Sunday 3 March 2013

Chuyên gia/tổ chức toàn nói vớ vẩn (phần 1) – bổ sung tiếp

Hôm nay tớ tìm được bài trên VnEconomy có nêu 5+1 tác hại của phá giá. Ngoài những cái tớ đã phang trong các entry trước, tớ thấy thêm 2 cái sai thứ 11, 12 như bên dưới nên bổ sung luôn.

Sai thứ 11: Khi phá giá VND khá mạnh như khuyến nghị, tác động ngược là nhập khẩu lạm phát. Nguy cơ lạm phát cao trở lại sẽ có thêm “cú hích”. Để chống lạm phát cao, một giải pháp kinh điển và quen thuộc tại Việt Nam những năm qua là tăng lãi suất (VnEconomy).

Với lập luận trên, lật ngược lại, nếu cương quyết không phá giá thì điều gì sẽ xảy tra? Nói nôm na thì tức là phải tìm cách củng cố giá trị VND so với USD. Mà để đạt được cái này thì phải làm như thế nào? Cho đến nay có 2 cách phổ biến (hoặc phối hợp cả 2). Cách 1 là dùng biện pháp hành chính. Vì là hành chính nên dù có ổn định được tỷ giá chính thức thì đây chỉ là tỷ giá giả tạo vì người có nhu cầu chẳng mấy khi mua được USD. Tỷ giá tự do mới là cái phản ánh chính xác tỷ giá VND đang ở đâu, nên trên thực tế vẫn phải công nhận rằng VND đã bị phá/mất giá so với USD. Cách 2 là NHNN phải tăng tương đối cầu VND và giảm tương đối cầu USD, thông qua (hoặc) bơm thêm USD ra, (hoặc) ngừng mua vào USD, (hoặc) rút bớt VND về. Vì cầu VND tăng lên tương đối (và cung VND giảm tương đối) nên lãi suất VND sẽ có xu hướng tăng lên, chính là hậu quả mà VnEconomy lo ngại khi phá giá VND. Nhưng tiếc là việc tăng lãi suất này lại xảy ra ngay khi NHNN “kiên định” không phá giá VND, chứ không phải là khi chủ động phá giá VND. Nói cách khác, việc lãi suất VND tăng là việc có khả năng xảy ra ngay khi NHNN cố tình không phá giá VND.

Thế còn khi NHNN chủ động phá giá VND thì ảnh hưởng thế nào đến lạm phát và lãi suất? Khi NHNN phá giá VND, nó có thể làm ngược lại quá trình “kiên định” không phá giá nói trên, tức là tăng tương đối cầu USD và giảm tương đối cầu VND, bằng cách (hoặc) mua thêm USD vào, (hoặc) tăng cung VND. Tăng cung VND sẽ dẫn đến hậu quả là lãi suất sẽ (có xu hướng) giảm, chứ không phải là lãi suất tăng như VnEconomy lo ngại. Tất nhiên, sau tăng cung VND thì áp lực lạm phát sẽ tăng lên, nhưng đây là quá trình xảy ra sau đó, với một độ trễ nào đó (mà người ta cho là 3 tháng, 6 tháng gì đó), chứ không phải là xảy ra ngay. Và khi lạm phát đã tăng lên thì cũng cần phải có một độ trễ nữa thì mới dẫn đến lãi suất được điều chỉnh tăng lên. Nói cách khác, nền kinh tế vẫn được hưởng lợi ngay từ việc lập lại cán cân thương mại và lãi suất hạ đi trước khi nó (lãi suất) có dịp tăng lại (và cũng cần thêm một thời gian nữa, nếu có tăng) thông qua áp lực tăng lạm phát. Điều này chứng tỏ ý kến liên quan trên VnEconomy là sai bét.

Nói thêm, thực ra quá trình phá giá VND đã diễn ra ngay suốt cả năm qua, khi NHNN tiến hành mua hàng chục tỷ USD và hậu quả (hay cố tình?) là M2 tăng vọt lên trên 20%. Nếu không mua vào USD thì VND đã lên giá mạnh, thể hiện bằng tỷ giá VND danh nghĩa thậm chí còn giảm đi (không những thế, VND còn lên giá thực so với USD vì chênh lệch lạm phát giữa Mỹ và Việt Nam). Nhưng vì tỷ giá đã ổn định quanh con số 21.000 nên người ta lầm tưởng rằng NHNN đang “ổn định” tỷ giá theo cái nghĩa là không để nó mất giá so với USD như những năm trước khi cung cầu USD ở thế ngược lại. Bởi thế, quá trình can thiệp vào tỷ giá VND như của NHNN vừa qua cần phải nói về bản chất là đã PHÁ giá VND để VND BỚT LÊN giá (cả thực và danh nghĩa) so với USD.  Có điều, mức độ phá giá VND như vừa qua là chưa đủ mạnh để nó vẫn còn quanh quẩn ngưỡng 21.000!

Trình bày dài dòng thế, mong các đồng chí hiểu được vấn đề. Tớ đã nói vài lần rồi, rất ngán những đồng chí amateur phóng viên báo và cả những đồng chí chuyên gia (amateur) khác nữa.

Sai thứ 12: Nếu phá giá VND như kiến nghị trên của một số chuyên gia, niềm tin và dòng vốn đầu tư nước ngoài có thể bị ảnh hưởng, bởi họ bị “móc túi” khi rót vốn vào Việt Nam (VnEconomy).
http://vneconomy.vn/2013020708281625P0C6/pha-gia-vnd-5-cai-gia-phai-tra.htm

Chẳng hiểu “niềm tin” với chuyện “móc túi” ở đây theo ý của tác giả liên quan với nhau như thế nào? Niềm tin chỉ là một khái niệm tương đối. Nhà đầu tư còn mất niềm tin hơn nữa khi NHNN trước đó còn khăng khăng tuyên bố “kiên định” với ổn định tỷ giá thì đùng một cái sau vài ngày, vài tuần, vài tháng lại phá giá bụp một phát khi không thể đỡ được với áp lực thị trường. Ngược lại, niềm tin sẽ có nhiều hơn một cách tương đối nếu nhà đầu tư được nghe NHNN tuyên bố rằng tỷ giá sẽ linh hoạt biến động trong một phạm vi nào đó, và quả là NHNN đang thực hiện như vậy, với tỷ giá lúc tăng lúc giảm (tất nhiên không quá mạnh). Trên hết, ngày này hầu như chẳng có mấy nước có chính sách tiền tệ độc lập lại cố định tỷ giá nội tệ với USD cả và chuyện phá giá thì ngay cả những nền kinh tế phát triển các NHTƯ vẫn thỉnh thoảng can thiệp phá giá nội tệ (một cách bất ngờ) đấy thôi? Nếu nói theo kiểu VnEconomy trên thì hóa ra các nhà đầu tư nước ngoài xa lánh hầu hết các thị trường đầu tư trên thế giới à?
Còn chuyện nhà đầu tư bị “móc túi” khi VND bị phá giá. Đúng là có chuyện này, đặc biệt với những nhà đầu tư ngắn hạn vào các sản phẩm tài chính, tìm cách ăn chênh lệch lãi suất. Nhưng loại nhà đầu tư này và dòng vốn mà họ mang vào (FII) thực ra là điều không nên/không được khuyến khích (tại sao thì mời các đồng chí tự tìm hiểu). Chuyện VND thỉnh thoảng bị phá giá một phát thế lại hay, làm các đồng chí này nản chí, chỉ còn lại những đồng chí muốn đầu tư dài hạn (FDI). Theo đúng nguyên tắc, muốn đánh nhanh thắng nhanh thì phải chịu rủi ro đến nhanh và nhiều, thế thôi.

Về các đồng chí FDI, có hai loại FDI có thể được lợi, bị hại rõ ràng khi VND thỉnh thoảng bị phá giá (nên nhớ rằng vì là FDI nên ở đây ta chỉ xét đến việc xảy ra trong ít nhất là trung hạn, chứ không chỉ là vài tháng, 1 năm như với các đồng chí FII). Với các đồng chí FDI thay thế hàng nhập khẩu (tức là hướng vào thị trường trong nước). Do nguồn thu của các đồng chí này chủ yếu là VND thì đương nhiên là sẽ bị thiệt khi chuyển doanh thu VND ra USD để thanh toán đơn nhập khẩu và chuyển lợi nhuận về quê mẹ. Nhưng đây chỉ là hậu quả tức thời diễn ra trong và sau một thời gian ngắn sau khi phá giá VND. Còn về dài hạn hơn, phá giá VND làm nhập khẩu giảm sút vì bớt tính cạnh tranh với hàng sản xuất trong nước, nên các đồng chí FDI hướng nội này được hưởng lợi nhờ thị trường mở rộng, đồng nghĩa với lợi nhuận VND thu được tăng lên, và như thế có nghĩa là lợi nhuận quy ra USD không nhất thiết giảm đi, mặc dù tỷ giá đã tăng.
Lưu ý thêm rằng loại FDI thực ra không được nhiều nước chào mừng lắm so với loại FDI hướng xuất khẩu vì nhiều khi chúng chèn ép các doanh nghiệp trong nước. Với ý nghĩa này, phá giá VND có thể làm giảm FDI hướng nội nhưng lại kích thích được doanh nghiệp trong nước lấp chỗ trống trong sản xuất thay thế hàng nhập khẩu.

Ngược lại, đối với FDI hướng xuất khẩu thì có thể thấy nhiều cái lợi hơn hơn (các đồng chí tự suy xét tại sao nhé, nếu không hiểu thì bảo tớ).
Tóm lại, thỉnh thoảng phá giá VND nếu có hậu quả lên giới đầu tư nước ngoài thì chủ yếu cho mấy đồng chí muốn kiếm tiền nhanh trên “xương máu” của dân Việt Nam, chứ còn không nhất thiết đem lại cái hại cho giới FDI. Còn chuyện niềm tin thì là cái chuyện mông lung, trên giời; các đồng chí nói mà chẳng hiểu mình nói cái gì.   

4 comments:

  1. Bác Ngọc viết hay quá, em biết bác lâu rồi, các bài của bác luôn có tính học thuật cao. Nhưng blog của bác ít comment quá bác nhỉ, chắc là do khẩu khí của bác.

    Bác cứ tiếp tục "phang" như thế, em đọc.

    Khánh

    ReplyDelete
    Replies
    1. Đồng chí Khánh này tớ có biết không nhỉ, đã gặp chưa nhỉ? Tớ có một đồng chí bạn là Khánh nhưng chắc không phải là đồng chí này. Cũng mong đồng chí thỉnh thoảng vào đọc cho blog của tớ đỡ buồn nhé. Còn cái khẩu khí của tớ thì chịu rồi, không sửa được.

      Delete
  2. Em đọc blog của bác hàng ngày đấy nhưng không mấy khi comment thôi. Em thì không phải Khánh mà bác quen rồi. Em cũng có tập tành viết lách, TBKTSG e đăng cũng gần 40 chục bài. Tuy nhiên, chỉ mình biết mình là ai bác ạ, tài hèn sức mọn, học hành chưa tới nơi nên ko bao giờ dám đưa học vị vào trước tên của mình.

    Cũng may mà bác chưa "phang" em bài nào, chắc vì ko phải là "chuyên gia", cũng ko phải những bài đao to búa lớn, có sức ảnh hưởng. Em thấy bác chỉ phang "chuyên gia" thôi. Mà "chuyên gia" kiểu đấy ở VN hơi nhiều, bác phang bao giờ mới hết.

    Khánh

    ReplyDelete
    Replies
    1. Viết “hung” thế này, mà lại trên tờ báo không phải ất ơ như TBKTSG thì đồng chí cũng chẳng phải tay vừa đâu!!! Hôm nào tớ phải vào xem các bài của đồng chí mới được, để biết đâu phang được cái gì thì phang chứ? Bây giời càng ngày càng ít người mang ra để phang rồi :).

      Delete

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).