Thursday 26 July 2012

Lại phải nhắc lại rằng UBKTQH nên giải tán đi

Trong cái entry trước tớ đã khuyến nghị Ủy ban Kinh tế Quốc hội (UBKTQH) nên tự giải tán vì đã có những kiến nghị... phạm húy liên quan đến doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Nay với cái việc đồng chí Thủ tướng kính yêu của chúng ta đã quyết định phê duyệt đề án “Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2011 - 2015”, trong đó DNNN vẫn được xác định là “làm nòng cốt để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng, điều tiết nền kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô”, là một cú tát trực diện vào cái kiến nghị phạm húy của UBKTQH thì cái sự "vô dụng" của UBKTQH càng trở nên rõ nét hơn bao giờ hết.

Điều khó hiểu là tại sao với một vấn đề đơn giản đến vậy (DNNN phải giữ vai trò chủ đạo), bản thân những người ấm ớ như tớ còn tiên đoán được là sẽ phải như vậy ở Việt Nam, mà UBKTQH còn cứ "cố đấm ăn xôi", khuyến nghị "lôi thôi" như vậy nhỉ?

Wednesday 25 July 2012

Từ câu hỏi của Thống đốc


Tại hội nghị kết 6 tháng đầu năm ngành ngân hàng địa bàn Hà Nội, một lãnh đạo doanh nghiệp cho biết: Tháng 12/2011, thị trường xuất hiện tin đồn tỷ giá USD/VND sẽ tăng mạnh, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu găm USD lại, thậm chí còn vay VND thay vì chuyển đổi cho sản xuất kinh doanh. Nhưng rồi, tỷ giá không tăng, thậm chí cuối năm 2011 đầu 2012 còn chứng kiến đà sụt giảm mạnh, có những ngày giá ngân hàng mua vào thấp hơn giá bán ra tới 300 VND… Những doanh nghiệp găm USD trước đó thiệt hại lớn.

Trước thông tin trên, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình hỏi lại rằng: “Tại sao không nghe Thống đốc? Tôi lấy sinh mạng chính trị của mình để nói, thế sao không tin? Hãy tin và nghe Thống đốc, làm theo chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước. Bao giờ cũng nói trước khi làm, làm đúng như nói…”.

Ông Bình có thể có lý do để “tức khí” mà “độp” lại những doanh nghiệp kiểu trên vì “dám” không tin vào lời nói của ông, vì ông có thể đúng là kiểu người nói là muốn làm, và sẽ làm thật.

Nhưng cũng phải đứng từ góc độ doanh nghiệp và người dân để hiểu tại sao lại có sự bất tin, bất tin như vậy vào các chính sách của Ngân hàng Nước ngoài (NHNN) nói riêng và Chính phủ nói chung.

Trong thực tế, không ít sự kiện “nói một đằng, làm một nẻo” đã xảy ra ở NHNN, không nhất thiết là chỉ xảy ra ở thời ông Bình. Còn nhớ, đã có thời điểm người đứng đầu NHNN tuyên bố không điều chỉnh tỷ giá thì một vài ngày sau, tỷ giá đã được điều chỉnh tăng mạnh (phá giá tiền đồng) lên đến cả nghìn đồng một đôla, châm ngòi cho cơn xáo trộn trong xã hội.

Ngoài chuyện “nói một đằng, làm một nẻo” kiểu này thì còn có chuyện “nói là một chuyện, có làm được hay không là chuyện khác”. Nhiều khi bản thân Thống đốc thực sự muốn làm một cái gì đó đúng như ông tuyên bố nhưng thực tế đơn giản là không chiều lòng ông. Ví dụ chuyện bình ổn giá vàng. Giá vàng trong nước lên xuống như ngựa phi và thường chênh lệch lớn so với giá vàng thế giới, gây ra những cơn sốt giá trong nước, làm béo dân đầu cơ. Đứng trước tình hình này, dễ hiểu tại sao Thống đốc đi đến tuyên bố sẽ “neo” giá vàng trong nước chênh lệch so với thế giới ở khoảng cách không quá 400.000 đồng. Nhưng rồi thực tế chứng minh rằng sau hàng loạt những giải pháp với chính sách, thị trường vàng vẫn hỗn loạn và tuyên bố của Thống đốc rằng giá vàng trong nước không chênh lệch quá 400.000 đồng so với giá vàng thế giới hóa ra chỉ là “nói để mà nói” thế thôi.

Thêm một kiểu nói nữa của NHNN cũng gây ra sự bất tín, bất tin trong dư luận mà ta có thể kể ra đây. Đó là kiểu nói mà không nhất thiết dẫn đến kết quả như nói. Ví dụ điển hình cho kiểu nói này là những tuyên bố chắc nịch của NHNN về tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém từ cuối năm ngoái. Đại loại, người ta được biết rằng NHNN sẽ sáp nhập gần chục các ngân hàng yếu kém ngay trong quý I và quý II năm nay. Nhưng rồi đã hết quý II mà mới chỉ có dăm ba ngân hàng được sáp nhập, và chương trình tái cơ cấu ngân hàng xem ra vẫn còn là một ẩn số lớn. Có thể có khó khăn, trở ngại lớn nào đó đằng sau hậu trường của việc sáp nhập, nhưng điều này chứng tỏ rằng giữa ý chí và năng lực hành động, cũng như kết quả thực tiễn luôn có một khoảng cách lớn, làm cho lòng tin trở thành một thứ mong manh trong bối cảnh này.

Sau cùng là chuyện minh bạch. Lẽ đương nhiên là có minh bạch thì mới gây được lòng tin, sự tín nhiệm, mới làm cho người ta tin tưởng. Nhưng xem ra điều này không được như ý ở NHNN. Ví dụ nổi bật là chuyện nợ xấu. Bản thân Thống đốc NHNN và các quan chức công bố các con số tỷ lệ nợ xấu khác xa nhau, mà nên lưu ý rằng chỉ mỗi phần trăm khác nhau về tỷ lệ nợ xấu cũng dẫn đến hàng chục nghìn tỷ đồng khác nhau về mức nợ xấu tuyệt đối, tương ứng là sự khác nhau về tính cấp bách và giải pháp xử lý nợ xấu.

Cứ cho là bản chất của sự việc là quá phức tạp, không thể nói chính xác, trước sau như một. Nhưng cho dù có như vậy thì điều này lại chứng tỏ rằng đôi khi NHNN tuyên bố một vấn đề gì đó mà thực ra là họ không hiểu hết, nắm hết, nắm chính xác được vấn đề. Suy tiếp ra rằng tuyên bố của họ có đúng sự thật hay không, có khả năng thành sự thật hay không lại là chuyện khác, có trời mới biết được.

Tóm lại, qua một số lý do như trên ta có thể lý giải tại sao lòng tin của công chúng, của doanh nghiệp vào các chính sách của NHNN nói riêng và Chính phủ nói chung lại giảm sút đến mức mà Thống đốc phải bật ra câu hỏi nghe khá là lạ lùng như vậy. Câu hỏi này thực ra Thống đốc có thể tự trả lời mình. Các lý do trên cũng là hướng NHNN cần giải quyết để chuyện bất tín, bất tin này giảm bớt (chứ khó mà hy vọng không tồn tại).

Friday 13 July 2012

Đừng tạo thêm những tín hiệu xấu! (Bai dang tren Dai bieu Nhan dan)

 
09:18 | 14/07/2012
Tại Hội nghị tổng kết ngành ngân hàng 6 tháng đầu năm vừa qua, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Văn Bình kêu gọi và chỉ đạo các ngân hàng nhanh chóng giảm lãi suất các món nợ cũ xuống. Theo đó, lãi suất đối với các khoản vay cũ (trước khi thực hiện cơ chế áp trần lãi suất cho vay) cần được giảm xuống chí ít là còn 15%/năm (bắt đầu từ 15.7), phấn đấu có được các mức thấp như mặt bằng các khoản vay mới hiện nay.
Lý giải cho hành động này, ông Bình giải thích: “Nếu doanh nghiệp đã khó khăn, không có khả năng trả nợ gốc thì việc ghi lãi suất cao không có ý nghĩa gì, nhưng gây phản cảm với xã hội. Còn với doanh nghiệp có thể vượt qua khó khăn mà vẫn duy trì lãi suất cao thì không phải là chia sẻ với doanh nghiệp”. Ông Bình chỉ đạo rằng ngành ngân hàng cần phải thẳng thắn nhìn lại đã hết lòng vì doanh nghiệp chưa, sát cánh cùng ngồi với doanh nghiệp để tháo gỡ khó khăn chưa? Ông cũng nhấn mạnh đây là trọng tâm trong thời gian sắp tới, để thị trường và dư luận thấy rằng ngành Ngân hàng đã có giải pháp kiên quyết hết sức thiết thực hỗ trợ khó khăn cho doanh nghiệp và nền kinh tế.
Sau một loạt những tuyên bố, nhận định và giải pháp (đa phần là hành chính), từ nhẹ đến nặng, từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng, xem ra tình hình cho vay và đi vay trong nền kinh tế vẫn chưa có mấy chuyển biến tích cực, đến nỗi NHNN phải áp dụng biện pháp áp trần cho cả lãi suất ở các khoản cho vay cũ, có hợp đồng tín dụng đàng hoàng, mang nặng tính pháp lý ràng buộc cho các bên liên quan mà nếu trong hoàn cảnh bình thường thì bất cứ vi phạm nào cũng có thể dẫn đến việc lôi nhau ra tòa được. Không hiểu rồi đây với kiểu quản lý theo mệnh lệnh, bất chấp các quy tắc và chế tài pháp lý như thế này, xã hội sẽ như thế nào.
Bởi vậy, nhìn nhận một cách khách quan, chưa cần phân tích lợi hại, thì hành động trên của NHNN là một giọt nước thêm vào bát nước đầy nỗi nghi ngờ rằng NHNN đã “hết thuốc” và tình hình trong ngành ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung cũng đã “hết thuốc”. Với những lý lẽ như trên của ông Bình, dường như người ta sẽ nghĩ rằng NHNN chỉ cốt lấy được tiếng tốt trong dư luận rằng đã có những chỉ đạo sát sao nhằm tích cực tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và nền kinh tế mà không mấy cân nhắc liệu có thực hiện được hay không, lợi hay hại đến mức nào cho lợi ích chung của cả nền kinh tế.
Mục đích theo thiết kế của hành động yêu cầu hạ lãi suất nói trên là để giảm khó khăn cho các doanh nghiệp và người đi vay trên diện rộng (tất cả mọi đối tượng), theo phương châm “doanh nghiệp có sống được thì ngân hàng mới sống được”. Về bản chất, hành động này cũng tương tự hành động yêu cầu xóa nợ (một phần) cho doanh nghiệp và người đi vay, bất kể lý do, bất kể đối tượng, bất kể hoàn cảnh v.v... Vậy, đối tượng đầu tiên bị ảnh hưởng đương nhiên là các ngân hàng thương mại khi phải cắt giảm lợi nhuận, thậm chí chịu lỗ cho các khoản vay cũ khi lãi suất huy động của họ cao hơn mức trần 15%.
Chắc người ta quên rằng ngân hàng thương mại cũng là một doanh nghiệp, phải huy động (và có nghĩa vụ thanh toán đầy đủ gốc và lãi) thì mới cho vay được, chứ không phải là một tổ chức từ thiện hoặc có nguồn vốn từ trên trời rót xuống. Và câu hỏi ngược tiếp theo là, tại sao lại (chỉ) yêu cầu ngân hàng “chia sẻ” khó khăn chung mà không phải là một ai, một tổ chức nào khác, bao gồm cả doanh nghiệp và người đi vay? Phải chăng tâm lý vốn coi ngân hàng là kẻ “có tiền” và tâm lý “nắm thằng có tóc” được áp dụng triệt để ở đây?
Có người lý luận rằng vốn các khoản cho vay trước đây dù ngân hàng thương mại có phải huy động với lãi suất cao nhưng đa phần là vốn ngắn hạn, trong khi hiện nay đi huy động trung và dài hạn ngân hàng chỉ phải trả lãi suất 9-10% nên ngân hàng vẫn có lãi lớn cho các khoản cho vay cũ. Lý luận kiểu này sai lầm ở chỗ vì là vốn ngắn hạn nên ngân hàng phải liên tục huy động gối đầu các khoản vốn ngắn hạn mới với lãi suất tại thời điểm huy động trước đây (ví dụ 6 tháng, 1 năm trước) vẫn cao hơn nhiều lãi suất huy động hiện thời. Nói cách khác, ở thời điểm trước đây ngân hàng vẫn phải huy động vốn với lãi suất cao, bất kể là dài hạn hay ngắn hạn, và cho vay dài hạn (kéo dài cho đến thời điểm này) nên nếu bị yêu cầu đồng loạt hạ lãi suất các khoản vay cũ thì đương nhiên ngân hàng thậm chí sẽ phải đối mặt với rủi ro mất vốn, chứ không chỉ là giảm lợi nhuận (vốn cũng chỉ ở mức khá khiêm tốn, như thống kê mới công bố gần đây của NHNN, chứ hoàn toàn không “khủng” như những gì dư luận vẫn nhìn nhận). Mà hậu quả này thì cũng tương đương với hậu quả của việc nợ xấu tăng lên do một số doanh nghiệp nào đó không trả được nợ. Nếu có thể cân đong đo đếm được thì thậm chí có khả năng tổng giá trị nợ bị xóa đi theo kiểu này ở một số ngân hàng, nếu làm ráo riết, nghiêm chỉnh theo chỉ đạo, còn lớn hơn cả tổng số nợ xấu của họ.
Đối với doanh nghiệp và người đi vay, thoạt nhìn, đương nhiên họ là người được hưởng lợi vì được xóa một phần nợ như nói trên, theo nguyên tắc cào bằng, bất kể họ là ai, làm ăn thế nào, vay để làm gì v.v... Và thay vì phải dùng đến ngân sách nhà nước để xóa nợ (vốn chẳng lấy đâu ra) hoặc phát hành tiền (vốn sẽ gây lạm phát), NHNN đã đá quả bóng trách nhiệm này cho khối ngân hàng thương mại, để họ tự xoay sở với việc “cứu tế” này, còn NHNN vẫn được tiếng thơm là đã thấu hiểu và chia sẻ khó khăn chung của nền kinh tế.
Nhưng xét cho cùng, doanh nghiệp và người đi vay nói trên cũng sẽ là người gánh chịu hậu quả gián tiếp vì, như đã phân tích, các ngân hàng bị cụt vốn, suy giảm lợi nhuận (tương tự như khi phải gánh một gánh nặng nợ xấu) sẽ buộc phải co cụm lại và/hoặc tìm cách tăng lãi suất cho vay các khoản mới, và/hoặc nâng/duy trì điều kiện cho vay ngặt nghèo, càng làm hạn chế khả năng tiếp cận vốn tín dụng mới và với lãi suất thỏa đáng của giới doanh nghiệp và người đi vay, kể cả những đối tượng được giảm lãi suất cho các khoản vay cũ. Trần lãi suất cho vay trong trường hợp này cũng chẳng có tác dụng gì và có thể lách qua được không mấy khó khăn, nếu ngân hàng thực sự không muốn cho vay tại lãi suất bằng hoặc thấp hơn trần lãi suất cho vay.
Thêm nữa, chẳng có gì đảm bảo rằng doanh nghiệp và người đi vay trước đây nếu được “giải cứu” sẽ tiếp tục vay thêm (vay để làm gì khi đụng vào đâu cũng thấy khó khăn), và đủ điều kiện để vay thêm (ví dụ, có tài sản thế chấp). Vì thế, nếu chỉ trông chờ vào biện pháp này thì tín dụng cũng khó có cơ mà tăng trưởng như mong muốn được. Mà như thế cũng có nghĩa là cả nền kinh tế sẽ chịu lây hậu quả.
Trên hết, chắc NHNN cũng hiểu rõ và cũng chứng kiến hiệu quả nhỏ nhoi của các biện pháp hành chính của mình, từ trần lãi suất huy động đến trần lãi suất cho vay v.v... trong khi cái giá phải trả là sự rối ren, bất an, bất tín trong dư luận, và sự phình to của bộ máy quản lý hành chính chỉ để rình rập, theo dõi, giám sát và đôn đốc thực hiện các biện pháp hành chính mà rốt cục đâu vẫn hoàn đấy.
Như vậy, trong hoàn cảnh khó khăn như hiện nay, một trong những điều cần và nên làm là giảm thiểu những hành động can thiệp mà biết chắc chắn là sẽ không mang lại mấy hiệu quả tích cực ngoài những hậu quả tiêu cực hiển nhiên.

Wednesday 11 July 2012

Trao đổi: Khác biệt trong phân loại nợ xấu ở Việt Nam (Bai dang tren Dai bieu Nhan dan)

 
Trao đổi

Khác biệt trong phân loại nợ xấu ở Việt Nam

08:36 | 12/07/2012
Có sự khác biệt rõ ràng giữa con số về quy mô nợ xấu của Việt Nam do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hoặc các ngân hàng thương mại Việt Nam công bố và với cũng con số đó nhưng là của các tổ chức nước ngoài công bố. Sự khác biệt lớn này là do việc phân loại nợ xấu ở Việt Nam của NHNN và/hoặc các ngân hàng thương mại dựa vào Tiêu chuẩn Kế toán Việt Nam (VAS) trong khi các tổ chức quốc tế sử dụng Tiêu chuẩn Kế toán Quốc tế (IAS) để phân loại nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam.
Cũng cần nhấn mạnh rằng, không có một tiêu chuẩn toàn cầu nào dùng để phân loại nợ xấu trên thực tế cả. Nhưng hiện nay hệ thống phân loại nợ xấu của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) thành 5 nhóm: Không vấn đề; Chú ý đặc biệt; Dưới chuẩn; Nghi ngờ; Mất vốn là hệ thống phân loại nợ xấu được sử dụng rộng rãi nhất. Trong một số trường hợp khác, người ta sẽ áp dụng hệ thống báo cáo kép theo vừa theo chủ trương chính sách trong nước, vừa theo phương pháp phân loại của BIS.
Theo phương pháp của BIS thì nợ xấu được phân loại cụ thể như sau:
1. Không vấn đề: là các khoản cho vay sẽ thu hồi được.
2. Chú ý đặc biệt: là các khoản cho vay các doanh nghiệp có thể có khó khăn khi thu hồi nợ, ví dụ, do tiếp tục sản xuất kinh doanh thua lỗ.
3. Dưới chuẩn: là các khoản cho vay mà tiền trả lãi và gốc bị nợ quá hạn trên 3 tháng. Các ngân hàng phải trích lập dự phòng 10% trên phần vốn cho vay không được bảo đảm và được xác định là dưới chuẩn.
4. Nghi ngờ: khả năng tất toán toàn bộ khoản cho vay tỏ ra đáng nghi ngờ, cho thấy có khả năng sẽ mất vốn, tuy nhiên mất bao nhiêu thì chưa rõ. Các ngân hàng phải trích lập dự phòng 50% cho các khoản vay nghi ngờ này.
5. Mất vốn thật sự và không có khả năng thu hồi: các khoản cho vay này được coi là không có khả năng thu hồi. Thường là các khoản vay cho các doanh nghiệp đang tiến hành các thủ tục pháp lý để được bảo vệ theo luật phá sản. Các ngân hàng trích dự phòng 100% cho các khoản vay này.
Nợ xấu được định nghĩa là các khoản cho vay rơi vào 3 nhóm cuối cùng trong hệ thống phân loại 5 nhóm nói trên của BIS. So sánh với phương pháp phân loại theo thông lệ quốc tế dựa trên IAS thì phương pháp phân loại của Việt Nam dựa trên VAS có một khác biệt rất quan trọng. Đó là, hiện tại, chỉ có phần vốn đã đến hạn thanh toán (trong một khoản cho vay nào đó) mà không có khả năng thu hồi lại được thì các ngân hàng thương mại Việt Nam mới phân loại phần vốn thất thu này, chứ không phải là toàn bộ khoản cho vay đó, thành nợ xấu. Nếu sử dụng IAS thì toàn bộ khoản cho vay đó sẽ bị liệt vào nợ xấu.
Ngoài sự khác biệt về tiêu chuẩn kế toán nói trên, nhiều ngân hàng thương mại hiện nay sử dụng các phương pháp định lượng để phân loại nợ của mình mà không quan tâm đến các yếu tố định tính, ví dụ như vị thế tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, vì thế không phản ánh được chất lượng thật sự của khoản vay của doanh nghiệp đó.
Mặc dù cả 2 phương pháp định tính và định lượng đều đã được NHNN quy định rõ trong Quyết định 493 năm 2005 về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng, nhưng hiện tại chỉ có một số ít ngân hàng thương mại Việt Nam áp dụng cả 2 phương pháp này. Một lý do, để áp dụng được phương pháp định tính thì các ngân hàng thương mại phải xây dựng được hệ thống đánh giá tín nhiệm nội bộ vốn không dễ thực hiện. Lý do khác là vì Quyết định 493 không có các hướng dẫn rõ ràng về việc áp dụng phương pháp định tính. Nhưng lý do lớn nhất là do nếu áp dụng cả 2 phương pháp này đồng thời thì tỷ lệ nợ xấu sẽ tăng vọt, là điều không mấy ngân hàng thương mại nào mong muốn cả!
Ngoài ra, vì nợ xấu được coi là một điều “xấu” nên nhiều ngân hàng thương mại ở Việt Nam đã áp dụng các thủ thuật đảo nợ hoặc cố tình trốn tránh việc phân loại các món nợ của mình vào nhóm 3 đến 5 nói trên để có được một tỷ lệ nợ xấu “đẹp”.
Với những lý do trên, dễ hiểu tại sao tỷ lệ nợ xấu ở Việt Nam do NHNN và/hoặc các ngân hàng thương mại công bố (dựa trên VAS) thường khá “đẹp” (ví dụ tỷ lệ nợ xấu trong toàn hệ thống do NHNN công bố chỉ là 3,1% vào cuối năm 2011). Nếu dựa trên IAS, như tính toán của các tổ chức nước ngoài, thì con số này sẽ cao hơn nhiều lần (ví dụ, hãng xếp hạng tín nhiệm Fitch đưa ra con số tương ứng là 13% vào cuối năm 2011).
Đó là chưa kể nếu còn làm chặt chẽ bằng cách áp dụng cả phương pháp định tính và định lượng cũng như kiểm soát chặt chẽ chuyện đảo nợ hoặc phân loại nợ không nghiêm túc như nói trên thì con số tỷ lệ nợ xấu thực tế ở Việt Nam có lẽ còn cao hơn nhiều.

Friday 6 July 2012

Nợ xấu mới chỉ là một phần của câu chuyện (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân)

Lại thêm một lần nữa, nhiệm vụ trọng tâm trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam bị thay đổi, từ sáp nhập ngân hàng đã biến thành giải quyết nợ xấu. Nhưng giải quyết nợ xấu chỉ là một vế cho việc phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới. Vế quan trọng không kém là phải phục hồi được niềm tin của nhà đầu tư, đầu cơ và người tiêu dùng.
Chỉ mới mấy tháng trước đây, việc sáp nhập ngân hàng yếu kém với nhau hoặc với các ngân hàng khỏe hơn được coi là nhiệm vụ trọng tâm của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và toàn hệ thống ngân hàng để làm cái việc là, theo giải thích của NHNN, chấm dứt tình trạng chạy đua lãi suất giữa các ngân hàng nhằm kéo giảm lãi suất cho vay xuống. Chủ trương và hành động thời gian đầu thì rất quyết liệt, mạnh bạo, nhưng rồi càng về sau thì sự trễ nải càng lớn, và mọi việc trở nên dở dang, như dần rơi vào quên lãng.

Đến thời gian gần đây, nhiệm vụ trọng tâm lại biến thành giải quyết nợ xấu. Nợ xấu trong hệ thống ngân hàng đang được coi là cục máu gây tắc nghẽn nguồn cung tín dụng cho doanh nghiệp và người tiêu dùng ở Việt Nam. Tập trung giải quyết được cục nợ xấu, với con số tạm thời coi là chính xác từ NHNN là khoảng 10% tổng dư nợ trong hệ thống ngân hàng, tức tương đương khoảng trên 10 tỷ USD, được coi là nhiệm vụ then chốt, mang tính quyết định cho việc phục hồi tăng trưởng kinh tế trong nửa năm nay và sang các năm sau.

Lý giải cho việc này, các nhà chức trách cho rằng, một khi còn ôm một khối nợ xấu lớn thì các ngân hàng thương mại còn phải cắt giảm nguồn vốn sẵn có cho vay, hoặc còn ngần ngại không dám cho vay ra nền kinh tế, và cho vay với lãi suất hợp lý. Trong bối cảnh bị cục nợ xấu treo trên đầu, các ngân hàng thương mại vừa phải dành một tỷ trọng vốn nhất định để bổ sung vào quỹ dự phòng nợ xấu (và làm giảm lượng vốn có thể cho vay ra ngoài), vừa phải duy trì lãi suất tương đối cao để bù đắp lại phần thiếu hụt trong nguồn vốn có thể cho vay.
Lý giải trên là đúng, nhưng chưa đủ để cho rằng giải quyết được nợ xấu là chìa khóa cho mọi vấn đề, cho sự trì trệ của nền kinh tế Việt Nam hiện nay, theo cách dùng từ của một số người.
Các ngân hàng thương mại hiện nay không thể đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng không những chỉ bởi phải đối mặt với cục nợ xấu to đùng như nói trên mà còn vì nguồn cung tín dụng từ NHNN không thực sự dồi dào, ít nhất là cho không ít ngân hàng thương mại trong hệ thống, thể hiện ở việc lãi suất huy động vẫn còn cao, nhất là ở kỳ hạn trên 12 tháng là kỳ hạn thoát khỏi phạm vi kiểm soát của trần lãi suất. NHNN cũng có mối lo riêng của mình khi nỗi lo lạm phát quay trở lại nếu bơm tiền ra quá nhiều vẫn còn nguyên đó. Lãi suất huy động cao như vậy cũng là lý do để ngân hàng thương mại không thể hạ thấp hơn nữa lãi suất cho vay như kỳ vọng của NHNN và của khối doanh nghiệp và người tiêu dùng. Lãi suất vẫn còn ở mức cao tương đối như vậy đương nhiên sẽ không khuyến khích doanh nghiệp và người tiêu dùng vay nhiều hơn để đầu tư, mua sắm, đầu cơ.
Nhìn từ phía cầu tín dụng, trong bối cảnh nền kinh tế đang tăng trưởng chậm lại và triển vọng trong thời gian còn lại của năm nay sang năm sau không mấy rõ ràng, sáng sủa khi mà cuộc khủng hoảng nợ công ở khu vực EU và sự thăng trầm của các nền kinh tế lớn khác như Nhật, Mỹ, và ngay cả của Trung Quốc làm ta không mấy khó khăn để hình dung ra việc các doanh nghiệp và người tiêu dùng sẽ phải cắt giảm nhu cầu vay vốn cho đầu tư, đầu cơ, chi tiêu để phòng trường hợp xấu hơn sẽ xảy ra và lan đến Việt Nam.
Về mối quan hệ tương hỗ giữa nền kinh tế Việt Nam và thế giới, có một số người quan niệm rằng mối quan hệ này không chặt chẽ lắm, và, vì thế, ảnh hưởng của khủng hoảng đâu đó trên thế giới sẽ chỉ ở mức tối thiểu. Trên bề mặt thì có thể nghĩ như vậy, khi xuất khẩu vẫn tăng trưởng khả quan trong thời gian qua, khi thị trường tài chính của Việt Nam không liên thông hoàn hảo với các thị trường tài chính thế giới. Nhưng nếu nhìn sâu xuống một chút thì sẽ thấy ảnh hưởng này là không hề nhỏ. Ảnh hưởng này sẽ đến từ sự sụt giảm đầu tư nước ngoài. Ngay bản thân kênh xuất khẩu rốt cuộc cũng sẽ bị ảnh hưởng vì tất cả các thị trường xuất khẩu sẽ bị thu hẹp lại do nhu cầu nhập khẩu của các nước sụt giảm. Việt Nam có thể giành được lợi thế cạnh tranh, chiếm được thị phần của các nước khác trong một thời gian nào đó nhưng sẽ đến lúc các nước khác tìm mọi cách để tăng trưởng được xuất khẩu của mình, lấy đó làm lối thoát cho suy thoái kinh tế ở nước họ. Nguồn kiều hối đương nhiên cũng sẽ suy giảm khi khó khăn kinh tế ở các nước sở tại sẽ làm giảm thu nhập của người Việt sinh sống và lao động ở đó. Còn lượng vốn đầu tư nước ngoài gián tiếp cũng sẽ sụt giảm khi chênh lệch lãi suất giữa Việt Nam và quốc tế ngày càng có xu hướng giảm đi trong khi rủi ro ngoại hối càng ngày càng tăng lên ở Việt Nam (ví dụ, việc thắt chặt các quy định về đầu tư và chuyển tiền ra nước ngoài). Không nói đâu xa, cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 đã để lại dấu ấn rõ nét lên Việt Nam trong năm 2009, dù lúc đầu có nhiều người chủ quan như nói ở trên.
Ở trong nước, nền kinh tế giảm tốc do sự thắt chặt các chính sách đi đôi với tình trạng bê bết của nhiều doanh nghiệp trong một số ngành kéo theo rủi ro đổ vỡ dây chuyền, rủi ro mất vốn, v.v... không những làm cho các ngân hàng, dù có được giải phóng từ áp lực nợ xấu hiện hữu, cũng khó dám mạnh dạn cho vay vì sợ nợ xấu sẽ tăng trở lại, mà còn làm cho bản thân các doanh nghiệp và người tiêu dùng không muốn, không mặn mà với việc đi vay để đầu tư, đầu cơ, hoặc tiêu dùng, trừ khi họ vay để đảo nợ.
Giải quyết nợ xấu chỉ là một vế của vấn đề cho việc phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời gian tới. Vế quan trọng không kém là phải phục hồi được niềm tin của nhà đầu tư, đầu cơ và người tiêu dùng. Mà vế này lại phụ thuộc không chỉ vào các chính sách của Việt Nam mà còn phụ thuộc (phần không nhỏ) vào tình hình và triển vọng kinh tế thế giới, là điều nằm ngoài tầm với của chúng ta. Bởi vậy, sự điều hành và phối hợp chính sách với liều lượng thắt mở hợp lý, phù hợp với hoàn cảnh trong nước và thế giới từng thời điểm là điều cần thiết, tránh sự nóng vội, chủ quan, đơn giản hóa và nhìn nhận vấn đề một cách phiến diện, duy ý chí.

Thursday 5 July 2012

Đồng chí Bí thư Thành ủy Đà nẵng Nguyễn Bá Thanh làm tớ sai mất rồi!


Trong bài phản biện lại đồng chí TS Phạm Đỗ Chí và Vũ Viết Ngoạn trên TBKTSG, tớ có hỏi “đểu” các đồng chí ấy rằng để  kích thích đầu tư và hạ lãi suất cho vay hạ, ngoài biện pháp khuyến nghị của các đồng chí ấy là mở rộng chính sách tiền tệ, phải chăng cần có thêm biện pháp bắt buộc các ngân hàng phải cho doanh nghiệp vay theo nhu cầu của doanh nghiệp và theo lãi suất ấn định mà doanh nghiệp cho rằng là chấp nhận được?

Cứ tưởng hỏi đểu thế thôi, chứ có ai lại đòi làm cái việc xuẩn ngốc như vậy. Ấy thế mà tớ sai thật! Vì hôm nay tớ đọc bài này nói về đồng chí Nguyễn Bá Thanh ở xứ Đà Nẵng (là ở đâu ấy nhỉ, nghe chuyện mà cứ hình dung nó là một quốc gia độc lập nào đó), thấy đồng chí ấy nói đến chuyện tổ chức cuộc gặp mặt giữa doanh nghiệp, ngân hàng thương mại, NHNN, và lãnh đạo Đà Nẵng để buộc ngân hàng phải cho doanh nghiệp vay với lãi suất doanh nghiệp có thể chấp nhận được. Ghê gớm hơn nữa là đồng chí Thanh còn nói, không phải là dọa mà sẽ làm thật, sẽ đuổi cổ các ngân hàng thất hứa ra khỏi Đà Nẵng.

Phen này tớ chắc phải có lời xin lỗi chính thức đến đồng chí Chí và Ngoạn mất thôi!        

Tuesday 3 July 2012

Email của đồng chí TL trao đổi về một số vấn đề kinh tế vĩ mô


Đã lâu lâu đồng chí TL mới quay trở lại thảo luận với tớ về kinh tế vĩ mô. Cũng như thường lệ, đồng chí TL đưa ra một số câu hỏi trong khi bản thân có đưa ra bình luận và nhận xét. Xét thấy các vấn đề đồng chí TL đặt ra khá thích hợp cho hoàn cảnh hiện nay nên tớ lại mạn phép đồng chí TL để đưa những câu hỏi và bình luận của đồng chí TL lên blog này để comment. Tớ cũng phải cảm ơn đồng chí TL vì tớ có cái để mà nói.

++++++++++++++++++++++++
Đồng chí TL nói: “Theo số liệu của GSO thì CPI tháng 6 này âm 0.26% (lương thực, vật liệu xây dựng, giao thông giảm). Theo em thì headline inflation bị âm nhưng có 2 điểm đáng lưu ý là: (1) core inflation chắc là không âm, nếu tính CPI 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm ngoái thì vẫn là 12.20% như vậy cũng không hẳn là thấp (so với tháng 6 năm ngoái là 6.9%); (2) theo một số thông tin cho biết giả cả thực tế ngoài thị trường (về lương thực, đồ ăn uống...) dường như không giảm. Vì vậy, CPI giảm nhẹ chưa phản ánh điều gì quá ghê gớm cả. Về sự khác biệt giữa báo cáo của GSO đối với giá thực tế ngoài thị trường, anh có lý giải gì không ạ? Có thể là do cách lấy mẫu của GSO chưa được sát lắm phải không ạ? Mặc dù là không phản ánh được nền kinh tế rơi vào trạng thái suy giảm nhưng cũng là một dấu hiệu đáng quan tâm thêm vì em theo dõi thấy chỉ số PMI (purchasing managers' index) của HSBC và Markit thực hiện của tháng 4 là 49.3 và sang tháng 5 giảm còn 48.3 điểm cho thấy môi trường kinh doanh cũng khó khăn hơn. Nhưng em không nghĩ tình hình DN quá bi quan như nhiều thông tin và cũng hơi lo việc thực thi chính sách tiền tệ của NHNN trong 3 tháng qua. Em thấy để giải quyết vấn đề, việc cấp thiết nhất để giải quyết vấn đề là việc giải quyết hiệu quả nợ xấu của các NHTM và kết hợp với việc tái cơ cấu lại các NHTM để khơi thông dòng vốn và lành mạnh hoạt động của hệ thống NHTM chứ không phải là việc giảm mạnh lãi suất (giảm bằng biện pháp hành chính). Thị trường bị mấy lần bóp méo nên cũng khó nhận biết hơn "tín hiệu" chuẩn để đưa ra giải pháp. Anh có comments gì về nền kinh tế hiện nay và các chính sách thực hiện trong thời gian qua không ạ? Giả sử nếu CPI tiếp tục giảm trong một vài tháng tới theo anh nền kinh tế có bị rơi vào trạng thái suy giảm không ạ? Về mặt lý thuyết vĩ mô, hình như không có một tiêu chuẩn nào rõ ràng rằng giảm phát liên tục trong bao lâu thì kết luận là nền kinh tế rơi vào trạng thái suy giảm đúng không anh?

Tớ comment: Tớ đã nói nhiều lần rằng chúng ta đang quay ngược 180 độ các chính sách của chính mình vốn quyết tâm thực hiện bằng được mới chỉ cách đây mấy tháng. Điều đáng nói là sự quay ngược lại này diễn ra với mức độ gấp rút và quyết liệt/quyết tâm không hề kém, nếu không muốn nói là hơn hẳn so với sự quyết liệt và quyết tâm thực hiện những chính sách cũ. Và tớ cũng nhiều lần nói rằng tốc độ tăng trưởng như hiện nay không hề và không thể coi là một “thảm họa” – như trong con mắt của nhiều chuyên gia với chuyên vào ở Việt Nam – được. Hiện nay chúng ta mới chỉ ở giai đoạn giảm phát, tức là tốc độ tăng CPI giảm đi so với cùng kỳ năm trước. Mới một tháng (và kể cả thêm một vài tháng sau nữa, nếu có) chứng kiến CPI sụt giảm so với tháng trước (CPI tăng trưởng âm) – nhưng không phải là so với cùng kỳ năm trước như ở Việt Nam hiện nay với CPI tháng 6 năm nay vẫn cao hơn tháng 6 năm trước 6.9% - thì không thể gọi nền kinh tế Việt Nam là đang bị thiểu phát được, như người ta vẫn thuận mồm phát biểu trên các phương tiện thông tin đại chúng. Cần chú ý rằng hiện nay ở Việt Nam, 2 khái niệm thiểu phát và giảm phát đang được dùng rất tùy tiện, lẫn lộn với nhau, thậm chí coi đồng nghĩa với nhau.

Giảm phát hiện nay là một điều tốt nhiều hơn là xấu vì nó mang lại ổn định vĩ mô và phục hồi lòng tin nhà đầu tư, và là cái mà chúng ta phải phấn đấu cật lực cả năm trước và đầu năm nay mới đạt được. Thiểu phát có thể có hại hơn cả về mặt tương đối và tuyệt đối (so với giảm phát) vì khi có thiểu phát thì tăng trưởng GDP thường phải ở mức độ rất thấp. Nhưng điều này (tăng trưởng rất thấp) thì chưa xảy ra và khó xảy ra ở Việt Nam ít nhất trong mấy năm tới trong bối cảnh không có cơn sốc đặc biệt nào đó.

Về câu hỏi của đồng chí, giảm phát liên tục bao lâu thì kết luận là nền kinh tế suy giảm, tớ phải chỉnh lại một chút cho chuẩn trước đã. Giảm phát không nhất thiết đi kèm với “suy giảm kinh tế” (trong trường hợp này tớ thấy dùng cụm từ “suy giảm tăng trưởng” thì đúng hơn). Vì vậy, chừng nào giảm phát chưa dẫn đến thiểu phát thì chừng đó còn chưa nên lo lắng vội vã “phải làm một cái gì đó” ngay. Còn nếu khi CPI giảm liên tục trong vòng một số tháng SO VỚI CÙNG KỲ NĂM TRƯỚC (tớ không nhớ rõ lắm, 4 hay 6 tháng gì đó, theo định nghĩa) thì có thể gọi là nền kinh tế rơi vào thiểu phát. Bước vào 2012, CPI chưa có tháng nào âm so với tháng cùng kỳ của năm 2011 thì không thể nói Việt Nam đang bị thiểu phát. Còn suy giảm tăng trưởng (mà theo đồng chí gọi là kinh tế suy giảm) thì đương nhiên đã và đang xảy ra ở Việt Nam rồi, nhưng điều này với tớ chẳng có gì là lạ lùng, đáng sợ cả. Đồng chí có thấy mấy nước trên thế giới hiện nay duy trì được tốc độ tăng trưởng cao như vài năm vừa qua không? Việt Nam có phép thần thông gì mà thoát được tình trạng suy giảm này mà không phải trả giá không?

Về ý kiến của đồng chí rằng nợ xấu và tái cơ cấu ngân hàng là mấu chốt để giải quyết được suy giảm kinh tế (?), tớ nghĩ chỉ đúng một phần. Một phần (lớn) còn lại phụ thuộc vào lòng tin của nhà đầu tư, đầu cơ, và người tiêu dùng, cũng như triển vọng kinh tế trong nước và thế giới. Trong bối cảnh tăng trưởng giảm tốc, lòng tin của mọi chủ thể còn mong manh, triển vọng năm nay và các năm tới còn mù mịt thì cho dù ngân hàng có được giải phóng khỏi cục nợ xấu, nhu cầu vay vốn của bản thân các chủ thể kinh tế vẫn sẽ còn yếu. Mặt khác, bản thân ngân hàng cũng chẳng dám cho vay vì nhiều trường hợp biết chắc rằng cho vay là mất, vì tình hình tiêu thụ, sản xuất của các doanh nghiệp và người tiêu dùng không còn khả quan như trước.

Đồng chí TL nói: “Đi sâu hơn 1 chút vào vấn đề ngân hàng.  Hiện nay có ý tưởng về thành lập 1 công ty mua bán nợ quốc gia do NHNN thành lập để xử lý nợ, cũng có quan điểm về việc sử dụng bridge bank để xử lý nợ xấu. Về vấn đề này anh có quan điểm thế nào ạ? Chắc anh cũng biết thực tế hiện nay có trên 20 công ty mua bán nợ tư nhân trực thuộc các NHTM, đồng thời NHNN cũng cho phép 14 NHTM lớn trực tiếp được phép mua bán nợ của nhau theo quyết định 56/2006 của NHNN. Ngoài ra cũng có công ty mua bán nợ của Bộ Tài chính là DATC, với vốn là 2481 tỷ nữa. Trong đề án tái cơ cấu lại hệ thống NHTM cũng có đề cập đến vai trò của DATC và cho phép DATC được phát hành trái phiếu CP bảo lãnh để mua nợ xấu của NHTM. Vậy có cần thiết là phải có công ty mua bán nợ mới không? Cách xử lý thế nào là hiệu quả nhất trên thực tế là Việt Nam có 1 hệ thống sở hữu chéo giữa nhằng nhịt giữa các DNNN, DN tư nhân với nhiều ngân hàng, bản thân sở hữu chéo giữa các NHTM bây giờ cũng lớn. Hệ thống NHTM bị chi phối bởi các nhóm lợi ích và phục vụ cho các nhóm lợi ích, vô hiệu hóa các quy định tương đối chặt của hệ thống pháp luật về NH. Ở vai trò là một chuyên gia theo anh thì cái gì có lợi nhất cho Việt Nam (giảm thiểu nhất ảnh hưởng của interest group, rent seeking, crony capitalism).

Tớ comment: Thú thực là hôm nay tớ mới nghe thấy khái niệm bridge bank ở Việt Nam. Tuy vậy, về bản chất cũng chỉ là việc nhà nước đứng ra tiếp quản và quản trị một ngân hàng phá sản để nụôi và duy trì hoạt động của nó cho đến khi tìm được một người mua trong một thời hạn nhất định (2, 3 năm). Tuy nhiên, đồng chí chắc cũng không lạ gì trình độ của các cán bộ quản lý thuộc dạng công chức nhà nước ở Việt Nam ta. Cử những người này đi nắm các ngân hàng phá sản (ít nhất về mặt kỹ thuật) không khéo làm cho tình trạng các ngân hàng này còn xấu đi hơn. Cái kiểu bổ nhiệm CEO và cán bộ lãnh đạo ở đâu cũng như ở Vinalines và Tổng cục Hàng hải thì đừng hy vọng nhiều vào công cụ bank biếc này. Và về bản chất nó cũng chẳng khác gì việc NHNN bơm vốn cho các ngân hàng này và đổi lại NHNN nắm cổ phần chi phối, thậm chí là quốc hữu hóa và cử người của mình vào các vị trí chủ chốt trong ngân hàng. Việc này thì bàn mãi rồi, và cũng đã từng làm rồi chứ chưa phải là chưa làm bao giờ ở Việt Nam.

Việc thành lập công ty mua bán nợ mới trực thuộc NHNN (?) tớ nghĩ có lẽ có tác dụng chính là giải quyết mặt nguồn tiền dành cho mua nợ xấu. DATC thuộc Bộ Tài chính nên nguồn vốn phải huy động thông qua phát hành trái phiếu, và hình như chức năng của nó chỉ là mua bán nợ xấu trong khối doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước phải không? Còn một DATC tương tự nhưng thuộc NHNN sẽ có danh chính ngôn thuận để NHNN phát hành tiền cho nó, để nó sử dụng nguồn từ phát hành tiền của NHNN, và giải quyết nợ xấu của các ngân hàng. Điều khác biệt giữa DATC của NHNN với các công ty mua bán nợ xấu tư nhân hoặc của NHTM nằm ở (quy mô) nguồn vốn, phạm vi can thiệp, khả năng bị can thiệp, giật dây bởi NHNN theo ý đồ của NHNN.

Nói chung là dù bất cứ dưới hình thức gì, các công ty mua bán nợ ở Việt Nam sẽ không thoát khỏi các vấn đề đồng chí nêu (nhóm lợi ích, tham nhũng, thông đồng cánh hẩu v.v...), và vấn đề ở đây là ta biết được bao nhiêu trong quy mô và phạm vi thực sự của chúng mà thôi.


Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).