Wednesday 25 July 2012

Từ câu hỏi của Thống đốc


Tại hội nghị kết 6 tháng đầu năm ngành ngân hàng địa bàn Hà Nội, một lãnh đạo doanh nghiệp cho biết: Tháng 12/2011, thị trường xuất hiện tin đồn tỷ giá USD/VND sẽ tăng mạnh, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu găm USD lại, thậm chí còn vay VND thay vì chuyển đổi cho sản xuất kinh doanh. Nhưng rồi, tỷ giá không tăng, thậm chí cuối năm 2011 đầu 2012 còn chứng kiến đà sụt giảm mạnh, có những ngày giá ngân hàng mua vào thấp hơn giá bán ra tới 300 VND… Những doanh nghiệp găm USD trước đó thiệt hại lớn.

Trước thông tin trên, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình hỏi lại rằng: “Tại sao không nghe Thống đốc? Tôi lấy sinh mạng chính trị của mình để nói, thế sao không tin? Hãy tin và nghe Thống đốc, làm theo chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước. Bao giờ cũng nói trước khi làm, làm đúng như nói…”.

Ông Bình có thể có lý do để “tức khí” mà “độp” lại những doanh nghiệp kiểu trên vì “dám” không tin vào lời nói của ông, vì ông có thể đúng là kiểu người nói là muốn làm, và sẽ làm thật.

Nhưng cũng phải đứng từ góc độ doanh nghiệp và người dân để hiểu tại sao lại có sự bất tin, bất tin như vậy vào các chính sách của Ngân hàng Nước ngoài (NHNN) nói riêng và Chính phủ nói chung.

Trong thực tế, không ít sự kiện “nói một đằng, làm một nẻo” đã xảy ra ở NHNN, không nhất thiết là chỉ xảy ra ở thời ông Bình. Còn nhớ, đã có thời điểm người đứng đầu NHNN tuyên bố không điều chỉnh tỷ giá thì một vài ngày sau, tỷ giá đã được điều chỉnh tăng mạnh (phá giá tiền đồng) lên đến cả nghìn đồng một đôla, châm ngòi cho cơn xáo trộn trong xã hội.

Ngoài chuyện “nói một đằng, làm một nẻo” kiểu này thì còn có chuyện “nói là một chuyện, có làm được hay không là chuyện khác”. Nhiều khi bản thân Thống đốc thực sự muốn làm một cái gì đó đúng như ông tuyên bố nhưng thực tế đơn giản là không chiều lòng ông. Ví dụ chuyện bình ổn giá vàng. Giá vàng trong nước lên xuống như ngựa phi và thường chênh lệch lớn so với giá vàng thế giới, gây ra những cơn sốt giá trong nước, làm béo dân đầu cơ. Đứng trước tình hình này, dễ hiểu tại sao Thống đốc đi đến tuyên bố sẽ “neo” giá vàng trong nước chênh lệch so với thế giới ở khoảng cách không quá 400.000 đồng. Nhưng rồi thực tế chứng minh rằng sau hàng loạt những giải pháp với chính sách, thị trường vàng vẫn hỗn loạn và tuyên bố của Thống đốc rằng giá vàng trong nước không chênh lệch quá 400.000 đồng so với giá vàng thế giới hóa ra chỉ là “nói để mà nói” thế thôi.

Thêm một kiểu nói nữa của NHNN cũng gây ra sự bất tín, bất tin trong dư luận mà ta có thể kể ra đây. Đó là kiểu nói mà không nhất thiết dẫn đến kết quả như nói. Ví dụ điển hình cho kiểu nói này là những tuyên bố chắc nịch của NHNN về tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém từ cuối năm ngoái. Đại loại, người ta được biết rằng NHNN sẽ sáp nhập gần chục các ngân hàng yếu kém ngay trong quý I và quý II năm nay. Nhưng rồi đã hết quý II mà mới chỉ có dăm ba ngân hàng được sáp nhập, và chương trình tái cơ cấu ngân hàng xem ra vẫn còn là một ẩn số lớn. Có thể có khó khăn, trở ngại lớn nào đó đằng sau hậu trường của việc sáp nhập, nhưng điều này chứng tỏ rằng giữa ý chí và năng lực hành động, cũng như kết quả thực tiễn luôn có một khoảng cách lớn, làm cho lòng tin trở thành một thứ mong manh trong bối cảnh này.

Sau cùng là chuyện minh bạch. Lẽ đương nhiên là có minh bạch thì mới gây được lòng tin, sự tín nhiệm, mới làm cho người ta tin tưởng. Nhưng xem ra điều này không được như ý ở NHNN. Ví dụ nổi bật là chuyện nợ xấu. Bản thân Thống đốc NHNN và các quan chức công bố các con số tỷ lệ nợ xấu khác xa nhau, mà nên lưu ý rằng chỉ mỗi phần trăm khác nhau về tỷ lệ nợ xấu cũng dẫn đến hàng chục nghìn tỷ đồng khác nhau về mức nợ xấu tuyệt đối, tương ứng là sự khác nhau về tính cấp bách và giải pháp xử lý nợ xấu.

Cứ cho là bản chất của sự việc là quá phức tạp, không thể nói chính xác, trước sau như một. Nhưng cho dù có như vậy thì điều này lại chứng tỏ rằng đôi khi NHNN tuyên bố một vấn đề gì đó mà thực ra là họ không hiểu hết, nắm hết, nắm chính xác được vấn đề. Suy tiếp ra rằng tuyên bố của họ có đúng sự thật hay không, có khả năng thành sự thật hay không lại là chuyện khác, có trời mới biết được.

Tóm lại, qua một số lý do như trên ta có thể lý giải tại sao lòng tin của công chúng, của doanh nghiệp vào các chính sách của NHNN nói riêng và Chính phủ nói chung lại giảm sút đến mức mà Thống đốc phải bật ra câu hỏi nghe khá là lạ lùng như vậy. Câu hỏi này thực ra Thống đốc có thể tự trả lời mình. Các lý do trên cũng là hướng NHNN cần giải quyết để chuyện bất tín, bất tin này giảm bớt (chứ khó mà hy vọng không tồn tại).

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).