Thursday 29 November 2012

Đọc bài này mà thấy nản quá thôi, chuyên gia ơi là chuyên ra!

http://vneconomy.vn/2012112909423531P0C6/von-cho-doanh-nghiep-duoi-goc-nhin-cua-chuyen-gia-kinh-te.htm

Đồng chí Kiên thì nói: “Để dòng vốn được khơi thông, về phía các ngân hàng thương mại, cần thực hiện chọn lựa khách hàng chính xác, đồng thời cũng có những điều chỉnh về mặt thủ tục đối với các doanh nghiệp có dự án tốt và có khả năng trả nợ. Cần phải hướng đến mục tiêu hai bên cùng khắc phục để cùng tồn tại.”

Rõ là cầm đèn đi trước ô tô. Các ngân hàng họ biết rõ phải làm gì và thế nào để tồn tại và tối đa hóa lợi nhuận. Cái võ của đồng chí thì đương nhiên ngân hàng nào mà chẳng muốn và cũng đã/đang thực hiện.

Cả lời khuyên này của đồng chí nữa: “Còn các doanh nghiệp cũng cần phải đánh giá lại mình xem đâu là điểm yếu, đâu là điểm mạnh, phải xây dựng chiến lược kinh doanh mới cho phù hợp với diễn biến thị trường... nhằm hướng đến đáp ứng được các điều kiện vay vốn mà ngân hàng thương mại đặt ra. Nếu chưa đáp ứng được các điều kiện đó, thì doanh nghiệp cũng cần phải có những cam kết về mặt thời gian hoàn thành để xây dựng lòng tin cho các ngân hàng.” Nói là trẻ con thì hơi quá đáng, nhưng tớ phải nói trung thực rằng đúng là vậy về bản chất.

Còn đồng chí Thành thì vẫn cái điệp khúc NHNN, với quyền hạn và nghĩa vụ của mình, cần in thật nhiều tiền cho ngân hàng thương mại vay với lãi suất thấp để họ cho doanh nghiệp vay cũng với lãi suất thấp. Thưa đồng chí, nói chơi thì rất dễ. NHNN ắt hẳn đang rất đau đầu về vấn đề này – làm sao tung tiền ra mà không gây lạm phát – đấy. Đồng chí nếu có võ gì mà làm được điều này thì hãy tư vấn cho NHNN, chứ không phải nói khơi khơi, dễ ợt: tung tiền vô hạn định nhưng đồng thời không làm tăng lạm phát.

Đồng chí có đề cập đến chuyện thiếu thanh khoản trong hệ thống ngân hàng. Và đồng chí lý luận rằng vì tăng trưởng tín dụng đến nay mới chỉ hơn 3% trong khi chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm là 15%-17% nên có làm gì đi chăng nữa thì (tăng trưởng tín dụng cả năm nay) cũng không vượt qua được mức này và do đó không tác động đến lạm phát.

Về 2 điểm trên, thứ nhất, xin lưu ý với đồng chí rằng thanh khoản trong hệ thống không phải là thiếu, bằng chứng là NHNN đã phải rút tiền về trên OMO. Vì vậy, một trong những điều kiện cần để NHNN phải cấp tập, ồ ạt in tiền theo lý luận của đồng chí để cứu thanh khoản đã không (còn) tồn tại.

Thứ hai, xin nói rõ với đồng chí rằng chẳng có mối liên hệ nào, cũng như chẳng có ai bảo đảm rằng mức tăng trưởng tín dụng 15%-17% là mức tối ưu, không tác động đến lạm phát, vì vậy mức tăng trưởng thực tế dưới mức này càng không gây ra tác động đến lạm phát, vì thế mà cứ yên tâm in tiền ra sao cho tăng trưởng tín dụng miễn là nhỏ hơn mức này là được. Thật là một lý luận… (tớ lại tự kiểm duyệt).

Rồi nữa, cái đề xuất quỹ bảo lãnh của NHNN cho doanh nghiệp vay. Nó cũng là một cái đề xuất nói thì dễ, nghe thì hay. Hẳn đồng chí còn nhớ cái võ cũng hay ho, hấp dẫn không kém mà từng được dùng, được ca ngợi ở Việt Nam mới mấy năm trước đây – bù/hỗ trợ lãi suất – chứ? Tiêu chí để được hưởng ưu đãi này cũng đầy đủ, chặt chẽ cả đấy chứ? Vậy mà kết quả và kết luận về nó sau này ra sao thì đồng chí chắc cũng đã rõ rồi chứ?

Cuối cùng, về phát biểu của đồng chí Ánh. Cũng tương tự, tớ thấy rõ cái hình ảnh của cầm đèn chạy trước ô tô. Đồng chí khuyên các doanh nghiệp: “Để giải quyết hàng tồn kho, cần phân tích xem sự thích ứng của sản phẩm với nhu cầu của thị trường. Yếu tố thứ hai cần xem xét là giá bán hàng hóa. Doanh nghiệp xây dựng giá bán dựa trên các yếu tố đầu vào và lợi nhuận nhưng trong lúc dư cung, việc xem lại giá bán là cần thiết, thậm chí chấp nhận thua lỗ để bán hàng, lúc đó mới có tiền quay vòng vốn. Đặc biệt với những sản phẩm đang dư cung hoặc đã sắp hết chu kỳ sống, doanh nghiệp càng cần bán hàng để có vốn để ra được sản phẩm mới.” Tớ nghĩ là chẳng cần phải bình luận thêm về lời khuyên này.

Tiếp theo, đồng chí Ánh nêu ra một số con số về mức độ không đáng kể của các biện pháp hỗ trợ của nhà nước thông qua hoãn/miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp và GTGT. Nhưng mặt khác, đồng chí lại nhấn mạnh rằng (qua cách hành văn) nếu có làm mạnh tay hơn nữa thì tổng giá trị miễn giảm thuế là không quá lớn (chỉ 60-70 ngàn tỷ mỗi khoản).

Ở đây có 2 điều cần lưu ý. Thứ nhất, lập luận rằng miễn giảm thuế tích cực hơn nữa thì gói miễn giảm thuế cũng không quá lớn sẽ dẫn đến câu hỏi ngược, nếu đã không quá lớn thì liệu việc miễn giảm thuế sẽ có tác dụng như mong muốn? Thứ hai, cứ cho là gói miễn giảm thuế là không quá lớn, nhưng xin nên nhớ rằng mọi khoản hụt thu, tăng chi hiện nay đều tạo thêm gánh nặng nợ nần đã/đang trở nên quá sức chịu đựng của ngân sách, với bằng chứng là ngay việc tăng lương cơ bản (đâu như 10 ngàn tỷ?) mà còn đang dự định phải trông vào việc phát hành trái phiếu.

Tóm lại, nội dung phát biểu của 3 đồng chí trên vừa trẻ…, vừa ngây…, vừa ấm… (tớ lại phải tự kiểm duyệt … nửa vời một phát nữa).

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).