Friday 21 December 2012

Đề xuất phải dựa trên thực tế (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân)


Tớ chán đồng chí Ngoạn với lại cái ủy ban của đồng chí lắm, cũng như các loại ủy ban khác đang và sẽ có mặt ở Việt Nam. Thật là xót tiền dân!
-------------------------------
http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=267634

08:26 | 22/12/2012
Đề xuất “giảm lãi suất cơ bản thêm 1 điểm phần trăm so với lãi suất quy định hiện nay và áp trần lãi suất cho vay không quá 150% lãi suất cơ bản theo luật định” của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia không dựa trên thực tế (ở Việt Nam) và vì thế sẽ không có hiệu quả như mong muốn.
Nguồn: xaluan.com
Trong Báo cáo về tình hình kinh tế tháng 11 và 11 tháng năm 2012, Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia (UBGSTCQG) quy kết một trong những lý do chính cho việc hàng loạt doanh nghiệp tiếp tục phá sản trong 11 tháng qua là do lãi suất tăng cao làm tăng chi phí tài chính và do đó tăng giá thành sản phẩm. Thêm nữa, UB này lập luận rằng lãi suất ở Việt Nam cao hơn rất nhiều lãi suất trong khu vực, vì thế làm giảm tính cạnh tranh của sản phẩm sản xuất tại Việt Nam. Từ đó, UBGSTCQG đề xuất giảm lãi suất cơ bản thêm 1 điểm phần trăm so với lãi suất quy định hiện nay và áp trần lãi suất cho vay không quá 150% lãi suất cơ bản theo luật định.
 
Những đề xuất trên không dựa trên thực tế (ở Việt Nam) và vì thế sẽ không có hiệu quả như mong muốn.
 
Về nguyên tắc, ngân hàng chỉ có thể cho doanh nghiệp vay với lãi suất thấp hơn khi rủi ro của doanh nghiệp vay vốn giảm đi (giả thiết rằng lãi suất đầu vào của ngân hàng không đổi và những cân nhắc cụ thể về khách hàng vay vốn cũng không đổi, ví dụ như giá trị khoản vay, là khách hàng lâu năm hay không, có khoản nợ xấu tồn đọng nào với ngân hàng hay không…). Đến lượt nó, rủi ro của doanh nghiệp chỉ giảm đi khi hoặc bản thân doanh nghiệp đó đã có kết quả hoạt động kinh doanh tốt lên để tạo dòng tiền thừa đủ trả lãi và gốc, và đồng thời (thường có thêm điều kiện là) có tài sản thế chấp. Rủi ro của doanh nghiệp cũng có thể giảm đi nếu doanh nghiệp nhận được sự bảo lãnh của ai đó sẽ chịu trách nhiệm chi trả hộ cho doanh nghiệp nếu doanh nghiệp mất khả năng chi trả khoản vay. Sự bảo lãnh này có thể là của Chính phủ, hoặc các tổ chức công/tư có tín nhiệm và/hoặc có tài sản thế chấp.
 
Chừng nào mà các doanh nghiệp không đáp ứng được 2 điều kiện trên thì đương nhiên ngân hàng sẽ hoặc hạn chế/không cho vay, hoặc nếu có cho vay (trong một số trường hợp) thì ngân hàng sẽ tính lãi cao kèm theo các điều kiện ngặt nghèo hơn, coi đó là một khoản đảm bảo đề bù đắp phần nào rủi ro mang đến từ phía doanh nghiệp khách hàng.
 
Xét trong điều kiện hiện tại ở Việt Nam, có lẽ có nhiều doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn ngân hàng không thỏa mãn được 1 trong 2 điều kiện trên. Một ngân hàng làm ăn cẩn trọng thì hiện tại sẽ phải rất thận trong khi xem xét cho một doanh nghiệp cụ thể nào đó trong một ngành cụ thể nào đó, ví dụ, xi măng hoặc bất động sản, vay vốn vì triển vọng sản xuất kinh doanh khá u ám với nhu cầu thấp trong khi lượng tồn kho ở mức cao trong một thời gian bất định. Nếu không có tài sản thế chấp thì dường như doanh nghiệp này sẽ không có cơ hội được vay ngân hàng, kể cả nếu chấp nhận vay với lãi suất cao. Nhưng ngay cả khi có tài sản thế chấp thì, vì ngân hàng dự tính xác suất khả năng doanh nghiệp trả nợ được ở mức rất thấp, việc thu hồi nợ có thể sẽ phải phụ thuộc vào việc thanh lý tài sản thế chấp, nhiều khả năng ngân hàng sẽ định giá tài sản thế chấp ở mức rất thấp và/hoặc chỉ cho vay với giá trị bằng một phần giá trị của tài sản thế chấp theo định giá khắt khe của ngân hàng.
 
Xét đến điều kiện giảm rủi ro thứ hai – có sự bảo lãnh của ai đó. Điều này ở Việt Nam hiện tại cũng là bất khả thi với đại đa số doanh nghiệp, trừ một số doanh nghiệp nhà nước vốn được hưởng ưu đãi bảo lãnh từ Chính phủ. Người ta cũng nhắc nhiều đến các sáng kiến như lập quỹ bảo lãnh doanh nghiệp, quỹ này quỹ kia nhưng tất cả vẫn là những đề xuất trên giấy, chưa nói đến tính hữu hiệu, khả thi của những loại quỹ này nếu có được cho ra đời.
 
Với những trở ngại và ràng buộc trên, hẳn không lấy gì làm lạ khi thấy nhan nhản những lời kêu ca, cầu cứu từ phía doanh nghiệp về chuyện tiếp cận vốn vay ngân hàng (và) với lãi suất thấp hơn, còn các ngân hàng thì thà đi mua trái phiếu Chính phủ hoặc tín phiếu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) với lợi suất thấp hơn nhiều chứ không tích cực cho doanh nghiệp vay, dẫn đến tốc độ tăng trưởng tín dụng ở nhiều ngân hàng thậm chí còn là âm so với cùng kỳ năm trước.
 
Quay trở lại với đề xuất của UBGSTCQG. Đành rằng đề xuất này đáng quý ở chỗ nó đã cố gắng tạo ra một bước đột phá trong mớ bùng nhùng quan hệ giữa ngân hàng với doanh nghiệp. Nhưng điều đáng nói là phương thức thực hiện lại theo kiểu hành chính, ép các ngân hàng chịu nhiều rủi ro hơn hoặc giảm thu nhập vốn đã trở nên mỏng hơn nhiều của các ngân hàng. Cụ thể hơn, việc áp đặt trần lãi suất cho vay, dù là ở một mức cụ thể ấn định bởi NHNN, chẳng hạn là 15%/năm, hay một tỷ lệ tương đối nào đó, chẳng hạn 150% lãi suất cơ bản, thì vẫn có tác dụng làm vô hiệu hóa 2 nguyên tắc xem xét để giảm lãi suất nêu bên trên. Với trần lãi suất, bất kể khách hàng doanh nghiệp rủi ro thế nào thì ngân hàng vẫn chỉ được cho vay không quá trần lãi suất quy định. Nếu nhắm mắt chấp nhận cho vay như vậy thì đương nhiên mọi rủi ro từ khách hàng sẽ do ngân hàng gánh chịu, dẫn đến rủi ro mất vốn thua lỗ cho ngân hàng tăng lên còn doanh nghiệp và người ra quyết định trên thì phủi tay… làm lại!
 
Nhưng cũng “may” là ngân hàng không nhất thiết bắt buộc phải nhắm mắt làm liều như vậy. Có thể có một số ngân hàng nào đó, nhất là những ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, bị chỉ định bởi một ai đó cho vay một khách hàng cụ thể với một khoản vay cụ thể. Nhưng đa phần các ngân hàng không (luôn luôn) bị chỉ định theo cách này và vì thế họ có quyền từ chối cho khách hàng doanh nghiệp vay với lãi suất không quá 15% nếu ngân hàng thấy khách hàng có rủi ro đáng phải chịu lãi suất cao hơn hoặc sẽ không được vay.
 
Với giả thiết rằng ngân hàng tuân thủ đúng quy định về trần lãi suất, lúc đó họ buộc phải từ chối cho khách hàng có rủi ro cao hơn này vay. Hoặc kể cả trường hợp ngân hàng bí đầu ra về vốn nên tự thân tích cực tìm cơ hội cho vay thì cũng có thể họ sẽ cho vay với lãi suất trần nhưng đòi hỏi tài sản thế chấp nhiều hơn với giá trị bị đánh tụt đi. Dù khả năng nào xảy ra chăng nữa thì kết quả là doanh nghiệp vẫn sẽ khó vay vốn hơn, khó vay được nhiều hơn và với lãi suất thấp hơn. Nếu phải lựa chọn 1 trong 2 khả năng – mất vốn kèm nợ xấu tăng hoặc không/hạn chế cho vay thì dường như chắc chắn ngân hàng sẽ lựa chọn khả năng thứ hai.
 
Với lập luận rằng ngân hàng không cho vay ra thì ngân hàng cũng chết, có thể phản biện rằng ngân hàng vẫn có những kênh để tiêu vốn của mình, như đã và đang làm, tức là mua trái phiếu, tín phiếu. Trường hợp tệ hơn, lợi suất trái phiếu, tín phiếu đều giảm vì nhu cầu mua của các ngân hàng tăng cao, làm giảm tính hấp dẫn sinh lợi của kênh đầu tư này thì đương nhiên là ngân hàng sẽ phải thu hẹp đầu vào (giảm huy động vốn, giảm lãi suất huy động) hoặc, nghiêm trọng hơn, cắt giảm số lượng nhân viên, đóng cửa chi nhánh, thu hẹp hoạt động… như đã và đang xảy ra ở Việt Nam cũng như trên thế giới.
 
Nhưng cho dù có vậy thì vẫn hầu như sẽ không có ngân hàng nào lại gật đầu với việc đẩy mạnh cho vay khách hàng có rủi ro cao với lãi suất trần hoặc thấp hơn, và doanh nghiệp thì sẽ tiếp tục khó khăn trong việc tiếp cận vốn ngân hàng!

Friday 14 December 2012

“Ủy ban” không phải là chiếc đũa thần! (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân)

 
19:59 | 14/12/2012
Mới đây, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) đã đề xuất 4 nhóm mô hình về chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Trong 4 mô hình này, CIEM dường như nghiêng về mô hình đầu tiên, theo đó việc quản lý, giám sát toàn diện và hiệu quả DNNN sẽ được tập trung về một cơ quan chuyên trách với tên tạm gọi là Ủy ban Quản lý giám sát DNNN.
 
Theo CIEM, Ủy ban này trực thuộc Chính phủ, thực hiện quyền và nghĩa vụ chủ sở hữu Nhà nước. Chủ tịch Ủy ban sẽ do Thủ tướng hoặc một Phó thủ tướng kiêm nhiệm. Phó chủ tịch Ủy ban làm việc chuyên trách sẽ có chức danh tương đương Bộ trưởng. Đoàn chủ tịch của Ủy ban sẽ có một số thành viên chuyên trách và một số thành viên kiêm nhiệm như lãnh đạo đại diện các bộ liên quan tham gia. Ủy ban cũng sẽ có bộ máy chuyên môn, nghiệp vụ theo các lĩnh vực như nhân sự và tiền lương, tài chính kế toán, tái cấu trúc, đào tạo, thống kê, pháp chế... để quản lý toàn diện hoạt động DNNN.
 
Theo mô hình này, CIEM đề nghị phải thành lập Hội đồng tư vấn gồm các chuyên gia độc lập, các nhà khoa học am hiểu sâu, rộng về lĩnh vực hoạt động của DNNN để hỗ trợ cho Ủy ban. CIEM cho rằng mô hình này có nhiều ưu điểm, mang tính tập trung cao, tách bạch được chức năng chủ sở hữu Nhà nước và chức năng quản lý Nhà nước. Viện này cũng thừa nhận rằng mô hình này có nhược điểm là sẽ phát sinh thêm một bộ máy, biên chế Nhà nước, kéo theo các vấn đề nhân sự và có thể vấp phải sự phản đối do lợi ích nhóm.
 
Xem xét kỹ hơn một chút về đề xuất này, ta có thể thấy ngoài nhược điểm hoàn toàn không phải là dễ bỏ qua mà CIEM đã thừa nhận (phát sinh thêm bộ máy...), đề xuất trên còn chứa đựng những bất ổn xem ra còn khó bỏ qua hơn nữa.
 
Bất ổn thứ nhất, đề xuất kiểu này dường như là một đại diện xuất sắc cho trường phái tư duy cái gì không quản được thì cần thiết phải có, phải thiết lập một bộ máy càng đồ sộ, càng “to” càng tốt, đặc biệt là nhất thiết phải có sự hiện diện của Thủ tướng hoặc ít ra thì cũng phải Phó thủ tướng đứng đầu. Có lẽ những người đề xuất quan niệm rằng khi có sự hiện diện của (Phó) Thủ tướng thì mọi ủy ban, tổ chức sẽ vận hành suôn sẻ hơn chăng? Nếu vậy thì cần suy nghĩ lại! Thực tế đã cho những câu trả lời rõ ràng, kể cả lời xin lỗi công khai của Thủ tướng về sự điều hành kinh tế xã - hội yếu kém của Chính phủ trong thời gian qua.
 
Thêm nữa, các tác giả của đề xuất dường như vô tình hay hữu ý quên một thực tế rằng nguyên nhân hoạt động yếu kém của các DNNN không phải là sự thiếu quyền lực (quản lý) tập trung hay thiếu sự gắn kết giữa các cơ quan hữu trách trong việc quản lý DNNN. Nhiều DNNN lớn, tập đoàn kinh tế đã và đang trực thuộc sự quản lý của Thủ tướng, đến mức độ mà Thủ tướng là người phê duyệt cả những quyết định kinh doanh, nhân sự lẽ ra thuộc thẩm quyền của doanh nghiệp. Như vậy, quyền lực và sự tập trung quyền lực sẽ không bao giờ cần được coi là một nguyên nhân mà sự thiếu hụt chúng đã tạo ra một bức tranh thảm hại về DNNN như hiện nay.
 
Bất ổn thứ hai, cứ cho là một bộ máy có sự hiện diện của (Phó) Thủ tướng như vậy sẽ hoạt động hữu hiệu thì người ta cần phải nhớ rằng hiện nay đã có thêm một vài đề xuất tương tự, nào là thành lập Ủy ban Tái cơ cấu kinh tế, nào là Ủy ban Tái cơ cấu DNNN, và cứ như vậy thì thế nào nay mai cũng sẽ có thêm những Ủy ban đại loại như Ủy ban Xử lý nợ xấu ngân hàng, Ủy ban Cải cách ngân hàng, Ủy ban Tái cơ cấu nợ công, Ủy ban Phục hưng kinh tế... Và điều đáng nói là các loại ủy ban như vậy thế nào cũng phải có sự chủ trì của người đứng đầu Chính phủ. Giả thiết rằng, vì tầm quan trọng của những loại ủy ban này đúng như những người đề xuất biện hộ thì khi đó, xét về logic, dù có tài giỏi mấy thì phải là người 3 đầu 6 tay mới có thể kiêm nhiệm một loạt những chức vụ chủ tịch của những ủy ban như vậy. Bằng không, sự kiêm nhiệm đó chỉ là hình thức, rốt cuộc mọi việc vẫn đâu hoàn đó.
 
Bất ổn thứ ba, và quan trọng hơn, những người đề xuất trên dường như cũng quên rằng mấu chốt vấn đề không phải là tách bạch chức năng quản lý nhà nước với chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước. Đối với DNNN, chừng nào còn có sự nhập nhằng giữa chức năng “ổn định kinh tế vĩ mô” với chức năng kinh doanh theo đuổi lợi nhuận đơn thuần như bất cứ một doanh nghiệp thông thường nào thì chừng đó chắc chắn hãy sẵn sàng để đón nhận kết quả hoạt động thảm hại của các DNNN như hiện nay.
 
Thay vì loay hoay với hà hơi tiếp sức cho các DNNN bằng những biện pháp tái cơ cấu nửa vời hoặc thành lập cơ quan này kia, hãy mạnh dạn tách bạch chức năng của từng DNNN, doanh nghiệp nào chuyên làm công ích, phi lợi nhuận thì hãy để chúng hoạt động đúng như vậy, còn doanh nghiệp nào đã kinh doanh vì lợi nhuận thì hãy để lợi nhuận là thước đo sự tồn tại cho doanh nghiệp đó, cho bộ máy quản lý của doanh nghiệp đó, cũng như cho những người đại diện cho vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp đó. Nếu không làm được triệt để như vậy thì cho dù với sự thành lập của Ủy ban nói trên, một khi kết quả thực tế không được như ý muốn, một lời xin lỗi suông và một quyết định “chấm dứt thí điểm” (chủ trương quản lý bằng các loại ủy ban) sẽ lại được đưa ra, và rồi mọi việc lại trở về như cũ.
 
Cuối cùng, cũng quan trọng không kém, chừng nào vẫn coi DNNN là chủ đạo trong những lĩnh vực then chốt trong hoạt động của DNNN thì chừng đó vẫn cần phải có những ưu đãi, những can thiệp từ Chính phủ để DNNN tồn tại và (hy vọng là) thực hiện được những chức năng đi ngược lại các quy luật kinh tế thị trường (nói một cách đơn giản là không có lợi nhuận thì không làm). Trong bối cảnh như vậy thì đừng nên đặt ra vấn đề DNNN kinh doanh phải có lãi! Tương tự như vậy, các loại ủy ban là điều không cần thiết!

Saturday 8 December 2012

Lại về đồng chí Tiến sĩ Lê Thẩm Dương!


Có một bạn đọc (chắc là nữ) gửi email cho tớ (từ một account có cái tên rất ấn tượng) bảo tớ bình luận về các phát biểu của đồng chí Tiến sĩ Lê Thẩm Dương như sau. Mời các đồng chí bạn đọc bình luận giúp tớ với. Tớ mới chỉ trả lời rất ngắn gọn cho bạn đọc có email ấn tượng trên thôi, không đi vào chi tiết đúng sai của từng phát biểu của đồng chí Dương.
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Kính gởi anh Minh (Ngọc: hy vọng là nhầm tên của tớ, chứ không phải gửi nhầm người!),
Em đang tìm hiểu về trần lãi suất, nhưng qua phát biểu của TS Lê Thẩm Dương thật sự em không hiểu logic nằm sau phát biểu của TS là gì. Vì TS là chuyên gia hàng đầu ở VN nên em lúng túng quá. Em xin gởi cho anh thống kê của em về phát biểu của TS, mong anh cho em ý kiến để em hiểu thêm. Cám ơn anh nhiều ạ.

Từ 5-5-2012 đến 7-12-2012:

Bỏ lãi suất trần: Ngày 7-12-2012 trong bài Nặng gánh cho lãi suất (link này: http://www.thoibaonganhang.vn/tin-tuc/2-nang-ganh-cho-lai-suat-5875.html)

Theo TS.Lê Thẩm Dương – Trưởng khoa Quản trị kinh doanh Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh hiện lãi suất đang gánh quá nhiều nhiệm vụ: Vừa đảm bảo lãi suất VND đủ hấp dẫn để hút tiền trong dân cư, góp phần chống vàng hóa, đô la hóa cũng như duy trì thanh khoản cho hệ thống ngân hàng. Nhưng lãi suất cho vay lại phải hạ thấp để giúp DN tiếp cận vốn tốt hơn, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế... Với những nhiệm vụ trên, có thể nói lãi suất đã chịu sức ép lớn từ nền kinh tế. Ông Dương cho rằng đề xuất áp trần lãi suất cho vay thời điểm này không khả thi đối với ngân hàng.

Vừa bỏ vừa giữ lãi suất trần: Ngày 6-12-2012 trong bài Áp trần lãi suất cho vay: Xuất chiêu “lách” phí? (link này: http://www.tienphong.vn/Kinh-Te/603504/Ap-tran-lai-suat-cho-vay-Xuat-chieu-%E2%80%9Clach%E2%80%9D-phi-tpp.html)

Nhìn vào vấn đề, TS Lê Thẩm Dương - Trưởng khoa Quản trị kinh doanh Đại học Ngân hàng TP Hồ Chí Minh thẳng thắn: Nếu áp trần lãi suất cho vay thời điểm này có thể “vô tình”đẩy các ngân hàng vào thế khó hơn. (Ủng hộ bỏ)

Theo ông Dương, nếu như cuối năm trước với việc phải trả lãi suất trên 20% các DN chỉ “mơ” lãi suất xuống 16 - 17%, thì đến thời điểm này lãi suất đã ở mức 13 - 14% thậm chí nhiều ngân hàng triển khai các chương trình cho vay ưu đãi với lãi suất 9 - 10%/năm.

“Như vậy các ngân hàng rất nỗ lực trong việc cố gắng giảm và đã chia sẻ giảm 8 - 10% điểm lãi suất. Tháo trần lúc này sẽ rất nguy hiểm khi thanh khoản tại một số ngân hàng nhỏ vẫn chưa thực sự tốt. (Ủng hộ giữ)

Nếu việc áp trần lãi suất cho vay được thực hiện thì có thể nói chúng ta đã thay một phương án xấu bằng phương án xấu hơn. Và như vậy biện pháp này có thể gây ra tác dụng ngược”- TS Dương lưu ý. (Ủng hộ bỏ)

Bỏ lãi suất trần: Ngày 1-12-2012 trong bài Sẽ giảm lãi suất cho vay (link này:http://www.thanhnien.com.vn/pages/20121201/se-giam-lai-suat-cho-vay.aspx)

TS Lê Thẩm Dương - Trưởng khoa Quản trị doanh nghiệp, Trường đại học Ngân hàng TP.HCM -không đồng ý với việc áp trần LS cho vay. Theo ông, LS huy động tiền đồng đối với kỳ hạn dưới 12 tháng hiện nay cũng đưa ra mức trần tối đa là 9%/năm. Nếu áp trần lãi vay thì cả LS huy động, cho vay đều có trần và thị trường trở lại thời kỳ bao cấp. Trong khi chưa có cơ quan chức năng nào phân tích một cách bài bản tốc độ tăng trưởng tín dụng chậm do LS tác động lên bao nhiêu. Một điểm khá lạ trên thị trường LS gần đây là LS cho DN vay cao hơn cho cá nhân vay. Cụ thể, LS cho vay DN ở mức dưới 11-15%/năm, trong khi LS cho vay đối với khách hàng cá nhân mua nhà, sửa chữa nhà có ưu đãi từ 3 - 6 tháng dưới 10%/năm, còn nếu không có ưu đãi thì ở mức 12-13%/năm.

Ông Dương cho rằng không loại trừ trường hợp, nếu áp trần cho vay, các NH sẽ chọn những khoản vay nào đủ “sở hụi” mới cho vay, chọn lĩnh vực mà NH sống được thì tích cực triển khai cho vay. Như vậy, vốn sẽ không chảy vào những chỗ mà chúng ta cần ưu tiên. Vì vậy, vấn đề không hẳn là giảm LS cho vay mà là DN vay làm hàng hóa dịch vụ bán cho ai, cách tiếp cận vốn của DN có dễ dàng không, các thủ tục cho vay có đơn giản không...

Giữ lãi suất trần: Ngày 21-11- 2012 trong bài Trần lãi suất: Dở cũng phải để? (link này:http://us.24h.com.vn/tai-chinh-bat-dong-san/tran-lai-suat-nh-do-cung-phai-de-c161a499779.html)

Không đồng tình với ý kiến nên bỏ trần lãi suất, chuyên gia kinh tế tài chính-ngân hàng-TS Lê Thẩm Dương cho rằng, lúc này vẫn chưa là thời điểm thích hợp mặc dù chúng ta đã duy trì lãi suất 2 năm.

Đồng ý với quan điểm, càng duy trì mặt bằng lãi suất, thị trường càng méo, bóp quan hệ cung-cầu nhưng chuyên gia kinh tế Lê Thẩm Dương cho biết, lãi suất phải gánh quá nhiều nhiệm vụ như: vừa lo thanh khoản thấp quá dân không gửi tiền, vừa lo cứu DN nếu cao quá thì chết, lại phải cứu tỷ giá, khống chế tiền trong XH…nên nếu bỏ đợt trần thì lãi suất lên rất cao.

“Phải bỏ trần mới quay trở về quy luật nhưng trong bối cảnh cụ thể thì không được. Lãi suất mà chẹn đầu trần lãi suất sẽ dở vô cùng. Nhiều khi không muốn nhưng vẫn phải duy trì”, ông Dương nhấn mạnh.

Mặt khác, ông Dương cho rằng, việc các NH đồng loạt giảm lãi suất huy động chỉ là biện pháp nhất thời, chưa có cơ sở giảm bền vững nên nếu bỏ trần, lãi suất “bùng” lên sẽ khó kiểm soát.

Giữ lãi suất trần: Ngày 21-7-2012 trong bài Hạ lãi suất cho vay nợ vẫn còn nhiều bất cập(link này: http://m.vovgiaothong.vn/kinh-te-do-thi/kinh-te/2012/07/ha-lai-suat-cho-vay-no-van-con-nhieu-bat-cap/)

Theo Tiến sĩ Lê Thẩm Dương – Trưởng khoa quản trị kinh doanh -Trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh, việc Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại giảm lãi suất nợ cũ về dưới 15% là chủ trương hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, hiện các ngân hàng vẫn đang nhìn nhau và nhìn vào động thái xử lý của Ngân hàng Nhà nước và việc thực hiện giảm lãi suất nhanh hay chậm sẽ tùy thuộc chính vào việc kiểm tra của Ngân hàng Nhà nước.

Bỏ lãi suất trần: Ngày 10-7-2012 trong bài Lãi suất ngắn hạn vẫn vượt xa trần 9% (link này: http://ebank.vnexpress.net/gl/ebank/tin-tuc/2012/07/lai-suat-ngan-han-van-vuot-xa-tran-9/):

Tiến sĩ Lê Thẩm Dương, Trưởng khoa Quản trị kinh doanh, Đại học Ngân hàng TP HCM cho rằng, áp trần lãi suất là một biện pháp hành chính. Mà một khi đã là hành chính thì chắc chắn sẽ nảy sinh ra trường hợp lách chứ không thể theo sự chi phối của thị trường.

Bỏ lãi suất trần: Ngày 26-6-2012 trong bài Sắp 'tự do hóa' lãi suất (link này:http://baodatviet.vn/Home/kinhte/Sap-tu-do-hoa-lai-suat/20126/219132.datviet)

Hai vấn đề đáng bàn nhất khi bỏ trần lãi suất là CPI và thanh khoản của hệ thống ngân hàng, chuyên gia Lê Thẩm Dương cho biết vẫn lấn cấn với thanh khoản của hệ thống. Tuy nhiên, ông Dương vẫn khẳng định: “Nếu mạnh dạn thì NHNN cũng có thể bỏ trần lãi suất từ tháng 7 tới là được rồi”. Bởi vì, bỏ trần lãi suất không có nghĩa là NHNN sẽ không còn điều hành chính sách lãi suất nữa, mà chỉ thay biện pháp hành chính bằng công cụ thị trường.

Bỏ lãi suất trần: Ngày 22-6-2012 trong bài Dọn dẹp để “buông” trần lãi suất (link này:http://vietstock.vn/2012/06/don-dep-de-buong-tran-lai-suat-757-226687.htm)

Theo chuyên gia kinh tế, TS. Lê Thẩm Dương, hiện vẫn còn một số ít ngân hàng yếu thanh khoản. Chính các ngân hàng yếu là yếu tố làm rối thị trường. Vì vậy, nếu hoàn tất việc xử lý ngân hàng yếu kém ngay trong tháng 6 như tuyên bố của Thống đốc NHNN, thì không có lý do gì để giữ lại trần lãi suất huy động.

Bỏ lãi suất trần: Ngày 16-6-2012 trong bài Bỏ trần lãi suất? (link này:http://www.thanhnien.com.vn/pages/20120615/bo-tran-lai-suat.aspx):

Trong khi đó, TS Lê Thẩm Dương - Trưởng khoa Quản trị kinh doanh (ĐH Ngân hàng TP.HCM), cũng cho rằng với động thái không quy định áp trần LS cho kỳ hạn từ 12 tháng trở lên hiện nay, NHNN có lẽ cũng đang dần dần tiến tới gỡ bỏ mức trần LS cho các kỳ hạn khác.

Giữ lãi suất trần: Ngày 5-5-2012 trong bài 'Trần cho vay 15% sẽ khơi thông dòng vốn' (link này: http://ebank.vnexpress.net/gl/ebank/thi-truong/2012/05/tran-cho-vay-15-se-khoi-thong-dong-von/):

Tiến sĩ Lê Thẩm Dương, Trưởng khoa Quản trị kinh doanh, Đại học Ngân hàng TP HCM cho rằng, việc Ngân hàng Nhà nước khống chế lãi huy động và áp biên độ đầu ra là cách làm tốt nhất trong bối cảnh hiện nay.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).