Friday 29 June 2012

Tái cơ cấu kinh tế và cơ hội cho kinh tế tư nhân (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân)

Bài này tới viết theo đặt hàng của một tạp chí ở Bộ nọ, nhưng bị đồng chí PGS. TS. Tổng biên tập XYZ của tờ tạp chí này phê bình nguyên văn (thông qua biên tập viên) như sau: “sếp em (Ngọc: tức đồng chí PGS. TS. Tổng biên tập XYZ, sếp của đồng chí biên tập viên) nói rằng rất hoan nghênh cách nhìn nhận của anh trong giai đoạn này, tuy nhiên, bởi bên em  là Tạp chí nên nói gì cũng cần có dẫn chứng, có phân tích để đưa ra luận điểm. Tạp chí em một bài viết có thể khoảng 3.000 từ. Do đó, có rất nhiều đất ể các nhà khoa học, nhà nghiên cứu có cơ hội để minh chứng, dẫn giải cho luận điểm của mình. Vì thía, rất mong anh có thể khẳng định những luận đểm của mình là đúng bằng cách minh chứng cho người ta thấy: TÔI NÓI CÓ CƠ SỞ chứ không phải TÔI THÍCH GÌ NÓI ĐẤY. Thứ hai, sếp rất mong anh làm rõ cho kết bài sao cho nhấn mạnh rằng: Cơ hội cho kinh tế tư nhân thực sự như thế nào trong quá trình tái cơ cấu.”

Tớ nghe đồng chí PGS. TS. Tổng biên tập XYZ phê phán như vậy nên hãi quá, chẳng dám ho he tranh luận, sửa chữa gì nữa vì ngay cả đến kỹ năng viết lách cơ bản mà tớ còn không nắm được, viết để đến nỗi đồng chí XYZ này thấy tớ THÍCH GÌ NÓI ĐẤY mà chẳng dựa trên cơ sở gì. Tớ đành phải lẳng lặng gửi bài sang tờ Đại biểu Nhân dân. May quá, các đồng chí bên đó không biết chuyện và cũng khá dễ tính với tớ nên nhận lời đăng mà không vặn vẹo, phê phán này kia (chắc vì không phải là PGS. TS.). Thật hú vía!  Lần sau chắc tớ có gửi đăng bài ở báo nào thì phải điều tra trước xem báo đó có đồng chí PGS. TS. nào không thì mới dám gửi.
---------------------------------------------------

Tái cơ cấu kinh tế và cơ hội cho kinh tế tư nhân

08:34 | 30/06/2012
Lại thêm một lần nữa nhu cầu cấp thiết của tinh thần “đổi mới hay là chết” được đặt ra, nhưng lần này là dưới một tên gọi khác thời thượng hơn, TÁI CƠ CẤU KINH TẾ, mặc dù về bản chất thì cũng như nhau.

Nguồn: ITN
Cần nhận thấy rằng đã có rất nhiều ý kiến liên quan đến vấn đề tái cơ cấu kinh tế, nhưng xem ra chuyện tái như thế nào chưa được nhận thức thật đầy đủ và đưa vào chương trình hành động một cách đúng đắn và hợp lý. Chính phủ là nơi chịu trách nhiệm soạn thảo và đệ trình một bản đề án tái cơ cấu. Mặc dù có một đội ngũ chuyên gia và tư vấn hùng hậu nhưng những bản dự thảo của Chính phủ luôn vấp phải những chỉ trích, phê bình tuy nặng nề song không ít trong số chúng là hợp lý, chính xác.
Vấn đề nhận thức và hành động liên quan đến tái cơ cấu nêu trên rất quan trọng vì nó sẽ quyết định xu hướng ảnh hưởng của tái cơ cấu kinh tế nói chung lên thành phần kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong thời gian tới.
Cụ thể hơn, trước tiên, vai trò và số phận của khu vực kinh tế tư nhân sẽ phụ thuộc vào việc khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) sẽ được đối xử thế nào trong chương trình tái cơ cấu kinh tế mà giả sử là sẽ đạt được sự đồng thuận cao và bắt đầu được tiến hành trong thời gian tới. Một khi số phận của một nền kinh tế nào đó vẫn được đặt vào trong tay một chủ thể kinh tế nhất định nào đó một cách hợp pháp hoặc ngầm định bằng những ưu đãi cụ thể (được ưu tiên tiếp cận các nguồn lực hữu hạn) thì các chủ thể kinh tế khác sẽ bị cạnh tranh một cách bất bình đẳng và hậu quả đương nhiên là các chủ thể kinh tế này sẽ phải co lại một cách tương đối.
Ở Việt Nam, nếu vai trò chủ đạo, dẫn dắt nền kinh tế của DNNN vẫn được nhấn mạnh trong chương trình tái cơ cấu kinh tế tới đây thì các thành phần kinh tế khác bao gồm khu vực kinh tế tư nhân sẽ còn bị vòng kim cô xiết chặt. Sẽ có không ít người đưa ra ý kiến rằng tái cơ cấu là nhằm “nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN” và nhờ đó sự tiếp tục tồn tại ở vai trò chủ đạo của DNNN không những là điều hợp lý mà còn là cần thiết. Tuy nhiên, cứ giả thiết rằng tái cơ cấu kinh tế quả thật mang lại hiệu quả cao hơn cho DNNN thì cái vòng kim cô kia vẫn sẽ tồn tại và các doanh nghiệp phi nhà nước sẽ còn èo uột bên cạnh các DNNN hồng hào vì được cấp đủ dinh dưỡng (hữu hạn).

Nếu việc tái cơ cấu kinh tế không được suôn sẻ như chủ trương và kỳ vọng, dẫn đến tình trạng DNNN tiếp tục là con nợ của nền kinh tế thì tình trạng của các doanh nghiệp phi nhà nước càng trở nên bi đát hơn khi bị các DNNN kéo xuống hố cùng chung số phận với cả nền kinh tế.
Tái cơ cấu kinh tế còn ảnh hưởng đến kinh tế tư nhân nếu nhìn từ góc độ tái cơ cấu lĩnh vực tài chính, ngân hàng, một bộ phận thứ hai trong chương trình tái cơ cấu kinh tế. Tái cơ cấu ngân hàng vẫn dường như thiên về việc sáp nhập các ngân hàng với nhau nhằm giảm đi số lượng ngân hàng được phân loại yếu kém, đồng thời tạo ra những ngân hàng quốc doanh lớn hơn rất nhiều, thậm chí mang tầm cỡ quốc tế. Cả 2 việc này đều xuất phát từ những nhận thức không hợp lý. Việc sáp nhập các ngân hàng yếu với nhau hoặc với ngân hàng mạnh tuy có làm biến mất một số cái tên ngân hàng có “vấn đề” nhưng “vấn đề” đó sẽ không tự nhiên biến mất mà chỉ chạy từ chỗ này sang chỗ khác. “Vấn đề” lớn nhất chính là cục nợ xấu to tướng trong cả hệ thống ngân hàng sẽ không mất đi đâu cả mà vẫn nằm chình ình ở đó. Vì nó mà hệ thống ngân hàng sẽ tiếp tục co cụm lại để xử lý nợ xấu (đôi khi mất đến nhiều năm) mà không dám, không mặn mà với việc cho vay ra nền kinh tế. Kết cục là mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân sẽ bị ảnh hưởng trước tiên vì bản chất thấp cổ bé họng của chúng trong việc tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Việc tạo ra các siêu ngân hàng quốc doanh xem ra cũng chỉ xuất phát từ tư tưởng phải có một nắm đấm càng to càng tốt để đấm được thiên hạ nhằm tạo lợi thế lấn át cho mình. Nội cái chuyện to luôn là khỏe đã là một dấu hỏi to đùng nên việc theo đuổi chương trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng kiểu này trở thành rất mạo hiểm. Một trong những ngầm ý sâu xa đằng sau cái chủ trương này, ngoài chuyện đảm bảo cho hệ thống ngân hàng quốc doanh đủ tiềm lực để chi phối hệ thống ngân hàng theo ý đồ của Chính phủ, có lẽ còn là để nhằm tạo ra một hậu thuẫn vững chắc về nguồn vốn to lớn cho các tham vọng phát triển của Chính phủ được tập trung vào trong tay DNNN.
Nói cách khác, tư tưởng cố hữu cần phải có các DNNN trong các lĩnh vực then chốt, mà trong ngành ngân hàng chính là các ngân hàng quốc doanh lớn, để can thiệp và điều khiển nền kinh tế theo ý muốn dường như vẫn còn nguyên đó. Ngoài ảnh hưởng tiêu cực trực tiếp của chủ trương này lên toàn bộ nền kinh tế nói chung (ví dụ, nền kinh tế tiếp tục mất lợi thế cạnh tranh vì các nguồn lực được phân phối theo ưu tiên nhiệm vụ), khu vực kinh tế tư nhân cũng sẽ là nạn nhân gián tiếp của chủ trương này khi nguồn vốn tín dụng tập trung trong tay các ông lớn ngân hàng quốc doanh với thị phần càng ngày càng lấn át và với khách hàng truyền thống và ưa thích (hay được khuyến khích) vẫn là các DNNN.

Một cấu thành quan trọng khác trong tái cơ cấu kinh tế được xác định là tái cơ cấu đầu tư công. Ảnh hưởng của việc tái cơ cấu đầu tư công lên khu vực tư nhân có thể diễn ra ở cả hai khía cạnh tích cực và tiêu cực, tất nhiên vẫn tùy thuộc phần lớn vào nhận thức và thái độ hành xử của nhà nước trong quá trình thực thi.

Trường hợp đầu tiên có thể xảy ra là đầu tư công bị thắt lại (ở mức tương đối so với GDP) nhằm đảm bảo thâm hụt ngân sách ở mức an toàn và với giả thiết là được sử dụng ở mức có hiệu quả hơn (tức là giảm đi phần mất mát do lãng phí và tham nhũng) nhờ các biện pháp cải cách và tăng cường minh bạch trong đầu tư công. Tùy thuộc vào mức độ cắt giảm tương đối và sự cải thiện hiệu quả mà đầu tư công có thể tăng lên hoặc giảm đi về mặt tuyệt đối. Với giả thiết là hiệu ứng lan tỏa từ đầu tư công ra toàn bộ nền kinh tế nói chung và khu vực tư nhân nói riêng không thay đổi thì sự tăng lên hay giảm đi về mặt tuyệt đối của đầu tư công sẽ kích thích hoặc thu hẹp tương ứng tác động lan tỏa lên khu vực tư nhân. Khả năng xấu nhất sẽ xảy ra khi mà đầu tư công bị thắt lại cả về mặt tương đối và tuyệt đối và (vì thế) được nhà nước xác định ưu tiên dành cho, hoặc đầu tư thông qua các DNNN. Khi đó đương nhiên khu vực tư nhân sẽ chẳng còn được hưởng mấy lợi ích từ đầu tư công.
Trong trường hợp đầu tư công vẫn đứng ở mức cao cả tuyệt đối và tương đối so với GDP (trong một thời gian nhất định) và với hiệu quả được nâng lên, nếu nhà nước đối xử bình đẳng hơn với các doanh nghiệp tư nhân thì hiệu ứng lan tỏa từ công cuộc tái cơ cấu đầu tư công lên khu vực tư nhân sẽ lớn hơn. Tất nhiên, nếu DNNN tiếp tục được xác định là đối tượng được ưu tiên trong việc lựa chọn tiến hành các dự án đầu tư công thì lợi ích mang lại từ tái cơ cấu đầu tư công cho doanh nghiệp tư nhân sẽ chẳng còn là bao.

Tóm lại, điểm qua 3 lĩnh vực chính sẽ diễn ra tái cơ cấu ta có thể thấy quan niệm của những nhà làm chính sách về vai trò của DNNN trong nền kinh tế sẽ quyết định phạm vi và chiều hướng ảnh hưởng của tái cơ cấu nền kinh tế nói chung lên khu vực kinh tế tư nhân. Chừng nào mà DNNN còn được xác định là quả đấm, là công cụ điều tiết vĩ mô, có vai trò chủ đạo, dẫn dắt toàn bộ nền kinh tế thì chừng đó vai trò và tầm quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân còn lu mờ, èo uột. Ngay cả khi có chủ trương tăng tính minh bạch, hiệu quả hoạt động của DNNN thì điều này thực tế cũng khó xảy ra và vì thế cũng không giúp gì cho khu vực tư nhân, đơn giản vì nếu buộc phải cạnh tranh với các doanh nghiệp khác một cách bình đẳng thì chẳng DNNN nào thực hiện được tốt cả 2 vai, vừa kinh doanh có lãi, lại vừa thực hiện được vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô (phi lợi nhuận) cả.

Tuesday 26 June 2012

Cải cách tiền lương nên bắt đầu từ đâu?

Tớ sẽ dùng lại giọng điệu trong entry này để trả lời câu hỏi trên, nhân đọc một bài báo rất thú vị hôm nay. Bài báo cho biết tại xã Quảng Vinh trong Thanh Hóa có 9.500 dân mà có tới 500 cán bộ đủ các loại, tức chiếm hơn 5% dân trong xã. Trong số 500 cán bộ này có rất nhiều loại thuộc các tổ chức chính quyền, đoàn, đảng, xã hội v.v...

Tạm gác lại những con số thống kê trên, ta quay sang chuyện đau đầu làm thế nào để công chức, viên chức hưởng lương ngân sách sống được bằng lương. Chuyện này có từ lâu và được đưa ra bàn đi tính lại không dưới dễ có đến trăm lần, hết đợt này đến đợt khác, năm này qua năm khác. Điều đáng nói là người ta cứ loay hoay bàn chuyện lấy nguồn đâu để tăng lương, rồi tinh giản biên chế v.v... Có người còn mạnh miệng tuyên bố rằng cần cắt giảm 2/3 số lượng nhân viên hưởng lương vì chỉ có khoảng 1/3 là biết làm và làm được việc. Nghe thì rất mạnh mẽ, xác đáng.
Nhưng có điều cốt yếu mà người ta cố tình hoặc “vô tình” quên đó là ngân sách nhà nước phải nuôi báo cô một đội ngũ khổng lồ công chức, viên chức làm trong các tổ chức xã hội, đảng, đoàn thể, mà ở các nước khác lẽ ra phải là các tổ chức dân sự, tự thành lập, tự chịu trách nhiệm hoạt động, tự kiếm tiền mà tồn tại, mà trang trải các chi phí từ trụ sở, nhân viên, đến trăm thứ bà rằn khác. (Sẽ có người nói rằng sự tồn tại của những tổ chức này là cần thiết. Vâng, cần thiết với một số người thôi, chứ không phải là với cả quốc gia này, chắc chắn thế!)

Con số này ở Việt Nam tớ chẳng biết cụ thể là bao nhiêu, nhưng cứ như bài báo trên thống kê thì quả là một tỷ lệ khủng (tớ đọc mà cứ hoa hết cả mắt, ù cả tai vì không thể cộng nổi cụ thể là bao nhiêu nữa). Từ ví dụ ở một xã nhỏ như vậy mà suy ra cho cả nước thì tuy không thể nói chính xác nguồn kinh phí hàng năm ngân sách nhà nước cần phải rót là bao nhiêu nghìn tỷ cho những người, những tổ chức này, nhưng cũng có thể hình dung rằng con số này sẽ là một con số khổng lồ. Nếu cắt giảm được một bộ phận ăn bám ngân sách này thì chẳng cần phải loay hoay với chuyện tinh giản biên chế (tinh giản được một người thì lại phình ra một tổ chức, phòng ban, vụ cục khác với biên chế hàng chục, hàng trăm người), tiền lương cho phần còn lại tất yếu sẽ tăng lên cho dù quỹ lương có không thay đổi.
Tóm lại, câu trả lời cho câu hỏi trên là hãy cắt bỏ ngay càng nhiều càng tốt, càng sớm càng tốt tất cả các tổ chức ăn bám ngân sách nhà nước nói trên.

Friday 22 June 2012

Xử lý nợ xấu

Hôm nay tớ được một đồng chí bạn đọc blog gửi email đề nghị tớ viết cái gì đó về nợ xấu và thành lập công tu mua bán nợ xấu ở Việt Nam. Tớ khá là cảm kích với sự quan tâm của các đồng chí bạn đọc như thế này nên cũng cố ngồi vắt óc viết sơ sơ một cái gì đó có liên quan.

----------------------------------------------------------------------------------------
Tớ mới về Hà Nội công tác 2 tuần trước, được gặp hẳn mấy đồng chí ở trên trung ương, thuận đà tiến bèn gặp luôn cả một đồng chí không-phải-là-Việt-Nam ở WB để làm một cuộc điều tra nhanh về kinh tế vĩ mô nói chung và nợ xấu nói riêng.
Kết luận có thể nói thế này, hiểu biết về xử lý nợ xấu của các cơ quan hữu trách ở Việt Nam còn khá hạn chế. Thậm chí bọn tớ còn được hỏi kinh nghiệm xử lý nợ xấu ở Nhật như thế nào và có muốn mua nợ xấu hay không.

Nợ xấu mới là phần chìm của tảng băng cần phải e sợ và đặc biệt chú ý, chứ không phải là phần nổi của tảng băng gồm toàn những tiến triển tốt về các chỉ số kinh tế vĩ mô, vốn làm cho không chỉ các đồng chí Việt Nam mà còn nhiều đồng chí không phải Việt Nam rất khoái và lạc quan hơi quá sớm, điển hình là đồng chí S&P đã nhanh nhẩu sửa lại triển vọng cho kinh tế Việt Nam từ tiêu cực sang ổn định. Còn các đồng chí Việt Nam thì tích cực hết sức có thể xoay ngược 180 độ các chính sách của mình để tiếp tục đổ tiền vào nền kinh tế vực dậy tất cả các cái có thể vực được ngay, càng nhanh càng tốt, mà như đồng chí ở WB gọi là crazy.

Cái mà tớ lo rằng các đồng chí xếp hạng tín dụng khác có thể tỉnh táo hơn và khi đã khẳng định được mức độ tồi tệ của nợ xấu thật sự ở Việt Nam (có thể trên 10% như đồng chí Bình công bố) thì họ sẽ có hành động đánh tụt xếp hạng tín dụng của Việt Nam xuống, gây ra hậu quả không khác gì cái đang xảy ra ở châu Âu. Trong số này có đồng chí Moody’s, là đồng chí mà bọn tớ đã từng phỏng vấn hồi năm ngoái để tìm hiểu thêm về khả năng/lý do xem xét khi tăng hay hạ hạng tín dụng của Việt Nam. Ngay cả đồng chí S&P cũng có thể “lật lọng” khi thấy quả thật tình hình không được khả quan như đồng chí ấy tưởng bở lúc trước.
Tớ cũng được biết việc xử lý nợ dựa vào 4 giải pháp: cho sát nhập ngân hàng yếu với nhau hoặc ngân hàng yếu vào ngân hàng khỏe; SBV bỏ tiền tái cấp vốn để nắm cổ phần trong ngân hàng; cho ngân hàng nước ngoài mua cổ phần ngân hàng có vấn đề; thành lập công ty mua bán nợ quốc gia.

Giải pháp đầu tiên đang tù mù mặc dù SBV luôn “đe” rằng sẽ có từng này từng kia ngân hàng được sát nhập trong quý 1 rồi quý 2 rồi... chẳng thấy gì! Và như tớ đã nói nhiều lần rằng sát nhập các ngân hàng, kể cả kẻ yếu vào với kẻ mạnh, cũng chẳng làm tiêu được cái cục nợ xấu, đâu vẫn còn đó.
Giải pháp thứ hai thì gặp phải ụ đất to đùng chắn đường, đó là cái túi ngân sách mỏng dính và áp lực dư luận không cho phép sử dụng công quỹ để cứu trợ các bạn ngân hàng vốn tòan thấy báo lãi lớn. Nếu SBV phát hành tiền để tái cấp vốn thì hậu quả lạm phát sẽ xảy đến.

Còn giải pháp thứ ba thì có vẻ khả thi hơn và có vẻ được chú trọng hơn. Tớ không rõ lắm là tình hình đang đi đến đâu nhưng e rằng trên thực tế nó cũng chẳng dễ dàng gì vì phải vượt qua nhiều trở ngại như tâm lý sợ sự đô hộ của nước ngoài v.v...
Vậy chỉ còn lại giải pháp thứ tư, thành lập công ty mua bán nợ xấu trực thuộc SBV. Giải pháp này, căn cứ vào thái độ của SBV, có thể đoán rằng sẽ được chọn làm giải pháp chính. Tuy vậy, vấn đề quan trọng hơn là nguồn vốn ở đâu ra. Xem ra ý kiến đa phần nghiêng về việc SBV hoặc nhà nước bỏ vốn ra. Mà thế thì cũng chẳng khác mấy với việc tái cấp vốn cho và thâu tóm cổ phần của các ngân hàng có vấn đề. Trong khi đó thì tội đồ - các ngân hàng – lại chẳng có vẻ gì là sẽ bị trừng phạt vì tội lỗi phần lớn là do mình gây ra, còn đống tài sản xấu sau khi mua xong chắc chắn gần như sẽ trở thành một mớ giấy lộn trong một thời gian bất định.

Tóm lại, xử lý nợ xấu chỉ có một số cách và chắc chắn là việc dọn dẹp đống nợ xấu của Việt Nam sẽ còn phải tốn thêm một số năm nữa, với tổn thất không nhỏ cho ngân sách cứ theo cách hiện hành. Như tớ đã viết trong một entry trước, nhà nước có thể cần phải hy sinh một chút (về tổn thất ngân sách) vì đại cục (không làm đám cháy nhà thằng hàng xóm đốt rụi mọi thứ trong làng, gồm cả nhà mình) nhưng đồng thời cũng cần phải buộc thằng hàng xóm đó lôi hết của cải trong nhà ra mà thuê người chữa cháy.

Sunday 17 June 2012

Không kêu cũng thiệt


Dạo này rỗi rãi quá nên đâm lười nghĩ, chẳng muốn viết, biết viết cái gì. Thôi đành làm những bài mì ăn liền như kiểu bài này để cho não động đậy một chút.

Trong entry này tớ tiên đoán rằng thế nào cũng sẽ có hàng loạt tiếng kêu cứu thống thiết đòi hỏi Chính phủ phải cứu cái này, cái kia. Nay thì tình hình có lẽ không khác biệt là mấy, khi hầu như điểm ra chẳng có mấy ngành là không kêu cứu. Nhân điểm báo hôm nay, trong cùng ngày mà tớ thấy 2 bài báo kêu cứu 2 ngành chăn nuôi và trồng dừa. Ngoài ra, trong nông nghiệp thì ngoài dừa, chăn nuôi, lại đến nuôi và chế biến xuất khẩu cá tra, tôm, cua rồi lúa, dứa, khoai v.v... Trong công nghiệp thì có nào là ngành thép, xi măng, vật liệu xây dựng, ôtô, xe máy, đóng tầu v.v... Trong khai khoáng thì có than đang kêu ế trong nước, xuất khẩu lại gặp khó về giá. Trong xuất khẩu thì có kêu than về giá cước vận chuyển tầu biển (mà lạ, lúc giá cước xuống đến đáy và ở mức thấp cách đây đến cả năm trời thì không thấy ai kêu thay cho nhà tầu). Ngay trong ngành tài chính ngân hàng cũng không hiếm tiếng kêu, từ công ty chứng khoán sắp phá sản hết, đến ngân hàng than khó vì kiếm lãi ngày càng khó v.v...

Nếu các đồng chí trong Chính phủ “luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu” thì chắc các đồng chí này phải là Tề thiên Đại thánh có phép thần thông mới biến “luôn luôn thấu hiểu” thành hành động cách mạng được. Nghĩ cũng tội cho các đồng chí Chính phủ người trần mắt thịt. Nhưng căn cứ vào tấm gương sáng của một số ngành/doanh nghiệp đã thành công trong việc lay động lòng... Chính phủ bằng những hành động cụ thể “tháo gỡ khó khăn”, các ngành/doanh nghiệp khác nghĩ ra chẳng tội gì không kêu để nhỡ đâu các đồng chí trong Chính phủ sợ quá mà phải tiếp tục mở lòng từ bi hải hà.

Việc còn lại chỉ là làm thế nào để kêu thật to, thật thống thiết và trên hết là có cái gì gì đó gắn kết được với các đồng chí trong Chính phủ thì rất có khả năng sẽ ô kê.

Saturday 9 June 2012

Ủy ban Kinh tế Quốc hội xem ra có khi nên tự giải tán thì hơn


Trong entry trước tớ có viết về chuyện UBKT đang làm một cái việc chẳng có tính hiện thực tẹo nào khi đề xuất không nên tiếp tục xem xét DNNN là công cụ điều tiết vĩ mô. Rồi hồi cuối năm trước nữa, UBKT cũng lại là nơi đề xuất thành lập Ủy ban Tái cấu trúc kinh tế (hay cái gì đó đại loại vậy).

Nếu như cái đề xuất thứ hai ở trên (thành lập UB Tái cấu trúc) đã bị chính bản thân tớ phản đối trong một bài viết trên Đại biểu Nhân dân, và sau đó thì bị thêm đồng chí Thủ tướng anh minh lỗi lạc của chúng ta bồi thêm cho một cú quyết định nữa bằng lời phủ định không thể rõ ràng hơn, thì cái đề xuất đầu tiên (không coi DNNN là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô) xem ra số phận cũng chẳng có gì sáng sủa hơn.

Tối nay ngồi điểm báo tớ nhặt được cái tin đồng chí Bộ trưởng Tài chính Huệ, một khuôn mặt hết sức lỗi lạc và ưu tú khác trong dàn sao sáng quan chức Việt Nam, tuyên bố huỵch toẹt rằng tái cấu trúc kinh tế không phải là để triệt tiêu mà là làm cho DNNN mạnh lên. Đồng chí Huệ ưu tú mà nói vậy thì cầm chắc thêm rằng lời đề xuất của UBKT lại thêm một lần nữa thành trò cười, ít nhất là với Chính phủ.

Xem đi xem lại, tớ thấy quả thực là cái UBKT xem ra cũng chỉ khá hơn cái viện IDS gì gì đó ở mỗi cái chữ “tồn tại”.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).