm soát đến như vậy.” Cái câu này thật như đánh đố. Nhưng tớ vẫn cố gắng diễn giải một chút. Có vẻ như khi viết “Vấn đề không phải là chỉ ở ta quyền lực mới như vậy”, đồng chí Dũng muốn nói rằng “ở ta quyền lực mới lạm quyền”? Nếu đúng vậy thì miễn bàn!

Khi viết “Mà là chỉ ở ta quyền lực mới chưa bị kiểm soát như vậy”, phải chăng đồng chí Dũng có ý muốn nói rằng vì “quyền lực chưa bị kiểm soát như vậy nên quyền lực mới sinh ra lạm quyền”? Nếu đúng vậy thì cũng miễn bàn! Ngoài ra, lưu ý rằng quyền lực “chưa bị kiểm soát” không luôn dẫn đến/liên quan gì đến cái chuyện “lạm quyền” ta đang nói ở đây cả. Quyền lực tuyệt đối như vua chúa (bắt chết là phải chết) nhưng cũng sẽ không có lạm quyền nếu sự bắt chết này là theo đúng luật (ví dụ các võ sĩ giác đấu theo luật khi thua thì sẽ có thể bị giết, và nếu vua đồng ý cho giết thì sẽ bị giết; vua đâu có gì là lạm quyền ở đây?)

Đồng chí Dũng viết: “Mà như vậy thì oan khuất, khổ đau của người dân, bất công trong xã hội vẫn còn rất khó bị loại trừ. Các vụ việc lạm quyền liên tiếp xảy ra trong thời gian gần đây cho chúng ta nhận thức sâu sắc hơn bao giờ hết sự cần thiết phải xác lập cho bằng được nhà nước pháp quyền trên đất nước ta. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần có được một khái niệm về nhà nước pháp quyền đúng đắn hơn so với khái niệm mà chúng ta đang có.

Nhà nước pháp quyền không phải là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật (muốn quản lý như thế nào thì cứ đặt ra pháp luật như thế ấy). Một nhà nước như vậy sẽ gần với nhà nước chuyên quyền hơn là nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà ở đó mọi quyền lực nhà nước đều bị pháp luật chế ước chặt chẽ, bao gồm cả quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Người dân có thể làm bất cứ điều gì pháp luật không cấm, nhưng Nhà nước dứt khoát chỉ được làm những gì pháp luật cho phép.”

Tớ chịu chẳng hiểu được tại sao đồng chí Dũng nói rằng Nhà nước pháp quyền không phải là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Không quản lý bằng pháp luật thì quản lý bằng gì? Bằng ý thích của những nhân viên công lực à?

Nhà nước cũng không thể đơn giản tự đặt ra pháp luật, mà hình như phải dựa vào Hiến pháp, thông qua Quốc hội. Mà Hiến pháp và Quốc hội là ai, là gì, do ai dựng nên, đặt ra (trên lý thuyết)? Một khi nhân dân (và đại diện của dân) đã thông qua, đã phê chuẩn pháp luật rồi và nếu nhà nước thực hiện chế tài theo đúng pháp luật rồi thì chuyện này (trên lý thuyết) có gì là sai trái, đáng phê phán?

Đồng chí Dũng lý luận: “Người dân có thể làm bất cứ điều gì pháp luật không cấm, nhưng Nhà nước dứt khoát chỉ được làm những gì pháp luật cho phép.” Tớ thấy đây cũng chỉ là sự đánh tráo khái niệm. “Không cấm” cũng có nghĩa là “được phép”, và như vậy thì vẫn có thể nói “nhà nước có thể làm bất cứ điều gì pháp luật không cấm”.

Cuối cùng, đồng chí Dũng kết luận: “Pháp luật không cho phép đập phá nhà của công dân. Pháp luật không cho phép đánh hội đồng các nhà báo (và bất cứ công dân nào khác). Những hành vi lạm quyền nói trên là vi phạm nghiêm trọng pháp quyền. Chúng phải bị loại trừ khỏi đời sống của chúng ta.”

Nói luôn cho nhanh là những hành vi trên không phải là lạm quyền mà là phạm pháp vì làm những việc mà pháp luật cấm. Và thay vì nói là “vi phạm nghiêm trọng pháp quyền” thì tác giả cần nói là “vi phạm nghiêm trọng pháp luật”.

Chuyện chỉ có thế thôi mà nói loanh quanh, chơi chữ, lẫn lộn lung tung!


Tuesday 15 May 2012

Tại “khủng hoảng kinh tế”!


Một trong những lý do rất được ưa thích của những ai khi cần phải tìm một cái gì đó để đổ lỗi và lý giải cho những yếu kém và thua lỗ, thất thoát của mình hay của chung là tại “khủng hoảng kinh tế (thế giới)”! Vinashin và Vinalines (rồi ngay cả Vinacomin gần đây) nữa là điển hình của chuyện này. Nhiều nghìn tỷ đồng đã (và đang có nguy cơ tiếp tục) thành mây khói mà tội đồ dường như duy nhất lại là tại thằng “khủng hoảng kinh tế”. Điều hay ho là thằng tội đồ này không chỉ bị vạch mặt chỉ tên bởi các ông hữu trách ở những doanh nghiệp này mà ngay cả các đồng chí ở trên trung ương nữa, thế mới tuyệt.

Thôi thì Vinashin ta khỏi phải bàn đến nữa vì như thế nào thì mọi sự đã và đang dần rõ ra như ban ngày rồi. Ta chỉ đề cập đến Vinalines, với những con tầu cũ nát mua gấp rút khẩn trương trong những năm qua. Lý do biện hộ cho việc mua tầu cũ này thì ít được nhắc đến, và nếu có thì cũng rất chung chung, khó hiểu. Dường như người ta đã quên mất, hay cố tình lãng quên sự thiển cận, ngu xuẩn của mình, của những quan chức liên đới mà chính vì đó mới có chuyện Vinalines ra sức thu mua tầu cũ.

Còn nhớ hồi bắt đầu xảy ra khủng hoảng hồi cuối năm 2008 đầu năm 2009, chính Vinalines và một số vị chuyên gia với chuyên vào cũng như quan chức khi được phỏng vấn, bình luận về cơ hội cho Việt Nam trong khủng hoảng đều nêu ra cơ hội mua tầu cũ giá rẻ mà dường như nếu không mua thì cơ hội không bao giờ xảy đến lần nữ. Vì vậy, tất cả đều đồng thanh kêu gọi nhà nước hỗ trợ để họ đi thu mua tầu cũ.

Là người cũng dính dáng đôi chút đến ngành vận tải biển nên tớ hãi với cái dàn đồng thanh này quá, bèn viết bài: "Cơ hội có thật nào cho Việt Nam trongkhủng hoảng” trên VNN có mục đích can ngăn, làm tỉnh ngộ mấy cái đầu hâm hâm (chẳng biết thật hay giả vờ) này.

Không rõ thực hư ra sao, nhưng có thể đoán Vinalines trên thực tế đã không bỏ lỡ “cơ hội trời cho” này và đã mua một số con tầu cũ vào thời điểm khủng hoảng, và kết cục như hôm nay cũng chỉ là kết cục không đến sớm thì cũng muộn hơn mà thôi, chẳng có gì lạ, ngạc nhiên cả.

Chỉ buồn một nỗi là bài học quá khứ luôn là bài học chóng quên nhất và tội đồ thật sự thì té ra lại không phải là những cái đầu ngu dốt, cơ hội này mà là tại thằng “khủng hoảng kinh tế”. Còn nạn nhân thì vẫn luôn chỉ là dân đen!

P/s: Dạo này tự nhiên tớ chán viết quá. Báo chí thì tự mình nghỉ chơi với người ta hoặc người ta nghỉ chơi với mình. Còn blog thì chẳng còn mấy ham hố cập nhật khi mà quanh đi quẩn lại chỉ toàn thấy những chuyện ngớ ngẩn, điên khùng của ông bộ này với lại chuyên gia kia… chẳng nhẽ cứ nói mãi thì nhàm quá. Thôi thì thỉnh thoảng cũng phải cố mà viết cái gì đó không thì sẽ quên sạch cả kỹ năng viết lách như thế nào mất. Đồng chí nào có đề tài gì hay hay muốn tớ comment thì mang ra cho tớ với nhé.

Monday 7 May 2012

Suýt ngất với đồng chí tác giả này

Hôm nay có một đồng chí ở Việt Nam gửi cho tớ cái link đến một bài trên tờ báo điện tử tamnhin.net. Đồng chí ở Việt Nam này chỉ kèm theo một câu: “Thật mơ hồ”. Tớ đoán hay đồng chí này muốn tớ có đôi lời bình luận chăng.
Đọc xong tớ lại một lần nữa suýt ngất với bài viết này có tên tác giả Mai Huy và (lần trước tớ đã ngất với đồng chí TS Nguyễn Thị Sơn nào đó trên báo Vnexpress mà tớ có đăng lại trên blog này). Thực ra đây không phải là lần đầu tớ đọc bài của đồng chí Mai Huy. Cách đó ít lâu thì đồng chí Mai Huy cũng cho ra lò một bài viết khác, cũng xứng tầm làm cho người đọc hoàn toàn mất tri giác tạm thời. Tớ không rõ đồng chí Mai Huy này còn cho ra lò bài nào trước đó nữa không và có ý định thế nữa không, không thì gây ra một thảm họa cho báo chí và độc giả chứ chả đùa. Định đưa các bài của đồng chí Mai Huy vào mục “Đọc báo giùm bạn” nhưng sau lại thôi vì không muốn tên của đồng chí này làm hoen ố thêm các đồng chí khác tớ lôi ra ở đó.
Để khỏi phí thì giờ của mọi người và cả tớ nữa, tớ chỉ nói ngắn gọn thế này, là từng câu, từng chữ, từng đoạn văn, và cả bài, cũng như nội dung trong các bài viết của đồng chí Mai Huy đều đáng vứt vào sọt rác vì những lỗi nhẹ thì là ngữ pháp, chính tả, hành văn, chấm câu v.v..., nặng thì là ngớ ngẩn vì thích hỏi (đặt câu hỏi bằng cách sử dụng các dấu hỏi tràn lan thay cho dấu phẩy, dấu chấm) một cách rất ngờ nghệch, ngô nghê. Đọc xong tớ đành phải mượn cách nói của dân trong Nam (thì phải): “Hiểu chết liền!”.
Nếu phải so sánh cấp độ tệ hại thì bài của đồng chí Mai Huy xứng đáng đoạt giải quán quân, sau bài viết của đồng chí TS Nguyễn Thị Sơn và đồng chí tác giả VEF mà tháng trước tớ đã bình luận. Có cái lạ là ban biên tập của tờ tamnhin.net trốn đâu hết rồi mà để đồng chí Mai Huy này tự tung tự tác đến lạ.
Mời các đồng chí bạn đọc đọc thưởng ngoạn để thấy cái sự lỗi lạc của nền báo chí Việt Nam.

Saturday 5 May 2012

Vinashin nhìn từ HBB và SHB


Trong entry trước tớ mới nói qua về chuyện cứu Vinashin. Hôm nay đọc lại/thêm một số chi tiết về khoản lỗ hơn 4.000 tỷ của HBB, tớ phải khâm phục trình độ võ thuật cao thâm của các đồng chí có trách nhiệm/liên đới đến Vinashin.

Võ đầu tiên là của NHNN, cho phép chia nhỏ trích lập dự phòng thành một số năm thay vì trong một năm. Thay vì bị trích lập dự phòng đầy đủ 2.236 tỷ ngay trong năm nay, SHB đã được phép phân bổ con số này ra thành 5 năm. Nhờ một bút toán “đơn giản” nhưng nặng cân như vậy, con số lỗ đến 2/2012 chỉ còn 1.829 tỷ đồng.

Để xử lý khoản lỗ này, SHB được tạo điều kiện tối đa và rất có lợi để có đủ nguồn tài chính bù đắp. Chính phủ dùng võ hoán đổi 30% trái phiếu Vinashin thành trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh của Chính phủ. NHNN nhảy tiếp vào, dùng thêm ngón võ cho phép SHB dùng 70% trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh này để thế chấp vay trên OMO với lãi suất thấp hơn lãi suất huy động (tức là một hình thức cấp vốn ưu đãi).

Vẫn chưa đã, NHNN sẽ cho SHB vay tái cấp vốn với giá trị tương đương 25% trên tổng dư nợ và trái phiếu của Vinashin với lãi suất 10%/năm trong thời hạn 5 năm (và lại còn được tăng giảm từng thời điểm để đảm bảo lãi suất tái cấp vốn này luôn ở mức ưu đãi, chắc vì e ngại rằng cuối năm nay hay sang năm sau, mặt bằng lãi suất chung sẽ hạ xuống dưới 10%/năm, do đó lãi suất tái cấp vốn này trở nên không còn ưu đãi nữa).

Tóm lại, với các khoản nợ khổng lồ và sự tuyên bố mạnh miệng của một số nhân vật liên quan, tưởng như Vinashin sẽ đứt hơi vì phải tự thân trả nợ. Nhưng vì là ở Việt Nam nên chuyện này không bao giờ xảy ra. Ngoài những biện pháp hỗ trợ “tép riu”, mà nói trắng ra là dùng tiền thuế của dân để chi trả, như cho vay không lãi để trả lương, xóa thuế nhập khẩu cho Vinashin v.v..., người ta đã hé lộ ra những biện pháp “hỗ trợ” khác, từ chuyện xé lẻ (món nợ của) Vinashin tống sang cho các doanh nghiệp nhà nước khác, đến chuyện trực tiếp dùng ngân sách để trả nợ thay cho Vinashin trong trường hợp nó không trả nợ được (thể hiện qua việc bảo lãnh trái phiếu Vinashin như nói ở trên), hay chuyện NHNN, ngoài chuyện cho phép chia nhỏ lỗ ra thành nhiều năm, in tiền/bơm tiền ra để tái cấp vốn và cho vay trên thị trường OMO (cũng là một hình thức bơm vốn) cho các chủ nợ của Vinashin.

Nếu những biện pháp “hỗ trợ” trực tiếp từ Chính phủ sẽ làm gia tăng nợ công, tăng thâm hụt ngân sách, thì những biện pháp “hỗ trợ” từ NHNN sẽ làm gia tăng cung tiền, dẫn tới gia tăng áp lực lạm phát. Nói cách khác, kiểu gì thì toàn dân Việt Nam cũng sẽ phải è cổ ra để cứu Vinashin, mặc dù đây có thể là điều nằm ngoài ý muốn của họ, còn những người liên đới thì có vẫn có vẻ như vô can.

Thursday 3 May 2012

Các đồng chí như S&P và Moody’s rất ngây thơ nhé!

Nhân đọc cái tin về ngân hàng HBB “chót” cho vay Vinashin mấy nghìn tỷ rồi phải đối mặt với thảm họa mất trắng, sau lại được “cứu” bởi cái quy định này, giải pháp kia và rồi khoản tiền cho vay nọ với lãi suất cực ưu đãi, tớ mới nhớ ra cái hồi tin tức vỡ nợ của Vinashin tung tóe ra rồi các đồng chí “ở trển” thì chối đây đẩy trách nhiệm hoặc tuyên bố là Vinashin làm thì nó tự chịu trách nhiệm v.v..., mấy hãng xếp hạng tín dụng như S&P và Moody’s vội vàng “theo đóm ăn tàn”, nhanh chóng hạ hạng tín dụng của các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam, với lý do rằng, đại loại, ví dụ của Vinashin cho thấy Chính phủ sẵn sàng bỏ rơi các doanh nghiệp nhà nước mặc dù chúng là con ruột.

Lúc đó, tớ bị thúc giục bởi cơ quan nên đành phải thu xếp một vài cuộc viếng thăm mấy đồng chí xếp hạng tín dụng này ở Sing để hỏi han cụ thể hơn.

Mở đầu các cuộc viếng thăm, tớ nói luôn là tớ là người Việt Nam, nắm được tình hình ở Việt Nam, nên chỉ muốn đến để biết thêm về sự nhìn nhận vấn đề của các đồng chí với tư cách là một người thứ ba, đứng từ bên ngoài nhìn vào.

Sau một hồi nói chuyện, tớ rút ra một kết luận (tất nhiên là không đưa vào báo cáo cho cơ quan) rằng các đồng chí này nói chung còn rất ... ngây thơ, nhất là về Việt Nam! Tớ phải “làm công tác tư tưởng” cho các đồng chí ấy rằng nghe vậy chứ không phải vậy đâu, thấy vậy chứ không phải vậy đâu, và các đồng chí cứ “yên tâm” vì Vinashin sẽ được cứu bằng mọi cách, chỉ có điều không phải là lúc này – trước Đại hội Đảng và bầu bán nhân sự cấp cao.

Vì thế mà từ trước và càng hơn thế cho đến nay tớ chẳng bao giờ xem trọng mấy cái loại báo cáo phân tích, đánh giá mới lại cả dự báo của các tổ chức nước ngoài (mà không có tớ tham gia!), kể cả đó là các đồng chí sừng sỏ như S&P và Moody’s. Tất nhiên, nói thế thì nói thôi chứ các báo cáo này vẫn là căn cứ cho nhiều quyết định của các nhà đầu tư (nước ngoài). Biết làm sao được?!

Wednesday 2 May 2012

Chiến lược phát triển tối ưu cho Việt Nam trong giai đoạn tới


Câu chuyện tái cơ cấu kinh tế đang trở thành một vấn đề được tranh luận khá rầm rộ gần đây. Lục lại các bài viết trước, tớ tìm ra được bài này và thấy tính thời sự vẫn còn nên post lên đây để mọi người đọc tham khảo và comment, nếu có thể. Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân, số 30/4/2009.


Đi tìm mô hình tăng trưởng tối ưu

30/04/2009

Một khi Việt Nam trở nên cạnh tranh hơn nhờ có một lực lượng lao động có trình độ cao hơn và thể chất tốt hơn thì tự khắc Việt Nam sẽ trở thành điểm đến cho dòng vốn đầu tư nước ngoài hướng đến các phân đoạn giá trị gia tăng cao hơn.
Khủng hoảng kinh tế thế giới đã làm bộc lộ những “tử huyệt” của nền kinh tế Việt Nam, theo cách gọi và hiểu của nhiều người, thể hiện qua giảm sút của xuất khẩu và đầu tư nước ngoài, dẫn đến tụt giảm tăng trưởng và gia tăng thất nghiệp. Nói cách khác, theo họ, với mức độ phụ thuộc rất lớn vào vốn, công nghệ và thị trường nước ngoài như hiện nay, mô hình tăng trưởng mà Việt Nam đang theo đuổi là không bền vững và sớm muộn cũng phải tìm cách thay đổi nếu không nền kinh tế sẽ không bao giờ cất cánh nổi và một bộ phận lớn dân chúng không bao giờ thoát khỏi được đói nghèo.

Đối mặt với vấn đề này, đã có không ít kinh tế gia trong và ngoài nước kêu gọi Việt Nam theo đuổi một mô hình tăng trưởng khác phù hợp hơn, mà cụ thể là nhấn mạnh vào phát triển thị trường tiêu dùng nội địa, thay đổi mô hình xuất khẩu từ tập trung vào xuất khẩu nguyên liệu thô hoặc sơ chế hoặc những mặt hàng gia công có giá trị thặng dư thấp sang sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng có giá trị thặng dư cao hơn, tiến tới tự chủ được phần lớn nguyên liệu sản xuất đầu vào, hạn chế và/hoặc hướng đầu tư nước ngoài vào những ngành sản xuất để xuất khẩu những hàng hóa có giá trị thặng dư cao, sử dụng công nghệ tiên tiến, kèm theo chuyển giao công nghệ và đào tạo nhân lực v.v...

Không cần phải nói, định hướng phát triển như trên quả là tối ưu. Không ai muốn làm công ăn lương lao động quần quật trong các xưởng “vắt mồ hôi” 12-14h/ngày để rồi hàng tháng lĩnh đồng lương ít ỏi như công nhân trong các khu chế xuất. Không ai muốn thấy các nhà tư bản nước ngoài mang vào Việt Nam những công nghệ lạc hậu làm ô nhiễm môi trường và tiêu tốn năng lượng do giá năng lượng vẫn còn được kiểm soát ở mức thấp. Không ai muốn thấy một con tàu trị giá vài chục đến hàng trăm triệu đôla hoặc một cái áo sơ mi bán ở nước ngoài có giá vài chục đôla mà phần giá trị thặng dư Việt Nam được hưởng chỉ là chút ít giá trị nhân công trong đó. Và tất nhiên cũng không một ai muốn thấy tài nguyên thiên nhiên của ta bị xúc lên mang bán đi với giá rẻ để rồi ta lại phải mua chính những sản phẩm chế ra từ những tài nguyên đó với giá đắt hơn nhiều.

Nhưng định hướng trên mãi vẫn chỉ là định hướng (và quá dễ để thấy, để nói, để bảo vệ nó, thậm chí không cần phải là một kinh tế gia) còn thực hiện được hay không, đến bao giờ mới thực hiện được, và thực hiện như thế nào lại là chuyện hoàn toàn khác.

Nhìn lại những gì chúng ta đã và đang có

Lực lượng lao động có chất lượng được cải thiện song song với một số cải thiện khác trong nền kinh tế sẽ dẫn đến những thay đổi về cơ cấu kinh tế và đặc điểm của nền kinh tế, với tỷ trọng kinh tế nội địa tăng lên, giảm tương đối mức độ phụ thuộc của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới, đưa Việt Nam lên thêm một vài bậc trên bậc thang giá trị gia tăng và trình độ phát triển.

Hãy nhìn lại những gì chúng ta đã và đang có. Một nguồn nhân lực tuy rất dồi dào về số lượng nhưng yếu về chất lượng, chứ không như chúng ta vẫn tự nhận, hay nghe được từ một số nhà đầu tư nước ngoài. Không chỉ yếu về sức khỏe thể chất (so với nhân lực Trung Quốc chẳng hạn) mà nguồn nhân lực Việt Nam còn kém về trình độ nghề nghiệp (ngoài chuyện có tỷ lệ biết đọc biết viết cao tương đối so với mức thu nhập bình quân ở mức thấp của Việt Nam). Tất nhiên, với lực lượng lao động như vậy thì thế mạnh chỉ là làm những công việc giản đơn, không đòi hỏi trình độ chuyên môn hay phải bỏ chi phí đào tạo lớn. Công việc như vậy thì không thể mong hưởng mức lương cao, vì quy luật cung cầu đóng vai trò điều tiết ở đây. Mức lương không thể cao vì nguồn cung lao động còn rất dồi dào với dân số tăng nhanh (trên 1%/năm) và dân số trẻ chiếm tỷ trọng lớn. Lương trung bình ở Việt Nam cũng không thể tăng cao vì với những công việc giản đơn, lực lượng lao động Việt Nam còn phải cạnh tranh với lao động ở vô số quốc gia đông dân đang phát triển khác có mức lương rẻ không kém như Ấn Độ, Bangladesh, Sri Lanka, thậm chí là Lào hay Campuchia.

Chúng ta cũng chỉ có một nguồn tài nguyên hữu hạn và không phong phú nếu so sánh tương đối theo mức bình quân đầu người. Tuy nhiên, Việt Nam hầu như không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải làm như vậy để tạo điều kiện thúc đẩy công nghiệp hóa.

Việt Nam cũng có một chút lợi thế về địa chính trị do nằm cạnh Trung Quốc và ở khu vực kinh tế năng động Đông Nam Á, vì thế có thể trở thành một mắt xích trong dây chuyền phân công lao động quốc tế, và có thể trở thành “vùng đệm” thay thế một phần Trung Quốc khi có biến động ở nước này.

Với một lợi thế so sánh như hiện tại thì Việt Nam không còn lựa chọn nào khác ngoài mô hình phát triển hiện tại, tập trung vào khai thác tối đa lực lượng lao động. Tất nhiên, mô hình này có thể được điều chỉnh một chút cho phù hợp hơn.

Với thế mạnh (gọi chính xác hơn là lợi thế so sánh) lớn nhất là lực lượng lao động dồi dào, giá rẻ, tiếp theo là lợi thế về địa chính trị và tài nguyên như vậy thì đương nhiên Việt Nam chỉ hấp dẫn nhất đối với những nhà tư bản trong và ngoài nước bỏ vốn phát triển những ngành chế tạo, sản xuất sử dụng nhiều lao động có giá rẻ tương đối so với các quốc gia khác, cũng như những ngành công nghiệp khai khoáng và những ngành, những phân đoạn công việc trong chuỗi phân công lao động mà chủ yếu là ở phân đoạn lắp ráp, gia công đơn giản.

Các cuộc khảo sát các doanh nghiệp Nhật vào Việt Nam của phía Nhật cũng cho thấy tính chính xác của nhận định trên, khi một phần lớn giới doanh nghiệp Nhật cho biết họ đầu tư vào Việt Nam vì lực lượng lao động, tiếp đến là vị trí địa lý và một phần là do nguồn tài nguyên.

Mô hình lý tưởng

Như vậy, có thể thấy rằng với một lợi thế so sánh như hiện tại thì Việt Nam không còn lựa chọn nào khác ngoài mô hình phát triển hiện tại, tập trung vào khai thác tối đa lực lượng lao động. Tất nhiên, mô hình này có thể được điều chỉnh một chút cho phù hợp hơn, chẳng hạn như lực lượng lao động này không nhất thiết chỉ tập trung vào những doanh nghiệp xuất khẩu mà còn cần nên được hút thêm vào những doanh nghiệp hướng thị trường nội địa, sản xuất những mặt hàng thâm dụng lao động mà ta vẫn phải nhập khẩu. Mục tiêu chủ yếu của chiến lược này là hấp thu tối đa lực lượng lao động hiện có và có xu hướng tăng lên hàng năm nhằm giảm thiểu thất nghiệp và tạo thu nhập cho người lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo.

Cần lưu ý rằng nói như trên không có nghĩa là Việt Nam sẽ vẫn mãi phải theo mô hình trên hoặc phải bằng lòng với mô hình phát triển trên. Điểm mấu chốt của vấn đề là lợi thế so sánh. Bản thân lợi thế so sánh không phải là một định số mà là một biến số, có thể thay đổi theo thời gian. Lực lượng lao động có thể đạt được những biến chuyển về chất trong thời gian tới với sự tăng cường đầu tư vào giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng thể chất của nhà nước cũng như của cá nhân. Vì việc đầu tư này cần đến tiền và thời gian nên sự biến chuyển về chất chỉ có thể diễn ra dần dần, cùng với quá trình tích lũy cho đầu tư của nhà nước và cá nhân, không thể hy vọng và không nên cưỡng bức quá trình này diễn ra theo kiểu đốt cháy giai đoạn, “đại nhảy vọt”. Mọi thứ đều có liên quan với nhau trong một khuôn khổ có hạn các nguồn lực, nên, ví dụ, dồn sức cho đào tạo giáo dục trong khi cắt giảm chi tiêu cho những mục tiêu quan trọng không kém khác như phát triển hạ tầng, phát triển công nghiệp phụ trợ, nâng cao năng lực điều hành kinh tế của Chính phủ và các công ty v.v... thì rốt cuộc một lực lượng lao động với trình độ cao cũng không dẫn đến tăng trưởng cao và bền vững vì bị trói buộc bởi, ví dụ, một cơ sở hạ tầng kém phát triển, một công nghiệp phụ trợ què quặt v.v.

Một khi lợi thế so sánh đã thay đổi, và Việt Nam trở nên kém cạnh tranh hơn trên mặt chi phí lao động giản đơn nhưng lại trở nên cạnh tranh hơn nhờ có một lực lượng lao động có trình độ cao hơn và thể chất tốt hơn thì tự khắc Việt Nam sẽ trở thành điểm đến cho dòng vốn đầu tư nước ngoài hướng đến các phân đoạn giá trị gia tăng cao hơn, tất nhiên vẫn phải có sự phối hợp của lợi thế địa chính trị và với điều kiện Chính phủ vẫn duy trì được những hấp dẫn khác hiện tại như môi trường chính trị ổn định và quá trình cải cách vẫn theo hướng tiếp tục và tích cực.

Lực lượng lao động có chất lượng được cải thiện song song với những cải thiện khác trong nền kinh tế như nói ở trên còn sẽ dẫn đến những thay đổi về cơ cấu kinh tế và đặc điểm của nền kinh tế, với tỷ trọng kinh tế nội địa tăng lên, giảm tương đối mức độ phụ thuộc của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới, đưa Việt Nam lên thêm một vài bậc trên bậc thang giá trị gia tăng và trình độ phát triển.

Tóm lại, vấn đề của nền kinh tế Việt Nam và một mô hình phát triển lý tưởng không phải là điều quá khó để nhìn thấy. Nhưng với những giới hạn trong những gì chúng ta đang có thì điều mà giới chuyên gia cũng như những nhà hoạch định chính sách cần tập trung đến việc làm thế nào để phân bổ một nguồn lực hữu hạn như vậy cho thật hợp lý vào những lĩnh vực mang tính then chốt – chất lượng lực lượng lao động – quyết định tăng trưởng bền vững của Việt Nam trong tương lai, chứ không phải là tập trung vào tranh cãi mô hình tăng trưởng nào (ví dụ, kinh tế gia công hay kinh tế công xưởng, như có người từng chỉ ra) Việt Nam nên theo đuổi.


Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).