Friday 29 March 2013

Tiếp tục trao đổi chuyện có nên phá giá tiền đồng (Bài đăng trên TBKTSG online)

http://www.thesaigontimes.vn/Home/diendan/ykien/93790/Tiep-tuc-trao-doi-chuyen-co-nen-pha-gia-tien-dong.html

(TBKTSG Online) - Trên TBKTSG số ra ngày 21-3 có bài viết “Chưa phải lúc phá giá tiền đồng” của tác giả Tấn Đức phản biện lại bài viết “Có nên phá giá tiền đồng không?” của tôi đăng trên TBKTSG số ra ngày 14-3-2013. Nhận thấy bài viết của tác giả có một số luận điểm chưa ổn nên tôi muốn mang ra mổ xẻ trong bài này để tiện cho độc giả hiểu rõ thêm vấn đề.

1. Tác giả viết: “Quan điểm chính của bên ủng hộ (chuyện phá giá) cho rằng, tiền đồng đã mất giá nhiều do lạm phát trong những năm qua nên cần phá giá để kích thích xuất khẩu...”

“Tiền đồng đã mất giá nhiều” thì sao lại phải tiếp tục phá giá? Chưa kể, tác giả trích dẫn sai ý kiến của bên ủng hộ. Bên ủng hộ, ít nhất là tôi, không nói rằng “tiền đồng đã mất giá nhiều do lạm phát”, vì như thế là sai về thuật ngữ. Cần nói chính xác rằng “tiền đồng đã lên giá thực (nhiều) so với đô la Mỹ do lạm phát ở Việt Nam cao hơn lạm phát ở Mỹ”.

2. Tác giả viết: “(Bên ủng hộ cho rằng) lạm phát đang ở mức thấp, cán cân thương mại hiện nay đang có thặng dư. Đó là cơ hội tốt để phá giá tiền đồng”.

Bên ủng hộ ít nhất là có tôi không nói rằng cán cân thương mại đang thặng dư là cơ hội tốt để phá giá (bản thân tôi cũng không nói rằng lạm phát thấp là cơ hội tốt để phá giá). Ngược lại, (theo lý thuyết và thực tế) phá giá là để cải thiện cán cân thương mại, làm cho nó từ thâm hụt sang thặng dư. Phát biểu trên chỉ là ý kiến chủ quan của tác giả áp đặt vào cho bên ủng hộ, chứ không phải là ý kiến của những người ủng hộ phá giá như tôi.

Như vậy, lập luận sau đó của tác giả về chuyện tính bền vững của xuất siêu là lạc đề, vì xuất siêu không phải là cái cớ để những người như tôi kêu gọi phá giá. Ngược lại, tôi cũng đồng ý với tác giả rằng xuất siêu của Việt Nam như hiện nay là không bền vững. Nói cách khác, rất có khả năng xuất siêu như hiện tại sẽ nhanh chóng chuyển sang nhập siêu, như đang cho thấy từ con số thống kê xuất nhập khẩu trong tháng 3 này. Cộng thêm với quá khứ nhập siêu kinh niên trong nhiều năm, nhiều tháng qua, việc kêu gọi phá giá của bên ủng hộ để cải thiện cán cân thương mại là hoàn toàn hợp lý, hợp logic.

Nếu muốn phản biện, xin tác giả hãy chứng minh rằng phá giá không giúp cải thiện cán cân thương mại (tức không giúp đạt được xuất siêu), là điều mà bên ủng hộ như tôi đã chỉ ra. Cũng vì đặt vấn đề sai (biến ý kiến của tác giả thành ý kiến của đối phương) nên lập luận của tác giả để chứng minh rằng xuất siêu hiện nay là không bền vững là lạc đề, mặc dù, xin nói lại, tôi cũng ủng hộ lập luận này (xuất siêu hiện nay là không bền vững) của tác giả, đơn giản vì tiền đồng vẫn lên giá thực quá nhiều so với đô la Mỹ nên trước sau nhập siêu cũng sẽ quay trở lại và Việt Nam sẽ phải phá giá (hay nói theo ngôn ngữ thường dùng của NHNN là “điều chỉnh” tỷ giá).

3. Tác giả viết: “NHNN có đang chịu áp lực phải bơm ngoại tệ ra để ổn định tỷ giá không? Câu trả lời là không”.

Ít nhất là có tôi bên ủng hộ không nói rằng hiện nay NHNN đang chịu áp lực bơm ngoại tệ để ổn định tỷ giá, mặc dù trên thực tế nhiều khi một trong những động cơ để phá giá là việc ngân hàng trung ương bất lực trong việc can thiệp vào thị trường ngoại hối để ổn định tỷ giá, như ở Việt Nam thời gian qua và các nước khác (Đông Nam Á trong cuộc khủng hoảng tài chính khu vực). Nhưng cũng như tác giả đã nhận định, tình trạng NHNN phải mua vào đô la Mỹ như vừa qua có thể không kéo dài khi nhu cầu đô la Mỹ tăng lên. Như vậy, đến lúc NHNN phải chuyển sang trạng thái ngược lại là bán đô la Mỹ ra để giảm áp lực phá giá tiền đồng thì lời kêu gọi phá giá của chúng tôi là hợp lý phải không, thưa tác giả?

Nói cách khác, nếu muốn phản đối ý kiến của chúng tôi, tác giả cần phải làm ngược lại, là chứng minh rằng phá giá tiền đồng không giúp làm giảm áp lực bơm ngoại tệ của NHNN ra thị trường để ổn định tỷ giá, chứ không phải là đi chứng minh rằng hiện nay NHNN đang phải mua vào đô la Mỹ nên không cần phá giá như tác giả đã làm trong bài viết của mình (tức là tác giả tiếp tục lạc đề).

4. Tác giả dùng số liệu xuất nhập khẩu để chứng minh rằng khi phá giá thì sẽ làm giá cả hàng hóa nhập khẩu tăng lên, nhất là xăng dầu, điện... làm tăng nguy cơ đẩy lạm phát lên. Đương nhiên lập luận này của tác giả là đúng, và không ai, ít nhất là tôi, phủ nhận rằng khi phá giá sẽ làm tăng áp lực lạm phát (thực ra tác giả không cần thiết phải mất công tìm và nêu ra chi tiết số liệu xuất nhập khẩu để chứng minh điều này, vì đó là điều hiển nhiên). Nhưng như tôi đã nói trong bài viết trước, áp lực phải phá giá thường đến từ lạm phát tăng, mà đến lượt nó lại do chính sách tiền tệ nới lỏng.

Một trong những lý do mà chúng tôi ủng hộ chuyện phá giá là, như đã nói ở trên, tiền đồng đã lên giá thực so với đô la Mỹ là hậu quả (phần lớn) của chính sách tiền tệ nới lỏng gây lạm phát cao ở Việt Nam trong suốt mấy năm qua so với lạm phát ở Mỹ. Vì vậy, việc phá giá tiền đồng, nếu có, chỉ là hậu quả (bắt buộc phải làm, phải gánh chịu), chứ không phải là nguyên nhân (gây ra lạm phát). Quan trọng hơn, nếu muốn giảm áp lực lạm phát ở Việt Nam từ việc “nhập khẩu lạm phát” qua kênh nhập khẩu thì NHNN hoàn toàn có thể dùng chính sách tiền tệ thắt chặt hơn để trung hòa áp lực gia tăng lạm hát đến từ phá giá. Như vậy cũng có nghĩa là phá giá không nhất thiết làm tăng nguy cơ lạm phát, như tác giả và những người phản đối đã và đang lập luận!

Hơn nữa, tác giả sai lầm khi cho rằng vì doanh nghiệp xuất khẩu có độ phụ thuộc lớn vào nguyên vật liệu nhập khẩu nên khi phá giá, lợi nhuận chẳng còn bao nhiêu. Hãy xem ví dụ sau. Giả sử giá xuất khẩu mặt hàng nào đó của Việt Nam là 100 đô la Mỹ/cái, nguyên vật liệu nhập về để sản xuất hàng đó là 90 đô la Mỹ/cái. Giả sử tiếp đồng Việt Nam bị phá giá từ 20.000 đồng/đô la Mỹ lên thành 21.000 đồng/đô la Mỹ, đồng thời giả sử rằng giá bán của hàng đó và giá nguyên vật liệu sản xuất hàng đó trên thị trường quốc tế (thị trường xuất khẩu) là không đổi, vẫn tương ứng là 100 đô la Mỹ và 90 đô la Mỹ, sau khi phá giá đồng Việt Nam. Lúc này, doanh nghiệp xuất khẩu và thu về được 100 x 21.000 = 2,1 triệu đồng; tức là 100.000 đồng lớn hơn so với trước khi phá giá. Mặt khác, chi phí nguyên vật liệu sau khi phá giá tăng lên 90 x (21.000 – 20.000) = 90.000 đồng. So với mức chênh 100.000 đồng doanh thu nhờ tăng tỷ giá, mức tăng chi phí nguyên vật liệu này vẫn nhỏ hơn. Suy ra là phá giá thì doanh nghiệp xuất khẩu vẫn có lợi hơn.

Tác giả cho rằng chi phí trong nước cũng tăng lên nên rốt cuộc “kết quả còn lại sẽ chẳng còn được bao nhiêu”. Rất tiếc, chi phí trong nước nếu có tăng lên do phá giá (lưu ý là không nhất thiết xảy ra, như nói ở trên khi NHNN thắt chặt hơn chính sách tiền tệ) thì chỉ đến một thời gian sau khi phá giá, chứ không thể song hành với hành động phá giá của NHNN, nên tại thời điểm phá giá thì nhà xuất khẩu và chuỗi cung ứng có liên quan vẫn được hưởng lợi.

Và một điều đặc biệt quan trọng nữa, như tôi đã đề cập đến trong bài trước, mà tác giả và nhiều người phản đối vẫn bỏ qua đó là chuyện doanh nghiệp xuất khẩu thay thế (một phần) đầu vào nhập khẩu bằng hàng sản xuất trong nước để giảm chi phí khi phá giá làm cho giá của đầu vào nhập khẩu tính theo đồng Việt Nam tăng lên, trở nên kém cạnh tranh hơn so với cũng hàng đó nhưng sản xuất trong nước. Một ví dụ có thể thấy là sản xuất và xuất khẩu hàng điện tử. Thay vì như trước đây doanh nghiệp xuất khẩu phải nhập khẩu một chi tiết nào đó, chẳng hạn, con vít (giá 1 đô la Mỹ, tương đương với 20.000 đồng, so với con vít cùng loại và chất lượng tương đương sản xuất tại Việt Nam với giá đắt hơn một chút, ví dụ 20.500 đồng), thì nay doanh nghiệp xuất khẩu có thể mua cũng con vít đó sản xuất trong nước với giá rẻ hơn sau khi tiền đồng bị phá giá ví dụ, từ 20.000 đồng/đô la Mỹ lên thành 21.000. Như thế có nghĩa là khi phá giá thì rất có thể hàm lượng hàng nhập khẩu trong hàng xuất khẩu giảm đi, trung hòa được áp lực “nhập khẩu lạm phát” do tăng tỷ giá, nếu có.

Suy rộng ra cho cả nền kinh tế, khi hàng hóa sản xuất trong nước trở nên cạnh tranh hơn sau khi phá giá thì hàng nhập khẩu sẽ “lép vế” hơn, đồng nghĩa với tổng doanh số nhập khẩu vào Việt Nam (tính bằng đô la Mỹ) ít đi và áp lực “nhập khẩu lạm phát” vì thế mà giảm đi. Nói cách khác, cứ cho là áp lực lạm phát sẽ gia tăng từ những mặt hàng nhập khẩu chiến lược như xăng dầu nhưng vì những mặt hàng nhập khẩu khác sẽ ít đi nên rốt cuộc sẽ trung hòa được áp lực đến từ xăng dầu.

Đến đây có thể kết luận lại rằng lập luận của tác giả rằng chỉ có ngành xuất khẩu tài nguyên là được hưởng lợi từ phá giá là không đúng.

5. Tác giả phủ nhận rằng “phá giá tiền đồng để tăng sức cạnh tranh thị trường trong nước cho doanh nghiệp nội địa”. Tác giả lập luận rằng “hầu hết sản phẩm tiêu dùng Việt Nam nhập khẩu là từ Trung Quốc”, mà Việt Nam không thể cạnh tranh được với họ về giá nên dù giá hàng Trung Quốc nhập về Việt Nam có đắt lên 9-10% thì cũng “chưa biết sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước có cải thiện được hay không, nhưng chắc chắn rằng số nợ họ đã vay để mua máy móc thiết bị thì tăng ngay lập tức”.

Thứ nhất, cần phải khẳng định ở đây, hoàn toàn theo logic, khi hàng nhập khẩu, dù là từ Trung Quốc, đã tăng giá lên (so với trước khi phá giá tiền đồng) thì xét về mặt tương đối, sức cạnh tranh của chúng phải giảm đi so với hàng trong nước, nếu mọi yếu tố khác không thay đổi. Tức là sức cạnh tranh của hàng trong nước sẽ được cải thiện, và vì thế tác giả không thể nói chung chung là “chưa biết sức cạnh tranh có cải thiện được hay không”.

Thứ hai, về chuyện doanh nghiệp vay nợ để mua máy móc nên khi phá giá thì số nợ sẽ tăng lên. Chuyện này lại quay trở về lập luận của tôi ở trong bài trước là NHNN sẽ phải “bù lỗ”, “trợ giá” cho doanh nghiệp, cho tư nhân bằng quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia nhằm ổn định tỷ giá, không tăng gánh nặng nợ cho những đối tượng này. Nếu tác giả đồng ý rằng NHNN không nên mang của công ra làm lợi cho một số đối tượng nhất định thì tác giả đã tự phủ nhận ý kiến của mình.

Thứ ba, như đã nói ở trên, khi phá giá, doanh nghiệp sẽ bớt đi động cơ dùng máy móc nhập khẩu, thay bằng máy móc trong nước. Đành rằng không phải máy móc nào cũng mua được trong nước, nhưng cho dù chỉ có một phần có thể thay thế được thì cũng có nghĩa là cả nền kinh tế được hưởng lợi hơn (một cách tương đối) vì bán được nhiều hàng nội địa hơn, bớt nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu, giảm nhập siêu (nếu có), từ đó giảm áp lực lên tỷ giá.

6. Tác giả phủ nhận khi (NHNN khẳng định) không phá giá thì doanh nghiệp sẽ quay sang vay mượn bằng ngoại tệ nhiều hơn, làm tăng sức ép buộc NHNN phải bơm ngoại tệ để ổn định tỷ giá.

Thực ra tác giả diễn giải sai ý của (chúng) tôi. (Chúng) tôi cho rằng sự khẳng định của NHNN rằng tỷ giá ổn định sẽ khuyến khích doanh nghiệp đi vay bằng ngoại tệ (từ nước ngoài) với lãi suất thấp hơn, tạo ra rủi ro liên quan đến sự bất cân xứng đồng tiền (currency mismatch), khi mà nhiều doanh nghiệp này có nguồn thu chủ yếu bằng tiền đồng. Điều này sẽ làm trầm trọng tình trạng đô la hóa, là điều hẳn nhiên không nói thì tác giả cũng đồng ý là điều tuyệt đối cần tránh. Chưa kể, nhu cầu mua ngoại tệ để trả nợ vay nước ngoài/trong nước thường có tính chu kỳ hoặc dồn vào một vài thời điểm nào đó trong năm, hoặc những lúc có biến cố xảy ra làm tăng tâm lý mua vét ngoại tệ để phòng ngừa và chờ đến lúc phải trả nợ v.v... tất cả đều làm tăng gánh nặng can thiệp bán ra ngoại tệ của NHNN nhằm thỏa mãn nhu cầu dồn dập của thị trường trong những thời điểm như thế. Nếu không may mà năng lực can thiệp ổn định thị trường của NHNN không đủ mạnh thì sẽ xảy ra những bất ổn khó lường từ chuyện này. Tác giả cần chứng mình rằng những luận điểm này của (chúng) tôi là sai, chứ không phải như đã làm ở trong bài của mình.

7. Cuối cùng, tác giả đề cập chuyện phá giá sẽ làm suy giảm lòng tin của dân và tình hình có thể thoát khỏi vòng kiểm soát.

Như tác giả cũng đồng ý rằng niềm tin vốn rất mong manh. Vì vậy, nếu làm ngược lại, cam kết kiên quyết không phá giá nhưng do thực tế đòi hỏi phải phá giá và đến một lúc nào đó không cưỡng lại được với sức ép của thị trường, NHNN buộc phải phá giá, lúc đó niềm tin còn suy giảm hơn nhiều, và đúng là hoàn toàn có thể gây ra hoảng loạn khi tình hình không kiểm soát được, như đã từng thấy ở trên thế giới. Nói cách khác, chừng nào mà NHNN cam kết và trên thực tế sẽ không phá giá với bất cứ lý do gì, trong hoàn cảnh nào thì chừng đó niềm tin sẽ còn, và sẽ được củng cố. Nhưng câu hỏi là liệu NHNN có làm được như nói được không? Nếu tác giả không tin tưởng lắm vào khả năng này thì tốt nhất là, làm như tôi khuyến cáo trong bài trước, đừng khẳng định cái gì, và hãy để chính sách tỷ giá của mình bất định với thị trường.

Wednesday 27 March 2013

Bình luận nhanh về bài: "Thay đổi tỷ giá có nên?"

Bài: "Thay đổi tỷ giá có nên?" của Bùi Trinh, Nguyễn Việt Phong trên TBKTSG tại đây

Hôm nay tớ lọ mọ tìm ra được bài này, thấy sai nhiều quá và vì nó được đăng trên TBKTSG nên quyết định lôi ra để phang.

Sai 1: Vẫn cái luận điệu vì mức phụ thuộc nhập khẩu lớn nên càng xuất khẩu thì càng tăng nhập khẩu nên không nên phá giá.
Xuất khẩu tăng thì nhập khẩu cũng tăng là đương nhiên rồi, khỏi cần phải chứng minh. Nhưng xét về mức tuyệt đối và tốc độ tăng thì chắc chắn nhập siêu, nếu có, sẽ giảm. Đây mới là cái điều quan trọng, đáng nói. Và vì thế nên phá giá nếu VND đã lên giá thực so với USD.

Sai 2: Bài viết có trích dẫn tính toán nào đó của TCTK rằng phá giá x% thì lạm phát sẽ tăng y%, để rồi lý luận rằng phá giá sẽ làm tăng chi phí đầu vào, tăng lạm phát, là điều cần tránh.
Sai/không nhất thiết đúng vì muốn cho cái tính toán của mình thuyết phục thì TCTK hoặc mấy đồng chí tác giả này phải chứng minh/giải trình được rằng mối quan hệ nhân quả giữa lạm phát và tỷ giá sẽ theo chiều tỷ giá gây tác động lên lạm phát, chứ không phải ngược lại, theo mô hình Inflation = f(Exchange rate), trong đó tỷ giá là biến giải thích còn lạm phát là biến phụ thuộc. Đương nhiên, nếu đúng như thế này thì khi cho chạy mô hình này chắc chắn sẽ ra được kết quả là tỷ giá tăng 1 điểm % thì lạm phát sẽ tăng x điểm %, theo quan hệ tuyến tính, Inflation = a + b*Exchange rate, chẳng có gì bất ngờ, khó hiểu cả.
Nhưng cái mô hình trên hoàn toàn có thể sai về bản chất. Tớ cho rằng, như đã nói ở bài viết trước, quan hện nhân quả là theo chiều ngược lại, tức lạm phát có trước, gây áp lực lên tỷ giá để rồi phải phá giá. Lạm phát thấp, thâm hụt thương mại thấp, kinh tế tăng trưởng khả quan... thì ai tự nhiên đi phá giá làm gì nếu không muốn hứng chịu sự trả đũa thương mại của các nước đối tác?
Ngoài ra, nếu có muốn tinh vi dùng mô hình này kia cho sang thì phải làm cho đến nơi đến chốn. Tức là chí ít thì phải xem xét đưa thêm vào mô hình các biến giải thích có liên quan, ví dụ như cung tiền M2, thâm hụt thương mại, các biến cố kinh tế, chính trị có ảnh hưởng v.v... Cũng còn chưa kể đến các yếu tố kỹ thuật, ví dụ số lượng observations cần  thiết trong chuỗi dữ liệu, vấn đề về unit root của chuỗi số liệu sử dụng (time series), phải lọc/chế biến các dữ liệu mà thông thường các đồng chí amateur rất dễ bỏ qua/không đếm xỉa đến.
Vì không được đọc cụ thể nên tớ không dám hồ đồ nói gì thêm, nhưng rất nghi ngờ rằng TCTK và các tác giả đã làm/giải quyết xuất sắc các vấn đề mà tớ mới chỉ nêu sơ sơ qua như vậy. Tớ nghi ngờ không phải là không có lý khi mà tớ không lạ gì trình độ lý luận và khả năng áp dụng kinh tế lượng của các học giả/chuyên gia Việt Nam (nói thêm là tớ đã "vinh dự" được đọc phản biện cho một số tạp chí nước ngoài về một số bài gửi đăng của các tác giả Việt Nam). Trên hết, nếu làm tốt như vậy thì TCTK và các tác giả hoàn toàn có khả năng và nên gửi công trình nghiên cứu của mình đi đăng tải ở các tạp chí học thuật quốc tế. Xin đừng nói là không cần/không thèm làm thế nhé!
Chuyện ngoài lề một tí. Tớ vẫn nhớ lời của mấy ông giáo sư hồi còn đi học, khi thấy tớ "khoe chữ" bằng cách triệt để áp dụng kinh tế lượng trong các nghiên cứu của mình, đại loại rằng quan trọng hơn việc áp dụng kinh tế lượng, mô hình toán này kia thì phải hiểu bản chất của vấn đề trước đã.

Sai/bất hợp lý 3: Lại nhắc đến nợ công và cho rằng phá giá sẽ làm tăng áp lực trả nợ vay của chính phủ và doanh nghiệp.
Tớ đồng ý rằng phá giá thì gánh nặng trả nợ quy ra VND sẽ phình to lên cho mọi đối tượng có vay nợ nước ngoài. Nhưng như tớ đã nói ở các bài trước, liệu có nên chấp nhận để NHNN gánh hết hậu quả của việc đảm bảo rằng tỷ giá không tăng để gánh nặng nợ kể cả của khối doanh nghiệp và tư nhân không tăng lên không?

Sai 4: Lại chuyện tác động lan tỏa, khi tỷ giá tăng thì sẽ tác động tiêu cực đến tiêu dùng cuối cùng, tích lũy, xuất khẩu ở mức tương ứng là x lần, y lần và z lần.
Chịu chẳng hiểu cái quan hệ tuyến tính này moi ở đâu ra. Ít nhất thì đối với xuất khẩu, như đã nói, khi phá giá thì chỉ có làm lợi cho nó, chứ không thể gây hại được. Tương tự, khi xuất khẩu đã tăng thì rất có thể tích lũy cũng sẽ tăng vì nhà xuất khẩu và chuỗi cung ứng trong nước được hưởng lợi và do đó có thêm điều kiện để tăng tích lũy. Cũng tương tự, khi thu nhập từ xuất khẩu tăng thì sẽ có thể dẫn đến tiêu dùng cuối cùng cũng tăng, đơn giản vì người ta kiếm được nhiều tiền hơn thì sẽ có xu hướng chi tiêu nhiều hơn. Chỉ nói sơ qua thế thôi để thấy cái lỗ hổng to đùng trong cách lập luận, triển khai vấn đề của nhóm tác giả.

Sai 5: Nhóm tác giả lấy chỉ số giá nhập khẩu trong 3 năm 2010-12 thấp hơn chỉ số giảm phát GDP để cho rằng chỉ số giá nhập khẩu là một trong những yếu tố giúp hạ nhiệt lạm phát.
Chuyện này chung quy lại quay lại chuyện phá giá thì sẽ làm tăng giá hàng nhập khẩu và vì thế làm tăng lạm phát, bởi vậy phải kiềm chế giá nhập khẩu bằng cách không tăng tỷ giá, là cái chuyện tớ đã phang rồi.
Nói thêm, tại sao nhóm tác giả chỉ lấy có 3 năm này? Có thời kỳ nào mà chỉ số giá nhập khẩu lại tăng nhanh hơn chỉ số giảm phát GDP không? Trên hết, tớ chịu chẳng hiểu logic của mối liên hệ này. Nếu chỉ để chứng minh là hễ cứ kìm giữ được giá nhập khẩu thì lạm phát sẽ không tăng thì cần gì phải nêu ra mối liên hệ này?

Tóm lại, bài viết này rất yếu về lý luận và cách thức chứng minh vấn đề. Nó chỉ hơn những bài khác, ví dụ như các bài của tớ chẳng hạn, ở chỗ nó nêu ra, trích dẫn rất nhiều con số của cái TCTK hoặc của các tác giả, là những người làm thống kê để làm hậu thuẫn. Nhưng tiếc rằng bản thân những con số này lại chứa đựng những câu hỏi to tướng không có lời giải vì tính tù mù của chúng.

Friday 22 March 2013

Quyết tâm vào cuộc của cả hệ thống chính trị


Tớ viết cái title này mà không có ngoặc kép chắc làm một số đồng chí tưởng tớ đang dọn đường phấn đấu vào đảng thì sướng quá (tiện đây nói thêm là tớ đã có một thời gian làm việc ở các cơ quan doanh nghiệp nhà nước trước khi lên đường bôn ba tìm đường cứu nước. Bản chất tớ tốt thế mà chưa bao giờ được cấp ủy nơi công tác nào tỏ nhã ý rủ tớ vào đảng. Thậm chí ngay từ cái việc đơn giản nhất, dễ nhất là rủ/cho đi học cảm tình đảng cũng không đến lượt tớ, thế mới cay cú. Chịu chả hiểu tại sao. Trả nhẽ lại đút lót mấy chỉ vàng để được đi học cảm tình đảng à?).

Hôm nay đọc báo chơi chợt thấy cái title này, và nhớ lại là đã không ít lần đọc/nghe được cái cụm từ này ở nhiều nơi, từ nhiều cái mồm già trẻ, to nhỏ, xấu vừa vừa, thậm xấu... đủ cả. Chợt phì cười khi chịu khó ngồi diễn giải ngữ nghĩa của nó (hóa ra lâu nay tớ cũng ngu, đọc/nghe mà cho đến bây giờ mới bật cười lên được).

Với ngữ cảnh và nghĩa đen của cụm từ trên thì có thể hiểu trước nay và có lẽ cả sau này, cả  cái gọi là “Hệ thống chính trị” và các tổ chức/cá nhân trong lòng nó đều KHÔNG quyết tâm làm việc (trong một số lĩnh vực/vấn đề liên quan).

Có thể hiểu hóa ra từ trước đến nay cả cái hệ thống này đều ĐỨNG NGOÀI cuộc (trong một số lĩnh vực/vấn đề liên quan).

Có thể hiểu hóa ra từ trước đến nay mới chỉ có “hệ thống PHI chính trị” là có “quyết tâm”, có “vào cuộc”, có làm việc (trong một số lĩnh vực/vấn đề liên quan).
Vậy cái “hệ thống chính trị” là cái gì mà được quyền LỜ VỜ (dùng tạm từ này để đối nghĩa với QUYẾT TÂM) làm việc hoặc KHÔNG (thèm) vào cuộc nhỉ? Nếu nó là một hệ thống không ăn lương của dân để tồn tại và làm việc thì dễ hiểu vì ... thiếu động lực (bát cơm/sổ hưu) để làm việc. Nhưng nếu vậy thì tại sao phải/cơ sở nào để quyết tâm lôi/buộc nó vào cuộc, hoặc buộc/làm cho nó phải quyết tâm vào cuộc? Vào cuộc rồi liệu nó có quyết tâm làm việc (như ý muốn) được không khi mà nó không có bát cơm/sổ hưu treo trước mũi làm động lực?

Nếu nói hệ thống chính trị này là hệ thống ăn lương của dân, làm việc cho dân, quản lý/lãnh đạo/dắt mũi dân thì ai cho nó cái quyền ăn lương mà KHÔNG (QUYẾT TÂM) làm việc, KHÔNG VÀO CUỘC? Ai phải chịu trách nhiệm cho tình trạng này? Cái gì làm nó phải quyết tâm vào cuộc?
Nếu hệ thống chính trị này có ăn lương và phải (quyết tâm) làm việc, thì lại phát sinh thêm vấn đề rắc rối là thế thì lúc đó cái hệ thống PHI chính trị kia (chắc là có ăn lương của dân vì phải làm việc khi hệ thống chính trị đứng ngoài cuộc, không thèm quyết tâm làm việc) vất đi đâu, để làm gì, vì nó vẫn đang làm việc cơ mà? Thế thì lại suy ra tiếp rằng cái hệ thống PHI chính trị này có ăn lương của dân mà KHÔNG làm được việc, không đáp ứng được nhu/yêu cầu của dân. Vậy thì giải tán quách cho rồi, đỡ tốn tiền dân.

À mà viết đến đây tớ chợt hiểu ra rằng rất có thể cái nước mình nó có 2 hệ thống. Một cái là “hệ thống PHI chính trị”, rất có thể là hệ thống hạ cấp hơn, dùng để làm những việc vớ vẩn, tầm thấp. Với cái tầm này thì loại hình và chất lượng công việc là điều không bao giờ nên/được đặt ra. Hệ thống thứ hai là “hệ thống chính trị” cao cấp hơn, chuyên để làm những việc ở tầm cao hơn, làm những việc mà hệ thống PHI chính trị không làm được, còn thông thường thì không thèm làm việc, có làm thì lờ vờ gọi là có, có làm thì chỉ mân mó bên ngoài chứ không thèm vào hẳn bên trong. Thế thì các đồng chí cứ/hãy hi vọng dầm dề rằng một ngày đẹp trời nào đó cái hệ thống chính trị này tự dưng sung lên, tự giác và quyết tâm, “quyết liệt” vào cuộc (thêm một từ thời thượng nữa). May nhờ rủi chịu nhé.

Nhưng nói gì thì nói, tớ cũng chịu chẳng hiểu tại sao lại phải có/cần đến sự tồn tại của cả 2 hệ thống này, cũng như chức năng và nhiệm vụ của chúng. Thôi thì cứ quy cho “lỗi hệ thống” là xong, hoặc “đặc thù” của Việt Nam cho đỡ đau đầu thắc mắc lôi thôi.

Thursday 21 March 2013

Ghi nhanh (bổ sung)

3. Quên không nói đến chuyện đánh thuế lên tiền gửi tiết kiệm. Nhìn chung dư luận “chửi” cái đề xuất này không ra gì với lập luận nào là thế là đánh thuế 2 lần, nào là những người hưu trí sống bằng tiết kiệm thì thiệt thòi quá, nào là kinh tế còn khó khăn, thu nhập dân cư còn thấp nên đánh thuế thế là tận thu, không thể/nên so sánh với nước ngoài nơi có bảo hiểm xã hội tốt, nào là dân sẽ rút tiền ra đầu tư vào vàng, ngoại tệ v.v… Có người còn đi xa hơn khi liên hệ với việc tương tự xảy ra ở Sip để đe Việt Nam.
Thực ra, cũng như đã có người chỉ ra, gửi tiết kiệm cũng là một kênh đầu tư có thu nhập và lợi nhuận. Vậy theo nguyên tắc thì mọi nguồn thu nhập đều bị/phải đánh thuế, kể cả từ tiền gửi tiết kiệm. Và chuyện này không chỉ xảy ở Việt Nam mà còn ít nhất theo tớ biết là ở Sing. Bản thân tớ trước đây đã được ngân hàng gửi thống kê cuối năm báo là trong năm qua đã có bao tiền lãi làm cơ sở để cá nhân khai báo với Cục Thuế khi khai tổng mức thu nhập trong năm. Nhưng gần đây thì không thấy còn nhận được cái thống kê kiểu này từ ngân hàng nữa (có lẽ do tớ nghèo, tiền gửi ở ngân hàng chưa hết tháng đã bị rút gần hết, chẳng được mấy xu tiền lãi nên các ngân hàng chán không buồn gửi nữa chăng?) nên tớ mới không phải khai báo tiền lãi tiết kiệm vào tổng thu nhập hàng năm.
Thứ hai, thực ra cái đề xuất đánh thuế tiền tiết kiệm trên nếu về bản chất là đề xuất đánh thuế trên tiền lãi thì hòan toàn chấp nhận được. Ở đây chẳng có gì liên quan đến nghèo khổ, khó khăn, hưu trí, làm ăn trì trệ, thu nhập dân cư còn thấp v.v... như người ta vẫn nại ra. Những vấn đề này sẽ là vô nghĩa nếu sự đánh thuế được tính trên tổng thu nhập của cá nhân hàng năm và có sự liên thông giữa tiền lãi với tổng thu nhập như tớ nói ở trên như với Sing. Hiển nhiên khi đó nếu là hưu trí (thiếu gì hưu trí giàu?), người nghèo sống bằng ít tiền lãi tiết kiệm thì đâu có bị sứt mẻ đồng lãi nào nếu tổng thu nhập cả năm/tháng dưới mức tối thiểu đánh thuế. Còn nếu “chẳng may” có bị đánh thuế thì chứng tỏ những đối tượng đó không còn bị/được gọi là người thu nhập thấp nữa thì việc bị đánh thuế lên tiền lãi là hiển nhiên còn gì? Và theo cơ chế đánh thuế kiểu này thì cũng chẳng còn lo chuyện lách luật bằng việc tách nhỏ các khỏan gửi, vì cuối cùng thì mọi thứ vẫn phản ánh ở tổng thu nhập khai với Cục/Sở thuế, chẳng thoát đi đâu được.
Còn những cái chuyện như dân rút tiền ra không gửi nữa, ngân hàng sẽ phải tính lãi cho vay cao lên để bù đắp chi phí vay cao khi người gửi tiền đòi lãi cao để bù đắp thuế, hoặc chuyện bất ổn như xảy ra ở Sip v.v… là những nỗi lo theo kiểu đếm cua trong lỗ vì thị trường sẽ điều chỉnh tất cả những mối quan hệ/quyền lợi này, và mọi sự ban đầu bao giờ cũng có xáo trộn nhưng rồi mọi thứ sẽ dần đi vào nền nếp thành thói quen. Nói đâu xa, trước đây chưa lâu lắm, làm gì mấy ai quen/thích với khái niệm bị đánh thuế thu nhập đâu mà nay thì chuyện này đã thành hiển nhiên rồi. Nếu cứ lo thế thì sẽ chẳng bao giờ nhà nước thu được một đồng thuế thu nhập nào vì cho rằng sẽ nổ ra bạo loạn do dân chúng phản đối sự “bóc lột” này ư?

Ghi nhanh


1.       Mấy hôm nay dư luận được dịp hỉ hả về chuyện cá nhân vừa được cho phép vay vốn từ nước ngoài. Đa phần tán thành vì cho rằng những việc liên quan thì trước nay người ta vẫn làm, chỉ khác là phải làm chui, nhiều rủi ro (nhất là khi xảy ra tranh chấp), còn nay thì được trực tiếp làm, hợp pháp làm. Nhà nước thì có thêm ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối và “phát triển kinh tế” (sao người ta không nghĩ đến lúc ngoại tệ chảy ngược ra nhỉ, như trong cuộc khủng hoảng tài chính ở châu Á năm 1997?).

Cũng có một số người thì quan ngại với những rủi ro, chủ yếu là “tăng gánh nặng nợ quốc gia” (ơ hay, thế nào là “nợ quốc gia”?). Lại có người phản biện nỗi lo này bằng cách vạch ra rằng đây là nợ tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm nên không thống kê vào nợ quốc gia. Đơn giản thế sao? Thế đến lúc người ta (ào ạt) phải thu xếp trả nợ và phải tìm mọi cách để có được ngoại tệ để trả nợ ra nước ngoài thì ai là người gánh chịu hậu quả cuối cùng? Không ai? Không phải nhà nước? Đúng là nhà nước, mà đúng hơn là NHNN vì chí ít ở Việt Nam thì “mọi con đường ngoại tệ đều dẫn đến NHNN”! Có lẽ người ta không đủ chiều sâu kiến thức để liên hệ đến cái gọi là “bộ ba bất khả thi” và hậu quả có liên quan của việc tự do hóa lưu chuyển vốn (trong trường hợp này ở Việt Nam là tự do hóa dòng vốn chảy ra nước ngoài) lên chính sách tỷ giá và lãi suất, để từ đó phải bớt hân hoan, ca ngợi sự “cởi trói” chính sách này trong khi NHNN vẫn phải đang vật lộn với bài toán tỷ giá và lãi suất ở Việt Nam hiện nay và cho nhiều năm sau.

Tờ VEF lại còn đi xa hơn khi nêu ra những rủi ro liên quan như người Việt Nam sẽ bị lừa khi vay nước ngoài. Thế liệu người ta có nên lo ngại, thương xót cho những nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán hay vàng ở Việt Nam không? Cùng một logic thế mà!

Riêng tớ thì chẳng có tí mảy may phản ứng với cái sự “cởi trói” này vì biết thừa rằng còn lâu cái viễn cảnh này mới thành hiện thực được. Chắc chắn việc vay mượn, chuyển tiền ra nước ngoài sẽ không dễ dàng như trên giấy tờ vì hầu như mọi quy định đều được “thòng” thêm mệnh đề “theo quy định của pháp luật” hoặc “theo quy định của Thủ tướng” hoặc “theo quy định của NHNN” hoặc “được phép” của những nơi/cái/người này v.v... Cái cơ chế này về bản chất vẫn sẽ là cơ chế “xin cho”, ad hoc, tùy tiện, tạo điều kiện cho tham nhũng và bất minh bạch có lợi cho một số người/nhóm nào đó có quyền lực hoặc có quan hệ, và gây khó cho những đối tượng khác. Ngoài ra, Chính phủ và NHNN đương nhiên (có lúc sẽ phải) biết đến rủi ro/nếm mùi cay đắng của việc tự do hóa lưu chuyển vốn như thế này trong khi trong tay chẳng có mấy công cụ và khả năng kiểm soát tình hình. Với thực tế như thế thì thượng sách vẫn là nói một đằng làm một nẻo, cho phép trên giấy tờ còn thực tế thì tùy xét! Tóm lại mọi việc vẫn sẽ như cũ.
2. Mấy hôm trước tớ vừa “độc mồm” nhắc đến chuyện các đồng chí chuyên gia phản đối phá giá VND thì cứ xui Chính phủ dùng các công cụ trợ giá, trợ cấp để kích thích xuất khẩu thủy sản. Thì mấy hôm nay dư luận lại được hâm nóng với cái tin Mỹ trừng phạt các nhà xuất khẩu cá (gì nhỉ?) của Việt Nam. Vẫn như thường lệ, hết người này đến hội nọ, tổ chức kia lên tiếng phản đối quyết định “bất công” này của Mỹ. Chẳng có mấy người nghĩ sâu xa hơn một chút tại sao lại có những cái loại quyết định “bất công” thế này đối với Việt Nam và khả năng kiện thắng Mỹ là hầu như không có. Cũng chẳng có ai để ý đến chi tiết (đăng trên báo Việt Nam hẳn hoi nhé) là có bao nhiêu doanh nghiệp Mỹ và/hoặc sản lượng cá nuôi ở Mỹ đã ra đi vì những nhà xuất khẩu Việt Nam (tớ quên mất con số cụ thể rồi). Trước đây tớ có viết một bài về chuyện này, dẫn lại mấy cái ví dụ bao nhiêu doanh nghiệp may mặc ở Mỹ đã phải đóng cửa nhường thị trường cho hàng may mặc của Việt Nam và các nước tương tự, để rồi nhiều người Mỹ thất nghiệp. Nếu kêu gọi Mỹ thông cảm, thương xót, nhân quyền hơn khi xem xét đến Việt Nam thì ai sẽ là người thương xót, thông cảm cho các doanh nghiệp, công dân Mỹ mất việc vì những trò thương mại gian lận này? Dám làm thì dám chịu thôi, đừng kêu ai. Và cũng mong là qua những ví dụ này để những người hoạch định chính sách biết phải làm gì cho đúng.

Thursday 14 March 2013

Có nên phá giá VND không? (Bài đăng trên TBKTSG)


Đây là bản gốc. Bản đăng trên TBKTSG số ra 14/3/2013 đã bị cắt bớt một vài đoạn.
http://www.thesaigontimes.vn/Home/taichinh/nganhang/93029/Co-nen-pha-gia-tien-dong-khong?.html
--------------------------------------------------
(TBKTSG) - LTS: Đã có nhiều ý kiến khác nhau về việc điều chỉnh hay giữ nguyên tỷ giá kèm theo là những phân tích tác động lên nền kinh tế. Số báo tuần này, TBKTSG giới thiệu một ý kiến nữa, với một số góc nhìn mới hơn để bạn đọc tham khảo.

Gần đây chuyện có nên phá giá VND lại có dịp làm nóng dư luận với bên phản đối phá giá nắm phần áp đảo tuyệt đối với rất nhiều lý lẽ nghe hết sức thuyết phục so với bên ủng hộ phá giá vốn đã ít lại chỉ đưa ra được một (số) ít lý lẽ chưa đủ sức nặng, chủ yếu là dựa trên chuyện xuất khẩu sẽ tăng lên. Trong bài viết này chúng ta sẽ vạch ra các sai lầm và/hoặc chưa hoàn toàn chính xác trong các lập luận của bên phản đối, đồng thời bổ sung thêm một số lý do làm tăng sức nặng cho bên ủng hộ.
Thứ nhất, bên phản đối cho rằng điều chỉnh tỷ giá (phá giá) sẽ làm gia tăng lạm phát và cản trở những nỗ lực ổn định kinh tế vĩ mô.

Có thể nói đây là một trong những lý do chính được bên phản đối đưa ra làm hậu thuẫn cho việc không nên phá giá. Theo cách hiểu trên thì tỷ giá gây ra lạm phát và vì thể để chống lạm phát cần phải ổn định tỷ giá. Nhưng trên thực tế, đa phần áp lực đẩy tỷ giá tăng (nội tệ mất giá) là xuất phát từ lạm phát. Và lạm phát thì lại thường là kết quả trực tiếp và chủ yếu của chính sách tiền tệ nới lỏng gây ra. Vì thế, có thể nói hành động ổn định tỷ giá để kiềm chế lạm phát như vậy về bản chất là vừa không trị đúng nguồn gốc căn bệnh lạm phát là do cung tiền tăng, lại vừa tốn kém một cách vô ích vì phải dùng quỹ dự trữ ngoại hối để can thiệp bình ổn tỷ giá mà rốt cuộc vẫn phải phá giá (như nói thêm dưới đây).
Thứ hai, bên phản đối lo ngại rằng nếu điều chỉnh VND 3%-4% hàng năm như theo đề xuất của một số người sẽ làm gia tăng kỳ vọng tỷ giá và phá vỡ những nỗ lực của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong việc bình ổn tỷ giá và tâm lý thị trường; niềm tin đối với giá trị VND dễ bị mài mòn.

Cần thấy rằng trên bề mặt thì lời tuyên bố giữ ổn định tỷ giá của NHNN có vẻ như sẽ tạo lập được niềm tin cho thị trường khi môi trường kinh doanh bớt đi một yếu tố bất trắc. Nhưng cái thiện ý này của NHNN lại khuyến khích các doanh nghiệp đi vay bằng ngoại tệ để sản xuất kinh doanh với lợi rõ ràng là lãi suất đi vay ngoại tệ thấp hơn hẳn rất nhiều so với VND, trong khi đáng chú ý là nhiều trong số họ có doanh thu bằng VND. Tình trạng bất đối xứng đồng tiền (currency mismatch) như vậy sẽ gây thêm áp lực rất lớn cho NHNN trong việc cố gắng thực hiện mục tiêu ổn định tỷ giá, đặc biệt khi thời hạn trả nợ các khoản vay ngoại tệ đến dồn dập vào thời điểm nào đó (cuối năm).
Ngoài ra, niềm tin đối với VND và tâm lý thị trường chỉ có thể ổn định một cách vững chắc khi có thêm những điều kiện kinh tế vĩ mô vững chắc, là những điều kiện làm hậu thuẫn cho tỷ giá VND ổn định. Những điều kiện đó bao gồm (nhưng không chỉ giới hạn ở) chính sách tiền tệ thận trọng (không bơm tiền quá liều), lạm phát (trước đó) không quá lớn, cán cân thương mại/vốn thăng bằng/thặng dư, dự trữ ngoại tệ đủ lớn, NHTW độc lập tương đối với Chính phủ và không bị áp lực phải in tiền tài trợ cho thâm hụt ngân sách, tỷ giá trước đó đã được biến động linh hoạt và NHTW không cam kết ổn định tỷ giá thái quá và bằng mọi giá, lưu chuyển vốn vào ra khỏi Việt Nam bị kiểm soát chặt chẽ, xuất khẩu không bị áp lực phải tăng trưởng mạnh (trong đó có nhờ đến phá giá) nhằm bù đắp cho nhu cầu thị trường nội địa suy giảm (như hiện nay) làm tăng trưởng kinh tế và việc làm bị tụt xuống dưới mức tiềm năng v.v.. Dễ thấy là nhiều trong số những điều kiện nền tảng này đã và đang không được đảm bảo ở Việt Nam. Một khi các điều kiện này đã bị vi phạm thì việc ổn định tỷ giá bất chấp các nền tảng yếu ớt sẽ chỉ mang tính nhất thời, ngắn hạn và sớm muộn NHNN cũng phải “buông” ra một cách mạnh mẽ, như hồi năm 2011.

Thị trường biết rõ điều này và chính vì thế nên mọi sự “kiên định” thái quá của NHNN trong việc níu kéo tỷ giá chỉ làm tăng thêm kỳ vọng phá giá và đầu cơ USD. Kỳ vọng này lại càng làm trầm trọng thêm áp lực phá giá VND, đẩy nhanh thời điểm phải phá giá đến sớm hơn. Và một khi đã xảy ra thì mức độ phá giá phải lớn hơn mức cần có để phục hồi lại các nền tảng ổn định tỷ giá trở lại.
Nói cách khác, ổn định tỷ giá bất chấp các nền tảng lung lay như hiện nay sẽ mang đến nhiều thiệt hại hơn để đổi lấy cái gọi là niềm tin, vốn mông lung, có điều kiện, và rất mong manh trong hoàn cảnh hiện tại.

Thứ ba: bên phản đối cho rằng việc điều chỉnh tỷ giá sẽ làm tăng mức độ nợ công của nền kinh tế.
Đây là một sai lầm rất phổ biến trong mọi giới ở Việt Nam. Như trong bài viết sau trên VEF,
http://vef.vn/2011-11-05-nen-doi-xu-nhu-the-nao-voi-ty-gia-usd-

tác giả đã chỉ ra rằng để ổn định tỷ giá nhằm tránh tăng gánh nặng trả nợ công của Việt Nam quy ra theo VND thì NHNN phải trả giá thay Chính phủ bằng việc sử dụng quỹ dự trữ ngoại hối của mình. Tức là thiệt hại do tăng nợ công lẽ ra Chính phủ phải gánh thì nay gánh nặng này lại được đẩy sang NHNN, gánh nặng nợ chỉ đổi từ vai phải sang vai trái của quốc gia. Khi ổn định tỷ giá bằng quỹ dự trữ ngoại hối (tài sản công) thì chỉ có khu vực doanh nghiệp và cá nhân là được lợi hoàn toàn vì họ được “bù lỗ”, “trợ cấp” bằng tài sản công. Việc này càng khuyến khích doanh nghiệp và tư nhân vay nợ nước ngoài, như đã nói ở điểm thứ hai
Thứ tư: bên phản đối cho rằng phá giá không nhất thiết làm tăng xuất khẩu, cải thiện cán cân thương mại. Lý do họ đưa ra là do tỷ trọng nhập khẩu trong sản xuất trong nước và xuất khẩu quá lớn, bởi thế khi phá giá sẽ làm giá cả hàng nhập khẩu tăng và nhập siêu trầm trọng quay trở lại.

Bên phản đối đã bỏ qua/nhầm lẫn một tác dụng rất quan trọng của phá giá là kích thích tăng lượng xuất khẩu (vì làm giảm giá hàng xuất khẩu quy ra USD từ đó làm tăng tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam trên thị trường quốc tế), và đồng thời giảm lượng nhập khẩu (vì làm tăng tương đối giá hàng nhập khẩu quy ra VND so với hàng hóa tương ứng sản xuất trong nước). Doanh số tăng từ khối lượng xuất khẩu tăng thường sẽ lớn hơn phần doanh số sụt giảm do giá xuất khẩu của Việt Nam giảm một chút so với đối thủ khác.
Còn nhập khẩu, đồng ý rằng giá tính ra VND có tăng lên, nhưng giá nhập khẩu bằng USD thì không đổi trước và sau khi phá giá VND. Nhưng vì lượng nhập khẩu phải giảm đi, nên doanh số nhập khẩu tính bằng USD sẽ giảm đi. Kết hợp với doanh số xuất khẩu tăng lên, doanh số nhập khẩu giảm đi sẽ càng làm cho cán cân thương mại được cải thiện và thậm chí thặng dư, hậu thuẫn cho sự ổn định vững chắc của tỷ giá VND. 

Thứ năm: bên phản đối cho rằng nếu phá giá VND thì niềm tin và dòng vốn đầu tư nước ngoài có thể bị ảnh hưởng, bởi họ bị “móc túi” khi rót vốn vào Việt Nam (do tỷ giá tăng nên giảm lợi nhuận ra nước ngoài).
Niềm tin chỉ là một khái niệm tương đối. Nhà đầu tư còn mất niềm tin hơn nữa khi NHNN trước đó còn khăng khăng tuyên bố “kiên định” với ổn định tỷ giá thì đùng một cái sau vài ngày, vài tuần, vài tháng lại phải phá giá (mạnh) khi không thể đỡ được với áp lực thị trường. Ngược lại, niềm tin sẽ có nhiều hơn một cách tương đối nếu nhà đầu tư được nghe NHNN tuyên bố rằng tỷ giá sẽ linh hoạt biến động (không quá mạnh). Trên hết, ngày này hầu như chẳng có mấy nước có chính sách tiền tệ độc lập lại cố định tỷ giá nội tệ với USD cả và chuyện phá giá thì ngay cả những nền kinh tế phát triển các NHTW vẫn thỉnh thoảng can thiệp phá giá nội tệ (một cách bất ngờ). Nếu lập luận như trên thì hóa ra các nhà đầu tư nước ngoài xa lánh hầu hết các thị trường đầu tư trên thế giới ư?

Còn chuyện nhà đầu tư bị “móc túi” khi VND bị phá giá. Có thể vậy, đặc biệt với những nhà đầu tư ngắn hạn vào các sản phẩm tài chính, tìm cách ăn chênh lệch lãi suất. Nhưng loại nhà đầu tư này và dòng vốn mà họ mang vào (FII) thực ra là điều không nên/không được khuyến khích ở nhiều nơi trên thế giới. Chuyện VND thỉnh thoảng bị phá giá đột ngột lại làm họ nản chí, chỉ còn lại những người muốn đầu tư dài hạn (FDI). Theo đúng quy luật thị trường công bằng, muốn đánh nhanh thắng nhanh thì phải chịu rủi ro đến nhanh và nhiều.
Xét thêm về dòng vốn FDI, có hai loại FDI chính có thể được lợi, bị hại rõ ràng khi VND thỉnh thoảng bị phá giá (lưu ý rằng vì là FDI nên ở đây ta chỉ xét đến việc xảy ra trong ít nhất là trung hạn, chứ không chỉ là vài tháng, 1 năm như với FII). Với dòng FDI vào sản xuất để thay thế cho hàng nhập khẩu (tức là hướng vào thị trường trong nước), do nguồn thu của nhà đầu tư này chủ yếu là VND thì đương nhiên là sẽ bị thiệt khi chuyển doanh thu VND ra USD để thanh toán đơn nhập khẩu và chuyển lợi nhuận về quê nhà. Nhưng đây chỉ là hậu quả tức thời diễn ra trong và sau một thời gian ngắn sau khi phá giá VND. Còn về dài hạn hơn, phá giá VND làm nhập khẩu giảm sút vì bớt tính cạnh tranh với hàng sản xuất trong nước, nên các chủ đầu tư FDI hướng nội này được hưởng lợi nhờ thị trường mở rộng, đồng nghĩa với lợi nhuận VND thu được tăng lên, và như thế có nghĩa là lợi nhuận quy ra USD không nhất thiết giảm đi, mặc dù tỷ giá đã tăng.

Ngược lại, đối với FDI hướng xuất khẩu thì có thể thấy cái lợi rõ hơn chủ yếu nhờ tăng được lượng xuất khẩu do có giá bán tính theo USD cạnh tranh hơn, từ đó có thể đảm bảo lợi nhuận chuyển về nước không bị ảnh hưởng do phá giá. Không phải ngẫu nhiên nhà đầu tư FDI hướng xuất khẩu thường chọn những nước có chi phí và giá thành sản xuất hạ để đầu tư, trong đó việc phá giá của nước sở tại để hạ chi phí sản xuất tính theo USD là một biện pháp thực tiễn.
Thứ sáu: bên phản đối cho rằng khi phá giá VND, tác động ngược là nhập khẩu lạm phát. Nguy cơ lạm phát cao trở lại sẽ có thêm “cú hích”. Để chống lạm phát cao, một giải pháp kinh điển và quen thuộc tại Việt Nam những năm qua là tăng lãi suất, làm tổn hại đến quá trình phục hồi kinh tế.

Với lập luận trên, lật ngược lại, nếu cương quyết không phá giá thì, ngoài biện pháp hành chính vốn không mấy hữu hiệu, NHNN thường phải tăng cầu VND tương đối so với USD, thông qua hoặc bơm thêm USD ra, hoặc ngừng mua vào USD, hoặc rút bớt VND về. Vì cầu VND tăng tương đối nên lãi suất VND sẽ có xu hướng tăng lên nhưng chính trong quá trình NHNN “kiên định” không phá giá VND, chứ không phải là khi chủ động phá giá VND. Nói cách khác, việc lãi suất VND tăng là việc có khả năng xảy ra ngay khi NHNN cố tình không phá giá VND.

Ngược lại, khi NHNN chủ động phá giá VND thì NHNN sẽ tăng cung VND tương đối so với USD. Tăng cung VND sẽ dẫn đến hậu quả là lãi suất sẽ (có xu hướng) giảm, chứ không phải là lãi suất tăng như bên phản đối lo ngại. Tất nhiên, sau tăng cung VND thì áp lực lạm phát sẽ tăng lên, nhưng đây là quá trình xảy ra sau đó, với một độ trễ nào đó (mà người ta cho là 3 tháng, 6 tháng gì đó), chứ không phải là xảy ra ngay. Và khi lạm phát đã tăng lên thì cũng cần phải có một độ trễ nữa thì mới dẫn đến lãi suất được điều chỉnh tăng lên. Nói cách khác, nền kinh tế vẫn được hưởng lợi ngay từ việc lập lại cán cân thương mại và lãi suất hạ đi trước khi nó (lãi suất) có dịp tăng lại (và cũng cần thêm một thời gian nữa, nếu có tăng) thông qua áp lực tăng lạm phát.
Thứ bảy (có liên quan đến phá giá VND): Nhiều chuyên gia cho rằng lãi suất ở Việt Nam cao (gần) nhất thế giới thì hàng hóa sản suất ở Việt Nam không thể cạnh tranh được với các nước khác (vì đầu vào là lãi suất làm tăng chi phí sản suất ở Việt Nam).

Cần xem lại lập luận này. Lãi suất cao thường xảy ra trong tình trạng có lạm phát cao. Trong hoàn cảnh này, tỷ giá luôn có xu hướng bị điều chỉnh tăng lên (VND bị phá giá, nếu tỷ giá đã bị kìm trong một thời gian nào đó). Khi tỷ giá đã tăng thì tức là giá hàng sản xuất tại Việt Nam bằng VND tuy có thể tăng (do lãi suất tăng) nhưng tính theo USD không nhất thiết sẽ tăng theo, tùy thuộc vào mức độ phá giá VND. Mà như thế cũng tức là hàng hóa sản xuất tại Việt Nam vẫn có cơ hội cạnh tranh được với hàng hóa sản xuất tại nước ngoài, nếu không mù quáng kìm hãm tỷ giá. Ngược lại, nếu mù quáng kìm hãm tỷ giá (danh nghĩa) thì đương nhiên là hàng hóa Việt Nam mất tính cạnh tranh vì giá thành của chúng tính bằng USD đã tăng do giá thành tính bằng VND cũng tăng sau khi tăng lãi suất đi vay bằng VND, còn tỷ giá thì không đổi.
Kết luận lại, có nhiều lý do hợp lý hơn để NHNN phải xem xét đến việc tiến hành phá giá VND hơn là “kiên định” với ổn định tỷ giá trong hoàn cảnh hiện nay. Trên hết, không phải ngẫu nhiên nhiên mà chính phủ các nước trên thế giới đều tìm cách hạ giá nội tệ để kích thích tăng trưởng kinh tế và việc làm, như đang chứng kiến hiện nay. Nếu có/biết phải phá giá thì cần tránh mọi tuyên bố như kiểu hoặc kiên quyết ổn định tỷ giá, hoặc sẽ phá giá (hay điều chỉnh) trong khoảng, ví dụ, 3%-4%/năm. Một lập trường tỷ giá bất định đối với thị trường, như cung cách thường làm ở các NHTW trên thế giới là điều khôn ngoan hơn, xét trên mọi lẽ.

Tuesday 12 March 2013

Trả lời tiếp bạn đọc


Đồng chí hôm trước lại tiếp tục hỏi tớ chuyện sau.

-------------------------------------------------

Nhân việc hôm qua đọc 1 bài viết sau của 1 "đồng chí" (tạm coi là thuộc thành phần lề trái), như sau:

Multiplier Effect trong nền KT VC bị xơ cứng:
http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/...244617ca34.chn

Vòng quay Cung Tiền bị chậm hẳn lại, "tiền ở đâu, để đó" không động đậy tới 1 lần/năm!

Mà GDP = MS x VM, trong đó MS = Money Supply (cung tiền); VM = Velocity of Money (tốc độ xoay chuyển tiền tệ).

VM xuống thấp, thì GDP phải xuống thấp theo, trừ khi MS tăng cao hơn VM.

Nay Việt Cộng tự há miệng mắc quai: Cùng lúc họ nói VM xuống, cùng lúc họ nói GDP tăng.

Tức là họ công nhận MS (in tiền ra) tăng cực mạnh, để cho dù VM xuống, GDP vẫn tăng, và số tăng này chẳng qua là do IN TIỀN ra mà thôi, chứ tốc độ dòng tiền lưu chuyển (mua, bán) giảm hẳn đi.

Chẳng khác nào lực sĩ làm "bắp thịt nở nang" chẳng qua là do chích steroids, chứ SỨC MẠNH thật ra là GIẢM (vòng quay, số lần có thể cử tạ, là giảm).

-----------------------

GDP VN năm 2008, theo con số "chính thức" (tại VN, "chính thức" = giả dối), là 71,11 tỉ USD, năm 2012 là 123,961 tỉ USD:
http://www.tradingeconomics.com/vietnam/gdp

Trong 4 năm, theo tin "chính thức", GDP VN tăng 74%.

Trong khi đó, theo bài trên của Cafef, VM giảm từ 0,92 xuống 0,8.

Giải phương trình GDP = MS x VM:

1,74 = 0.87 x MS

=> MS = 2.

Như vậy, CUNG TIỀN đã tăng 2 lần trong 4 năm 2008-2012.

Và LẠM PHÁT luôn tỉ lệ thuận với cung tiền.

Ít nhất LẠM PHÁT tăng 200% trong 4 năm, từ 2008 tới 2012.

Dân chúng nếu thu nhập không tăng 200% trong 4 năm đó, thì tức là SỨC MUA họ bị giảm theo cùng tỉ lệ.

Ví dụ, họ thu nhập năm 2008 là 2 triệu/tháng, năm 2012 thu nhập 3 triệu/tháng, tăng 150%. Thì tức là SỨC MUA họ giảm 50%.

--------------------------

Năm 2013, VM còn giảm thêm, do nay KT trì trệ, bị stagnation.

Giảm bao nhiêu, thì phải tăng MS cùng tỉ lệ, chỉ để GDP giữ nguyên.

Muốn tăng GDP 5%, thì phải tăng MS hơn 5% so với số VM giảm đi.

Ví dụ, VM giảm 10%:

1.05 = 0.9 x MS
MS = 1.167

Phải tăng MS 16,7% để tăng GDP 5% trong trường hợp VM giảm 10%.

Và tăng MS 16,7% sẽ làm tăng LẠM PHÁT cao hơn số này.

--------------------

Bài toán khác, nay VC muốn tăng GDP 5%, lạm phát dưới 6%.

Như vậy:

1.05 = VM x 1.06
VM = 0.9905.

VM phải giảm dưới 1%, tức là tốc độ xoay vòng của dòng tiền chỉ có thể giảm 1% so với năm 2012.

Nhưng các bạn chỉ cần nhìn xung quanh là thấy dòng tiền xoay chuyển chậm chạp thế nào, ngay cả so với cách đây vài tháng.

Theo tôi, dòng tiền xoay chuyển chậm ít nhất 20% so với năm ngoái, tức là năm nay VM không tới 0,7.

Như vậy, muốn GDP tăng 5%, thì VC phải tung cung tiền ra THÊM ít nhất 25% so với năm ngoái, và thế là LẠM PHÁT sẽ là 25%, khó ít hơn.

Không thể vừa giảm lạm phát, vừa tăng GDP, trong hoàn cảnh nền KT trì trệ hiện nay.

VM sụt, MS sụt, thì không làm sao GDP tăng được.

Em chỉ thỉnh thoảng vào cái chủ đề của "đồng chí" này nhưng thấy nhiều bài "đồng chí" lập luận cũng khá hay, kiến thức em thì có hạn nhưng thấy có nhiều cái "đồng chí" viết đọc cũng đáng xem. Đồng chí này cũng có gì đó liên quan đến mấy trang sau:

http://dudoankinhte.wordpress.com
http://www.facebook.com/dudoankinhte
http://www.youtube.com/dudoankinhte

Anh Ngọc có biết thông tin gì về "đồng chí" này hay không ạ, có nên đoc những bài của "đồng chí" này viết không ạ? (em chỉ nói đến khia cạnh học thuật về kinh tế chứ không bàn đến chính trị).
-----------------------------------------

Tớ trả lời:
Theo lý thuyết thì:
V = (P * Y)/M,
where V is the velocity, P is the price level, Y is the real GDP and M is the quantity of money.


Nên trong cái công thức trên, trích dẫn cụ thể: GDP = MS x VM, trong đó MS = Money Supply; VM = Velocity of Money,
thực chất GDP là GDP danh nghĩa (=P*Y), chứ không phải GDP thực, theo giá cố định (Y). Giả sử MS cố định, nếu VM giảm thì GDP danh nghĩa giảm. Nhưng GDP danh nghĩa giảm không đồng nghĩa với GDP thực (Y) giảm, vì còn phụ thuộc vào P. Nếu P cũng giảm đi (thể hiện bằng CPI hạ thấp đi) thì Y vẫn có khả năng tăng. Nên cả mớ lý luận dài dòng của đồng chí xyz gì đó ở trên là vớ vẩn.
Còn tại sao VM (hay V) giảm đi ở Việt Nam như vừa qua? Cứ theo công thức trên có thể suy ra, và thực tế là vậy, rằng: (1) CPI đã giảm, chính xác hơn là mức giá không tăng nhanh như thời gian trước; (2) Y chỉ giảm một chút; (3) mẫu số M đã tăng mạnh, hơn cả mức tăng CPI và mức giảm GDP thực. Kết cục là VM đã giảm.

Về đồng chí tác giả của những lý luận dài dòng trên, không biết có phải là của người có nickname là Dr. Tran không? Nếu đúng thì tớ chẳng có comment gì, vì không đáng phải làm thế (mà tớ cũng chưa gặp bao giờ). Nói thực là tớ đã gặp khá nhiều người kêu la xủng xoẻng như đồng chí này và luôn thấy thương họ vì họ rất ngây thơ không biết mình là cái thùng rỗng.

Monday 11 March 2013

Trả lời thư bạn đọc về chuyện tỷ giá


Hôm nay có đồng chí email hỏi tớ vấn đề về phá giá như sau. Thấy câu hỏi thiết thực nên tớ post lên đây kèm câu trả lời. Nói thêm là tớ đọc được bài của đồng chí Minh này nhưng rồi quên biến mất, không lôi đồng chí Minh ra để phang trong các entry trước (thật sự là không thấy đáng đọc). Nhưng đồng chí Minh này không thoát được tớ hôm nay!

----------------------------------------------------------------

Gần đây trên báo chí cũng như trên 1 số blog có nhiều bài viết nói về vấn đề tỷ giá, lạm phát, nên hay không nên phá giá VND. Em cũng đã đọc những bài viết của anh trên blog về vấn đề này. Hôm nay đọc thấy bài này của anh Đinh Tuấn Minh, em thấy anh Minh có những quan điểm khác như sau:

http://thitruongtudo.blogspot.com.au/2013/03/chinh-sach-ty-gia-can-tha-noi-co-kiem.html

(1) Trích:

"...Tôi cho rằng việc phá giá VND lúc này là thiếu có cơ sở và trái ngược với mục tiêu tái cơ cấu nền kinh tế trong thời điểm hiện tại. Điều mà Ngân hàng nhà nước cần làm (NHNN) là điều hành một chính sách tỷ giá thả nổi có kiểm soát, tức để tỷ giá biến động hàng ngày linh hoạt hơn theo cung và cầu thực về ngoại tệ trên thị trường, chứ không phải là một chính sách khá cứng nhắc như hiện nay..."

Anh Minh cho rằng:


(2) Trích:

"...Đồng nội tệ có xu hướng mạnh lên trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế..."

Lí do bởi vì:

(3) Trích:

"... nguồn vốn khả dĩ duy nhất để đảm bảo cho sự thành công của quá trình tái cơ cấu kinh tế tại Việt Nam lúc này là dòng vốn đầu tư nước ngoài...Nếu thu hút được đầu tư nước ngoài vào quá trình mua bán nợ xấu, vào việc mua bất động sản và vào việc mua cổ phần tại các doanh nghiệp nhà nước thì tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế sẽ được đảm bảo.....Nhưng việc thu hút một lượng lớn đầu tư nước ngoài đòi hỏi phải có một kỳ vọng vững chắc về sự ổn định của đồng nội tệ của Việt Nam, thậm chí là sự tăng giá của VND. Việc đồng nội tệ không bị mất giá sẽ là một đảm bảo chắc chắn về việc không bị thiệt hại khi nhà đầu tư nước ngoài muốn chuyển tiền về nước.."

Em muốn hỏi anh Ngọc 1 chút có gì khác nhau trong quan điểm của 2 anh về vấn đề này không ?

1 vấn đề nữa em thắc mắc, đó là bảng cân đối kế toán của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, em thấy Ngân hàng nhà nước Việt Nam hình như không công bố những tài liệu này public thì phải?

--------------------------------------------------------------

Trả lời của tớ.

(1)          Đồng chí này nói mà như không nói. Nói “thả nổi có kiểm soát”, và tự giải thích là “để tỷ giá biến động hàng ngày linh hoạt” thì phải chăng là công nhận để cho VND mất giá (khi VND bị áp lực phá giá), cho dù là trong một phạm vi nào đó, không lớn quá? Cho dù là để VND mất giá 1%, 2% hay 5%, 10% thì bản chất là như nhau, tức là một hành động phá giá VND. Mà như vậy thì nói “việc phá giá VND lúc này là thiếu cơ sở và trái ngược với mục tiêu cơ cấu nền kinh tế” là tự mâu thuẫn. Trừ khi đồng chí ý muốn nói “hàng ngày linh hoạt” có nghĩa là chỉ được phép dao động quanh tỷ giá chính thức ở biên độ 0.00...x%/ngày và 0.00...y%/tuần/tháng (tiệm cận 0) thì còn chấp nhận được!

Hơn nữa, nói phá giá lúc này là “thiếu cơ sở” thì đồng chí phải vạch ra nhiều cái hại, so sánh với nhiều cái lợi của việc phá giá để thấy rốt cuộc thì nên phá giá hay không. Hình như trong cả bài của đồng chí này không đề cập (mấy) đến lợi ích của việc phá giá, mà chỉ cố gắng chứng minh rằng phá giá là có hại nếu xét từ góc độ (rất hẹp) rằng thu hút vốn nước ngoài vào mua tài sản, nợ xấu, cổ phần, bất động sản v.v... Như vậy, đồng chí này đã sai ngay từ mặt phương pháp luận, chưa kể sai/không hoàn toàn đúng về chuyện ổn định tỷ giá để thu hút vốn nước ngoài.

Hơn nữa, như tớ đã viết trong các entry trước, phá giá không làm hại tất cả các loại hình vốn nước ngoài. Ngược lại, phá giá có tác dụng “xua đuổi” luồng “tiền nóng” là thứ cần tránh thay vì welcome chúng. Nói thêm ở đây, cứ cho rằng các loại vốn nước ngoài mà đồng chí đề cập đến đều là vốn “quý”, cần khuyến khích (mặc dù hẳn nhiên không phải là vậy), thì việc không phá giá VND bây giờ để hấp thụ vốn nước ngoài (giả sử nhà đầu tư thích VND ổn định, chứ không phải bị định giá thấp, là cái như tớ đã nói là không hoàn toàn đúng, ít nhất đối với FDI hướng xuất khẩu) sẽ chỉ có ý nghĩa/đúng khi Việt Nam (cam kết) sẽ không bao giờ phá giá. Nhưng đồng chí Minh có bảo đảm rằng sau đây nửa năm, 1 năm hoặc hơn, Việt Nam vẫn sẽ không phá giá không? Nếu có phá giá (tớ cho là chắc chắn. Lưu ý rằng gọi là phá giá nhưng thực ra chỉ đơn giản là tỷ giá VND tăng lên so với hiện nay), liệu có thể coi hành động (cam kết) không phá giá hiện nay là lừa đảo nhà đầu tư không? Ngược lại, đối với một nước như Việt Nam, liệu có mấy nhà đầu tư có ý định đầu tư vào Việt Nam lại tin rằng, kỳ vọng rằng tỷ giá VND sẽ ổn định để làm cơ sở cho quyết định đầu tư?

(2)   Tớ chịu chẳng thể nào lý giải tại sao tái cơ cấu kinh tế thì đồng nội tệ lại có xu hướng tăng giá như đồng chí Minh nói được. Hiểu đơn giản thì tái cơ cấu thường gắn liền với xáo trộn, với rủi ro, với bất ổn, với thay đổi có thể theo hướng tốt lên hoặc xấu đi v.v... Mặc dù đồng chí có nêu ra yếu tố lạm phát nhưng cũng hoàn toàn có khả năng rằng tái cơ cấu kinh tế dẫn đến lạm phát tăng/thoát khỏi kiểm soát. Mà như thế, và đi kèm với các rủi ro khác, hoàn toàn có khả năng nội tệ bị mất giá, chứ không phải là lên giá.

Đồng chí Minh nói rằng tỷ giá hiện nay đã ở trạng thái cân bằng để khởi đầu cho tái cơ cấu kinh tế. Nhưng đồng chí đã phân tích các yếu tố cơ bản làm nền tảng cho tỷ giá ổn định chưa? Tỷ giá thực VND đã/sẽ như thế nào? Thâm hụt thương mại cả năm nay đã/sẽ thế nào? Lạm phát đã/sẽ thế nào v.v...? Chưa phân tích thì sao mà nói chắc như đinh đóng cột rằng tỷ giá đã ở thế vững (sẽ duy trì được) và phá giá là thiếu cơ sở được?
Quan trọng hơn, đồng chí giả định rằng năm nay với chính sách kiềm chế lạm phát, với dòng vốn nước ngoài đổ vào, và với tái cơ cấu kinh tế thì VND sẽ lên giá (nên không cần phải phá giá). Tất nhiên, nếu xảy ra như vậy thì có khả năng VND sẽ lên giá. NHƯNG đây chỉ là những giả định/kỳ vọng mà không nhất thiết những điều này sẽ xảy ra, đồng nghĩa là tương lai của ổn định tỷ giá VND là hoàn toàn không có gì đảm bảo. Hơn nữa, cho dù có xảy ra như vậy, nhưng đó là việc trong tương lai (khó/không thể diễn ra trong vòng vài tháng tới), cho nên về logic không thể suy ra rằng cho đến thời điểm này không có áp lực phá giá và không cần phá giá.

(3)   Như phân tích ở trên và trong các entry trước, quan điểm của tớ đương nhiên là ngược lại với của đồng chí Minh (tớ ủng hộ chuyện phá giá, hay nói văn hoa, “an toàn” hơn là “điều chỉnh” tỷ giá) và quan điểm của tớ dựa trên phân tích lợi hại xung quanh ổn định tỷ giá/không phá giá, trong khi các ý kiến phản đối thì hoặc là dựa trên các lý luận hời hợt, sai lầm, phiến diện, hoặc là chỉ đề cập đến một số khía cạnh hạn hẹp của vấn đề, như của đồng chí Minh này. Nếu các đồng chí bạn đọc mà chỉ ra được tớ sai cái nào, (phá giá) hại nhiều hơn lợi thì mới có thể nói rằng không nên phá giá.

Nói thêm, tuần này tớ có 1 bài trên TBKTSG về chuyện có nên hay không phá giá, tập hợp tất cả các lập luận trong các entry liên quan cho đến nay. Các đồng chí đón xem cho rõ thêm nhé.

Về chuyện bảng cân đối tài sản của NHNN, tớ nghĩ là không công bố. Nhiều thứ bình thường hơn còn không công bố, huống chi thứ “nhạy cảm” như vậy?

Tuesday 5 March 2013

Chuyên gia/tổ chức toàn nói vớ vẩn (phần 2)


Hôm rồi đọc được cái tin tổ chức tài chính nào đó (quên mất tên rồi) cho rằng Việt Nam (có thể?) sẽ đạt thu nhập bình quân đầu người tới 10.000 USD vào năm 2020(?). Đọc xong liền nhớ ngay ra là tớ trước đây lâu lắm rồi có viết một bài ngắn về chủ đề kiểu vịt trời này như bài dưới đây (trên tờ Tuổi trẻ thì phải).
Các đồng chí lưu ý thêm rằng giả thiết là Việt Nam sẽ tăng trưởng với tốc độ bình quân 7%/năm (là tốc độ thần kỳ đạt được ở thập kỷ trước, khó có thể lặp lại) thì phải mất đến 10 năm như vậy mới tăng được GDP lên gấp hai lần. Tất nhiên là 10 năm nữa thì khả năng là tỷ lệ tăng trưởng dân số của Việt Nam sẽ giảm hơn bây giờ một chút ít, nhưng cũng không thể nào làm cho GDP bình quân đầu người tăng lên gấp 3 lần được. Mà GDP bình quân đầu người hiện nay mới chỉ là 1.500 USD thì phải nhỉ? Vậy phải sau 10 năm nữa, tức đến năm 2022, trong bối cảnh thuận lợi, thì GDP bình quân đầu người cũng không thể vượt quá 5.000 USD được. Thế mới càng thấy các đồng chí chuyên gia nước ngoài nhiều khi IQ cũng không vượt quá 100.
 

http://dantri.com.vn/kinh-doanh/viet-nam-kho-co-the-dung-thu-17-ve-tiem-luc-kinh-te-150104.htm

Việt Nam khó có thể đứng thứ 17 về tiềm lực kinh tế?
Bất ngờ khi đọc bài viết của TS Lê Đăng Doanh có trích dẫn báo cáo của Tập đoàn Goldman-Sachs rằng vào năm 2025 Việt Nam có thể sẽ là nền kinh tế lớn thứ 17 trên thế giới, TS Phan Minh Ngọc, Đại học Kyushu, Nhật Bản đã có ý kiến bàn thêm về vấn đề này.

Trong khi trong số những nước có số liệu GDP vào năm 2003 thì có tới 15 nước có mức GDP lớn hơn 436 tỉ USD. Lưu ý là số liệu GDP ở nguồn này chỉ có đến năm 2003, vì vậy nếu xét thêm năm 2004 và 2005 từ các nguồn dữ liệu khác (chẳng hạn từ số liệu thống kê các quốc gia) thì con số nước có GDP lớn hơn 436 tỉ USD ít nhất sẽ là 16 (thêm Nga là nước có GDP vào năm 2003 là 433 tỉ USD). Trong khi đến năm 2003, Việt Nam mới chỉ đứng hàng thứ 56 trên thế giới với 39,2 tỉ.
Cho dù chỉ có 15 nước có mức GDP lớn hơn 436 tỉ USD vào năm 2003 nhưng chắc chắn không thể kết luận được là Việt Nam sẽ có khả năng vọt lên được hạng 17 vào năm 2025 vì các nước khác cũng không ngừng tăng trưởng trong cùng thời kỳ, làm cuộc rượt đuổi của VN càng kéo dài hơn nữa.

Giả thiết (một cách hợp lý) rằng mức tăng trưởng GDP trung bình (tính theo giá cố định năm 2000, bằng cả USD hay bản tệ) của các nước trên thế giới trong suốt 20 năm qua, 1984-2003, cũng chính là mức tăng trưởng của họ trong thời gian 2003-2025.
Như vậy, đến năm 2025 sẽ có tới 33 nước có mức GDP lớn hơn 436 tỉ USD (giá so sánh năm 2025).

Từ mức 39,2 tỉ USD vào năm 2003, muốn đạt được mức 436 tỉ USD (chưa xét tốc độ trượt giá của USD) vào năm 2025 thì Việt Nam phải đạt được tốc độ tăng trưởng là 11,6%/năm trong suốt 22 năm này.
Trong vòng hai thập kỷ gần đây, chưa nước nào vượt qua được Trung Quốc về tốc độ tăng trưởng kinh tế với tốc độ tăng trưởng trung bình 9,4% trong thời kỳ bùng nổ kinh tế của họ (1990-2003).

Trong bài báo trên, chúng tôi chỉ đưa lại trung thực sự xếp hạng của Goldman-Sachs trong báo cáo số 134 ngày 1/12/2005 chứ không phản ánh ý kiến riêng hay nghiên cứu của bản thân chúng tôi.
Trong báo cáo này, Goldman - Sachs đã chủ ý loại ra những nền kinh tế của một số nước và vùng lãnh thổ phát triển (như OECD) có GDP lớn nhưng có dân số và phạm vi tác động tới kinh tế toàn cầu không lớn (theo ý họ) như Hong Kong và Luxembourg và chỉ xem xét các nền kinh tế đang phát triển có khả năng nổi lên trong nhóm N-11 theo sau bốn nền kinh tế BRICs mà thôi.
Xếp hạng đó chỉ có thể được xem xét trong khuôn khổ báo cáo nói trên với những ràng buộc nhất định chứ không thể được coi là xếp hạng trong tất cả các nền kinh tế. Lẽ ra trong bài báo tôi nên nêu rõ ràng để tránh ngộ nhận. Do khuôn khổ bài báo có hạn, tôi đã không nêu rõ chi tiết này và đó là một thiếu sót. Các bạn đã phát hiện chính xác chi tiết này và tôi đồng ý với nhiều lập luận trong các ý kiến của các bạn.
(Trả lời của TS Lê Đăng Doanh)

TS Phan Minh Ngọc
Đại học Kyushu, Nhật Bản
Báo Tuổi trẻ

Sunday 3 March 2013

Chuyên gia/tổ chức toàn nói vớ vẩn (phần 1) – bổ sung tiếp

Hôm nay tớ tìm được bài trên VnEconomy có nêu 5+1 tác hại của phá giá. Ngoài những cái tớ đã phang trong các entry trước, tớ thấy thêm 2 cái sai thứ 11, 12 như bên dưới nên bổ sung luôn.

Sai thứ 11: Khi phá giá VND khá mạnh như khuyến nghị, tác động ngược là nhập khẩu lạm phát. Nguy cơ lạm phát cao trở lại sẽ có thêm “cú hích”. Để chống lạm phát cao, một giải pháp kinh điển và quen thuộc tại Việt Nam những năm qua là tăng lãi suất (VnEconomy).

Với lập luận trên, lật ngược lại, nếu cương quyết không phá giá thì điều gì sẽ xảy tra? Nói nôm na thì tức là phải tìm cách củng cố giá trị VND so với USD. Mà để đạt được cái này thì phải làm như thế nào? Cho đến nay có 2 cách phổ biến (hoặc phối hợp cả 2). Cách 1 là dùng biện pháp hành chính. Vì là hành chính nên dù có ổn định được tỷ giá chính thức thì đây chỉ là tỷ giá giả tạo vì người có nhu cầu chẳng mấy khi mua được USD. Tỷ giá tự do mới là cái phản ánh chính xác tỷ giá VND đang ở đâu, nên trên thực tế vẫn phải công nhận rằng VND đã bị phá/mất giá so với USD. Cách 2 là NHNN phải tăng tương đối cầu VND và giảm tương đối cầu USD, thông qua (hoặc) bơm thêm USD ra, (hoặc) ngừng mua vào USD, (hoặc) rút bớt VND về. Vì cầu VND tăng lên tương đối (và cung VND giảm tương đối) nên lãi suất VND sẽ có xu hướng tăng lên, chính là hậu quả mà VnEconomy lo ngại khi phá giá VND. Nhưng tiếc là việc tăng lãi suất này lại xảy ra ngay khi NHNN “kiên định” không phá giá VND, chứ không phải là khi chủ động phá giá VND. Nói cách khác, việc lãi suất VND tăng là việc có khả năng xảy ra ngay khi NHNN cố tình không phá giá VND.

Thế còn khi NHNN chủ động phá giá VND thì ảnh hưởng thế nào đến lạm phát và lãi suất? Khi NHNN phá giá VND, nó có thể làm ngược lại quá trình “kiên định” không phá giá nói trên, tức là tăng tương đối cầu USD và giảm tương đối cầu VND, bằng cách (hoặc) mua thêm USD vào, (hoặc) tăng cung VND. Tăng cung VND sẽ dẫn đến hậu quả là lãi suất sẽ (có xu hướng) giảm, chứ không phải là lãi suất tăng như VnEconomy lo ngại. Tất nhiên, sau tăng cung VND thì áp lực lạm phát sẽ tăng lên, nhưng đây là quá trình xảy ra sau đó, với một độ trễ nào đó (mà người ta cho là 3 tháng, 6 tháng gì đó), chứ không phải là xảy ra ngay. Và khi lạm phát đã tăng lên thì cũng cần phải có một độ trễ nữa thì mới dẫn đến lãi suất được điều chỉnh tăng lên. Nói cách khác, nền kinh tế vẫn được hưởng lợi ngay từ việc lập lại cán cân thương mại và lãi suất hạ đi trước khi nó (lãi suất) có dịp tăng lại (và cũng cần thêm một thời gian nữa, nếu có tăng) thông qua áp lực tăng lạm phát. Điều này chứng tỏ ý kến liên quan trên VnEconomy là sai bét.

Nói thêm, thực ra quá trình phá giá VND đã diễn ra ngay suốt cả năm qua, khi NHNN tiến hành mua hàng chục tỷ USD và hậu quả (hay cố tình?) là M2 tăng vọt lên trên 20%. Nếu không mua vào USD thì VND đã lên giá mạnh, thể hiện bằng tỷ giá VND danh nghĩa thậm chí còn giảm đi (không những thế, VND còn lên giá thực so với USD vì chênh lệch lạm phát giữa Mỹ và Việt Nam). Nhưng vì tỷ giá đã ổn định quanh con số 21.000 nên người ta lầm tưởng rằng NHNN đang “ổn định” tỷ giá theo cái nghĩa là không để nó mất giá so với USD như những năm trước khi cung cầu USD ở thế ngược lại. Bởi thế, quá trình can thiệp vào tỷ giá VND như của NHNN vừa qua cần phải nói về bản chất là đã PHÁ giá VND để VND BỚT LÊN giá (cả thực và danh nghĩa) so với USD.  Có điều, mức độ phá giá VND như vừa qua là chưa đủ mạnh để nó vẫn còn quanh quẩn ngưỡng 21.000!

Trình bày dài dòng thế, mong các đồng chí hiểu được vấn đề. Tớ đã nói vài lần rồi, rất ngán những đồng chí amateur phóng viên báo và cả những đồng chí chuyên gia (amateur) khác nữa.

Sai thứ 12: Nếu phá giá VND như kiến nghị trên của một số chuyên gia, niềm tin và dòng vốn đầu tư nước ngoài có thể bị ảnh hưởng, bởi họ bị “móc túi” khi rót vốn vào Việt Nam (VnEconomy).
http://vneconomy.vn/2013020708281625P0C6/pha-gia-vnd-5-cai-gia-phai-tra.htm

Chẳng hiểu “niềm tin” với chuyện “móc túi” ở đây theo ý của tác giả liên quan với nhau như thế nào? Niềm tin chỉ là một khái niệm tương đối. Nhà đầu tư còn mất niềm tin hơn nữa khi NHNN trước đó còn khăng khăng tuyên bố “kiên định” với ổn định tỷ giá thì đùng một cái sau vài ngày, vài tuần, vài tháng lại phá giá bụp một phát khi không thể đỡ được với áp lực thị trường. Ngược lại, niềm tin sẽ có nhiều hơn một cách tương đối nếu nhà đầu tư được nghe NHNN tuyên bố rằng tỷ giá sẽ linh hoạt biến động trong một phạm vi nào đó, và quả là NHNN đang thực hiện như vậy, với tỷ giá lúc tăng lúc giảm (tất nhiên không quá mạnh). Trên hết, ngày này hầu như chẳng có mấy nước có chính sách tiền tệ độc lập lại cố định tỷ giá nội tệ với USD cả và chuyện phá giá thì ngay cả những nền kinh tế phát triển các NHTƯ vẫn thỉnh thoảng can thiệp phá giá nội tệ (một cách bất ngờ) đấy thôi? Nếu nói theo kiểu VnEconomy trên thì hóa ra các nhà đầu tư nước ngoài xa lánh hầu hết các thị trường đầu tư trên thế giới à?
Còn chuyện nhà đầu tư bị “móc túi” khi VND bị phá giá. Đúng là có chuyện này, đặc biệt với những nhà đầu tư ngắn hạn vào các sản phẩm tài chính, tìm cách ăn chênh lệch lãi suất. Nhưng loại nhà đầu tư này và dòng vốn mà họ mang vào (FII) thực ra là điều không nên/không được khuyến khích (tại sao thì mời các đồng chí tự tìm hiểu). Chuyện VND thỉnh thoảng bị phá giá một phát thế lại hay, làm các đồng chí này nản chí, chỉ còn lại những đồng chí muốn đầu tư dài hạn (FDI). Theo đúng nguyên tắc, muốn đánh nhanh thắng nhanh thì phải chịu rủi ro đến nhanh và nhiều, thế thôi.

Về các đồng chí FDI, có hai loại FDI có thể được lợi, bị hại rõ ràng khi VND thỉnh thoảng bị phá giá (nên nhớ rằng vì là FDI nên ở đây ta chỉ xét đến việc xảy ra trong ít nhất là trung hạn, chứ không chỉ là vài tháng, 1 năm như với các đồng chí FII). Với các đồng chí FDI thay thế hàng nhập khẩu (tức là hướng vào thị trường trong nước). Do nguồn thu của các đồng chí này chủ yếu là VND thì đương nhiên là sẽ bị thiệt khi chuyển doanh thu VND ra USD để thanh toán đơn nhập khẩu và chuyển lợi nhuận về quê mẹ. Nhưng đây chỉ là hậu quả tức thời diễn ra trong và sau một thời gian ngắn sau khi phá giá VND. Còn về dài hạn hơn, phá giá VND làm nhập khẩu giảm sút vì bớt tính cạnh tranh với hàng sản xuất trong nước, nên các đồng chí FDI hướng nội này được hưởng lợi nhờ thị trường mở rộng, đồng nghĩa với lợi nhuận VND thu được tăng lên, và như thế có nghĩa là lợi nhuận quy ra USD không nhất thiết giảm đi, mặc dù tỷ giá đã tăng.
Lưu ý thêm rằng loại FDI thực ra không được nhiều nước chào mừng lắm so với loại FDI hướng xuất khẩu vì nhiều khi chúng chèn ép các doanh nghiệp trong nước. Với ý nghĩa này, phá giá VND có thể làm giảm FDI hướng nội nhưng lại kích thích được doanh nghiệp trong nước lấp chỗ trống trong sản xuất thay thế hàng nhập khẩu.

Ngược lại, đối với FDI hướng xuất khẩu thì có thể thấy nhiều cái lợi hơn hơn (các đồng chí tự suy xét tại sao nhé, nếu không hiểu thì bảo tớ).
Tóm lại, thỉnh thoảng phá giá VND nếu có hậu quả lên giới đầu tư nước ngoài thì chủ yếu cho mấy đồng chí muốn kiếm tiền nhanh trên “xương máu” của dân Việt Nam, chứ còn không nhất thiết đem lại cái hại cho giới FDI. Còn chuyện niềm tin thì là cái chuyện mông lung, trên giời; các đồng chí nói mà chẳng hiểu mình nói cái gì.   

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).