Wednesday 29 May 2013

Kích thích kinh tế và lạm phát – nhìn từ Nhật (Bài đăng trên TBKTSG số 22-2013)

(Bản gốc, không rõ TBKTSG edit thế nào)
           
            Nước Nhật gần đây đã tiến hành một loạt các biện pháp tiền tệ và tài chính mạnh tay để đưa nước này thoát ra khỏi vũng lầy thiểu phát. Các biện pháp này đã làm đồng yen mất giá đáng kể so với trước đây nhưng lạm phát tại Nhật vẫn đang ở mức âm. Đối với một nền kinh tế phụ thuộc nặng nề vào nhập khẩu nhiều mặt hàng chiến lược, trong đó có dầu mỏ, như Nhật, điều này tỏ ra là một nghịch lý, và càng là nghịch lý hơn nếu khi so với Việt Nam, nơi mà mỗi khi phá giá tiền đồng, mối lo lớn nhất luôn là lạm phát gia tăng mạnh. Trong bài này, chúng ta sẽ thử đưa ra một vài giải thích cho nghịch lý này.

Các biện pháp kích thích của Nhật

Sau nhiều năm vật lộn với thiểu phát không thấy tương lai, đột nhiên Nhật đang chứng kiến những dấu hiệu khởi sắc không ngờ. Những doanh nghiệp như Sony nay đã báo lãi lần đầu tiên sau 5 năm thua lỗ, một phần lớn nhờ đồng yen đã mất hơn ¼ giá trị, cải thiện mạnh thu nhập và lãi ròng của Sony nói riêng và các doanh nghiệp xuất khẩu của Nhật nói chung. Trong khi đó,  giá cổ phiếu đã tăng hơn 60% so với 1 năm trước . Còn về phía người tiêu dùng Nhật vốn thích giữ tiền hơn là chi tiêu trong thời kỳ thiểu phát, nhiều người nay cũng đã sẵn lòng mở hầu bao mua những món hàng xa xỉ tại các trung tâm thương mại.

Lý do đằng sau sự khởi sắc này có thể quy cho liệu pháp sốc kinh tế của Thủ tướng Shinzo Abe, còn được gọi bằng cái tên lóng “Abenomics”. Kế hoạch của ông, một thử nghiệm kinh tế táo bạo nhất trong thế giới đương đại, bao gồm biện pháp bơm vào nền kinh tế một lượng lớn tiền mặt cực lớn với lãi suất thấp (tăng gấp đôi cung tiền sau mỗi 2 năm để hướng đến mục tiêu lạm phát tăng lên 2%), biện pháp kích thích tài khóa truyền thống nhằm mục đích đưa thâm hụt ngân sách lên khoảng 11%-12% GDP, và biện pháp tự do hóa văn hóa doanh nghiệp khép kín, hướng nội nổi tiếng của Nhật. Mục đích nhằm tới của kế hoạch này là tăng thu nhập cho doanh nghiệp, nhờ đó tăng thu nhập cho người lao động, đồng thời tăng kỳ vọng lạm phát nhằm kích thích chi tiêu, đầu tư, và phá vỡ vòng xoáy thiểu phát gây ra bởi sự tụt giảm giá cả và theo đó là tụt giảm kỳ vọng, niềm tin của người tiêu dùng và nhà đầu tư vào tương lai kinh tế. Lạm phát tăng sẽ là một cú hích buộc người ta phải mở hầu bao ra chi tiêu trước khi tiền của họ mất giá vì lạm phát, nhờ đó dập tắt tâm lý dẫn đến thiểu phát rằng càng trì hoãn chi tiêu hôm nay thì càng có cơ hội mua được hàng hóa với giá rẻ hơn vào ngày sau.

Kết quả bước đầu

Xem ra kế hoạch này đã bước đầu thành công. Tăng trưởng kinh tế trong quý I đã đạt 3.5% tính theo năm, và, quan trọng hơn, trọng tâm trong kế hoạch của Abe là phục hồi lòng tin của người tiêu dùng đã được hiện thực hóa khi chi tiêu hộ gia đình đã chiếm tỷ trọng chính trong mức tăng trưởng này.
 
             Tuy vậy, mục tiêu đưa lạm phát lên 2%/năm xem ra chưa có mấy khả năng thành hiện thực. Chỉ số CPI lõi vẫn tiếp tục giảm 0.9% hồi tháng 3 sau khi đã giảm 1% trong tháng 2 năm nay so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, tháng 3 là tháng giảm thứ 5 liên tiếp của giá cả ở Nhật, cho thấy Nhật vẫn chưa thoát khỏi vũng lầy thiểu phát đã kéo dài 15 năm nay.

Một trong những giải thích hợp lý cho sự “cứng đầu” của thiểu phát ở Nhật nằm ở yếu tố địa chính trị. Tuy động cơ của liệu pháp Abenomics là tạo ra lạm phát nhưng một “tác dụng phụ” của nó là làm đồng yen suy yếu so với đồng won Hàn Quốc, và đặc biệt là đồng yuan của Trung Quốc, ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu của 2 nước này, vốn là những nước đối tác thương mại lớn nhất của Nhật. Việc “làm nghèo hàng xóm” này của Nhật, dù có vẻ là không cố ý, có khả năng sẽ dẫn đến xung đột thương mại với 2 nước này, đặc biệt là Trung Quốc vốn đang rất nhạy cảm với Nhật kể từ sau vụ Nhật quốc hữu hóa mấy hòn đảo có tranh chấp với Trung Quốc. Sự trả đũa từ 2 nền kinh tế này (dưới dạng chiến tranh tiền tệ, hàng rào thương mại cho nhập khẩu từ Nhật, và sự kiểm soát chặt với đầu tư từ Nhật v.v...) tại một thời điểm nào đó là điều khó tránh khỏi.

Bởi thế, sự phục hồi kinh tế dựa vào một đồng yen yếu của Nhật xem ra khó có thể kéo dài. Và một thực tế là vốn đầu tư cố định của các công ty Nhật đã không tăng đáng kể dù xuất khẩu của họ tăng mạnh cho thấy ngay bản thân giới quản lý các công ty Nhật cũng không tin tưởng vào khả năng kéo dài của một đồng yen yếu làm điểm tựa lâu dài cho tăng trưởng xuất khẩu và lợi nhuận của họ.

Nói cách khác, liệu pháp Abenomics vẫn chưa chế ngự được sự hoài nghi vào tương lai đã ăn sâu ở một bộ phận lớn trong xã hội Nhật sau cả gần 2 thập kỷ mất mát, hoặc vẫn còn sớm để chứng kiến tác dụng của nó trên lĩnh vực này, và vì thế giá cả tại Nhật vẫn tiếp tục sụt giảm bất chấp đồng yen đã mất giá mạnh cho đến nay.

 Khác biệt ở Việt Nam

            Ở Việt Nam, với cơ chế neo tỷ giá, việc chủ động phá giá tiền đồng thường khá hãn hữu trong những năm qua. Nếu có, việc phá giá thường chỉ là một hành động bắt buộc, miễn cưỡng phải làm dưới áp lực của thị trường sau mỗi thời kỳ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nới lỏng chính sách tiền tệ quá mức gây áp lực lên lạm phát và sự lên giá thực của tiền đồng so với ngoại tệ. Bởi thế, không phải ngẫu nhiên, những thời điểm phá giá tiền đồng lại trùng hợp với những thời điểm lạm phát đang có xu hướng đi lên. Điều này vừa gây ra ngộ nhận rằng phá giá là nguyên nhân chính gây ra lạm phát ở Việt Nam, vừa phóng đại tác động của phá giá lên lạm phát thông qua kênh nhập khẩu lên quá mức thực tế.

            Mặt khác, lòng tin tiêu dùng, đầu tư ở Việt Nam hầu như chưa bao giờ bị làm thui chột hoàn toàn như ở Nhật, vì Việt Nam kể từ sau Đổi mới đến nay đều liên tục tăng trưởng với tốc độ khá, chưa phải trải qua một năm thiểu phát nào theo đúng nghĩa của nó. Vì vậy, không như ở Nhật, ở Việt Nam khi chính sách tiền tệ được nới lỏng, kết hợp với tăng thu nhập từ tăng xuất khẩu nhờ phá giá tiền đồng, thông thường chi tiêu, tổng cầu và nhập khẩu sẽ tăng theo, từ đó làm tăng áp lực lạm phát. Ngược lại, dấu hiệu suy giảm tăng trưởng tổng cầu và lòng tin 2 năm gần đây ở Việt Nam cho thấy áp lực từ phá giá hay tăng giá xăng dầu, điện nước v.v... lên lạm phát xem ra không còn lớn như trước nữa, trong khi cung tiền vẫn tăng mạnh.

            Tóm lại, có thể không nói quá rằng điều nghịch lý ở Nhật so với Việt Nam phần lớn là do sự thiếu vắng lòng tin vào tương lai làm người dân và doanh nghiệp tiếp tục thận trọng với việc mở hầu bao chi tiêu.

 
Phụ lục

 Có nhiều người thắc mắc rằng, vể mặt kỹ thuật, khi đồng yen mất giá làm giá hàng nhập khẩu tăng lên, tại sao CPI của Nhật vẫn không tăng?
Trả lời: Thực tế này diễn ra không chỉ ở Nhật mà còn có thể xảy ra ở nhiều nước khác, kể cả Việt Nam trong một số hoàn cảnh (đặc biệt khi tăng trưởng tổng cầu suy yếu). Trong bảng số liệu về  giá trị và chỉ số giá nhập khẩu dưới đây, giá trị nhập khẩu được nêu ở cột A và B của bảng (đơn vị là tỷ yen). Cột C và D cho biết chỉ số giá nhập khẩu. Nhìn vào các cột này ta thấy, quả thật, đi kèm với sự mất giá của đồng yen là sự tăng lên về giá trị nhập khẩu và giá hàng hóa nhập khẩu nói chung đắt lên.

Giá trị và lượng nhập khẩu của Nhật
  Giá trị nhập khẩu Chỉ số giá nh.khẩu Lượng nhập khẩu 
  2012 2013 2012 2013 2012 2013
  A B C D E=A/C F=B/D
Tháng 1 5992 6429 104 116 57 56
Tháng 2 5413 6062 106 120 51 50
Tháng 3 6285 6634 113 122 56 54
Tháng 4 6090 6657 113 124 54 54
Nguồn:  tradingeconomics.com
 
Đem chia cột A cho C và B cho E ta có được những con số có thể coi là tổng lượng nhập khẩu. So sánh năm 2013 với năm 2012 (cột E và F), ta thấy lượng nhập khẩu thực tế giảm đi trong năm 2013 so với cùng kỳ năm 2012. Điều này có nghĩa là rất có thể vì giá hàng nhập khẩu tính bằng yen đã tăng nên rốt cuộc, vì gánh nặng chi tiêu tăng lên, người Nhật phải cắt giảm lượng nhập khẩu (chẳng hạn họ phải tìm cách tiêu dùng ít đi, ví dụ như tắt điều hòa hoặc để điều hòa ở nhiệt độ cao hơn để giảm lượng điện tiêu thụ từ đó giảm lượng than hay dầu chạy máy phát điện; dùng hàng trong nước sản xuất thay thế hàng nhập khẩu – là điều mà tác giả đã giải thích rõ trong bài trên TBKTSG đầu tháng 4).

Với lượng hàng nhập khẩu ít đi để bù trừ cho giá hàng nhập khẩu tính bằng yen đã tăng lên, rốt cuộc tác động lên lạm phát từ kênh nhập khẩu sẽ không lớn như người ta vẫn tưởng. Quan trọng hơn, một phần của hàng nhập khẩu nay đã được thay thế bởi hàng sản xuất trong nước đã trở nên rẻ hơn sau khi yen mất giá, làm cho mặt bằng giá cả trong nước không tăng nhiều, và thậm chí còn giảm nếu mức độ thay thế đủ lớn. Nhu cầu hàng nhập khẩu yếu đi cũng làm cho nhà nhập khẩu không dám điều chỉnh tăng giá bán tại Nhật theo sự mất giá của yen (cũng tương tự tình trạng xảy ra với mặt hàng ô tô nhập khẩu ở Việt Nam). Họ sẽ có thể phải cắt giảm bớt lợi nhuận, chịu phần thiệt về phía mình để giữ khách. Tất cả các yếu tố này kết hợp với lòng tin tiêu dùng nói chung vẫn còn yếu ở một bộ phận lớn trong xã hội Nhật đã kìm giữ lạm phát của Nhật ở mức thấp, thậm chí là thiểu phát mặc dù yen đã mất giá mạnh.

Friday 24 May 2013

Tìm cách giảm rủi ro trong tiếp cận và cho vay vốn (Bài trả lời phỏng vấn báo Đại biểu Nhân dân)

http://www.daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=281400

08:22 | 25/05/2013
Thay vì tìm cách hạ lãi suất hơn nữa và rồi đi kèm với rủi ro là lạm phát quay lại, theo TS PHAN MINH NGỌC, Phó giám đốc Nghiên cứu doanh nghiệp của Ngân hàng Sumitomo Mitsui, chi nhánh Singapore, điều cần làm là tìm cách giảm được mức độ rủi ro trong tiếp cận và cho vay từ phía doanh nghiệp và ngân hàng, để vốn ngân hàng đến được nơi cần đến.
Tin ai, ngân hàng hay doanh nghiệp?
- Đang có hai luồng ý kiến khác nhau về lãi suất cho vay. Phía ngân hàng cho rằng, tín dụng không thể tăng trưởng là do khả năng hấp thụ của nền kinh tế, và lãi suất hiện giờ không còn là vấn đề chính của doanh nghiệp. Trong khi đó, vẫn có những tiếng nói của doanh nghiệp kêu rất khó tiếp cận vốn và lãi suất hiện vẫn cao. Theo ông, nên tin ai, ngân hàng hay doanh nghiệp?
 
- Cả 2 bên đều phóng đại hoặc cực đoan hóa vấn đề. Đúng là, hạ lãi suất có thể sẽ không tự động dẫn đến tăng đáng kể đầu tư và nhu cầu tín dụng, gọi là tình trạng bẫy thanh khoản nếu nền kinh tế đang bị nợ xấu làm khó, lòng tin của ngân hàng vào doanh nghiệp giảm sút và ngân hàng nhìn đâu cũng thấy rủi ro nên không, không muốn cho doanh nghiệp vay nữa hoặc xét nét hơn khi cho vay. Tình trạng nền kinh tế hiện nay có thể làm cho một số người liên hệ đến tình trạng bẫy thanh khoản này. 
 
Nhưng không thể tuyệt đối hóa, cực đoan hóa hiện tượng này và nói tất cả các doanh nghiệp đều khó tiếp cận vốn và với lãi suất cao. Khó hay không và cao hay không phụ thuộc hoàn toàn vào chất lượng của doanh nghiệp và mục đích và tính khả thi của dự án vay vốn của doanh nghiệp. Không ngân hàng nào dại dột ngoảnh mặt với những doanh nghiệp tốt cả. Và việc tín dụng vẫn tăng trưởng dương là một bằng chứng đầy thuyết phục rằng ngân hàng vẫn cho vay, hoặc nói cách khác, nhiều doanh nghiệp vẫn vay được và với lãi suất chịu được đấy chứ? Tất nhiên cũng phải công nhận con số doanh nghiệp vay được này không thể bằng được trước đây, nhưng đó là sự việc tất yếu đi kèm với mỗi giai đoạn suy giảm tăng trưởng.
 
Ngược lại, ý kiến cho rằng khả năng hấp thụ của nền kinh tế suy yếu nên doanh nghiệp vay tiền cũng không biết để làm gì dù lãi suất đã không còn là vấn đề nữa cũng không hoàn toàn đúng. Một khi nền kinh tế vẫn tăng trưởng dương, và không thể nói là tăng trưởng thấp được khi tốc độ vẫn là trên dưới 5%/năm, điều đó có nghĩa là cầu của nền kinh tế vẫn tăng lên, vẫn tạo ra nhiều cơ hội mới để hấp thụ các dự án sản xuất kinh doanh mới. Và thậm chí cho dù tăng trưởng có chững lại, tụt xuống dưới âm thì mọi người trong xã hội vẫn cần phải ăn, mặc, đi lại và tiêu dùng cái gì đó, có nghĩa là chí ít các doanh nghiệp vẫn nhìn thấy cơ hội, từ đó sẽ vay vốn nhằm duy trì sản xuất kinh doanh đáp ứng được những nhu cầu này của xã hội. Và tất nhiên cũng cần phải thừa nhận nhu cầu đó có thể nhỏ đi và, do đó, quy mô sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp có thể cũng sẽ nhỏ đi so với trước. Nhưng đây cũng là điều tất yếu đi kèm với tăng trưởng suy giảm.
 
- Dòng vốn bị tắc, theo ông, có phải là nút thắt của nền kinh tế hiện nay không?
 
- Đương nhiên, đối với một nền kinh tế đang phụ thuộc lớn vào tín dụng ngân hàng để đáp ứng nhu cầu vốn của mình như nền kinh tế Việt Nam, bất kể trở ngại nào đó cản trở đến luồng chảy này đều gây ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của nền kinh tế đó và làm suy giảm tăng trưởng kinh tế, ít nhất trong ngắn hạn. 
 
Song, điều quan trọng là phải thấy rằng sự việc là như vậy nhưng không thể giải quyết nhanh chóng bằng những biện pháp cực đoan mà một số người đang hô hào như dùng mệnh lệnh buộc ngân hàng thương mại phải hạ tiêu chuẩn cho vay xuống hoặc cấp thẳng vốn từ ngân sách hay từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho các doanh nghiệp được. Giải quyết tình trạng này cần thời gian không phải ngắn, tính bằng tháng, mà tính theo vài quý đến hàng năm, cũng như cần nhiều giải pháp kinh tế và ít giải pháp hành chính nếu không muốn mọi sự phục hồi của nền kinh tế, nếu có, chỉ là tạm thời để rồi lại nhanh chóng rơi vào suy sụp ở mức độ còn lớn hơn.
 
- Đánh giá về lãi suất cho vay hiện nay, ông thấy đã hợp lý chưa? 
 
- Như đã nói ở trên, khi bẫy thanh khoản đã xảy ra thì dùng công cụ lãi suất để kích thích đầu tư quả thật sẽ không còn nhiều tác dụng. Cũng phải nhắc lại luận điểm đầy cảm tính của nhiều chuyên gia trước đây, coi hạ lãi suất là chìa khóa cho sự phục hồi đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Lúc đó, lãi suất cho vay vượt trên 20%/năm, họ cho rằng để doanh nghiệp sống được và kinh doanh có lãi thì lãi suất phải ở mức 15%. Thế rồi lúc lãi suất hạ xuống 15% thì họ lại kêu gọi NHNN hạ lãi suất xuống nữa thì doanh nghiệp mới có lãi. Và nay thế nào thì đã rõ. Vậy, lãi suất thấp không luôn luôn là đũa thần cho phục hồi kinh tế. 
 
Cần theo đuổi chính sách tiền tệ, tài khóa thận trọng 
- Để khơi dòng vốn, chính sách tiền tệ giờ đã không còn dư địa nữa, vì thế, đến lúc phải dùng cả chính sách tài khóa, ví dụ, tăng bội chi, nới giới hạn nợ công... Ông có ủng hộ quan điểm này không?
 
- Vì lãi suất không còn là đũa thần cho vấn đề nữa, nên trong tình cảnh hiện nay, thay vì chăm chăm tìm cách hạ lãi suất hơn nữa, và rồi đi kèm với rủi ro là lạm phát quay lại, điều cần làm là tìm cách giảm được mức độ rủi ro trong tiếp cận và cho vay cả từ hai phía, doanh nghiệp và ngân hàng, để vốn ngân hàng đến được nơi cần đến, nơi có nhu cầu. Ở nghĩa này thì quả đúng hạ lãi suất hơn nữa cũng không làm tăng đáng kể mức đầu tư vào nền kinh tế. Có nghĩa là dư địa của chính sách tiền tệ quả là không còn mấy nữa và đừng nên “tận thu” trong lĩnh vực này.
 
Ngược lại, có nên dùng bội chi ngân sách để kích thích đầu tư, tiêu dùng và tăng trưởng hay không là câu hỏi không dễ trả lời. Vấn đề là chúng ta có nên chấp nhận đánh đổi lòng tin vào chính sách, vào các cam kết ổn định vĩ mô bước đầu đã ra hình hài, có nên hy sinh những nỗ lực ổn định hóa trong suốt 2 năm qua trong khuôn khổ của một nỗ lực lớn hơn, bao trùm lên trên hết – tái cơ cấu toàn diện nền kinh tế - để đổi lấy sự phục hồi kinh tế chắc chắn sẽ là mong manh, ngắn hạn, nếu có?
 
Trong khi đó, như đã nói ở trên, làm cách nào đó để giảm thiểu rủi ro tiếp cận và cho vay vốn là những biện pháp tuy khó nhưng không phải là không thể, và chắc chắn là sẽ với phí tổn ít hơn rất nhiều và bền vững hơn cũng rất nhiều so với biện pháp tăng chi tiêu Chính phủ thông qua tăng bội chi. Thực ra, nhiều trong số các biện pháp tái cơ cấu cái này cái kia mà người ta vẫn nhắc đến thành câu cửa miệng trong suốt hơn 2 năm qua cũng chính là những biện pháp sẽ góp phần cải thiện tiếp cận vốn từ cả 2 phía ngân hàng và doanh nghiệp. Có điều, nay dường như chuyện tái cơ cấu đã bị gạt sang bên.
 
- Theo ông, chính sách tài khóa và tiền tệ nên phối hợp với nhau như thế nào trong hoàn cảnh hiện nay?  
 
- Thực sự tôi không bi quan quá như những người trong cuộc, căn cứ vào những con số thống kê do Chính phủ báo cáo. Nếu tình hình đúng như những gì Chính phủ báo cáo thì việc thực hiện các chính sách tiền tệ và tài khóa theo hướng thận trọng như và hơn hiện nay vẫn là điều cần theo đuổi, vì luôn cần nhớ rằng mọi sự phục hồi theo kiểu giật gấu vá vai đều chỉ có tính ngắn hạn, để rồi phí tổn giải quyết hậu quả còn tốn kém hơn nhiều so với một sự phục hồi từ từ bằng những biện pháp kinh tế lành mạnh, dài hơi.
- Xin cảm ơn ông!
Hồng Loan thực hiện

Tuesday 21 May 2013

Các đồng chí có biết mình đang nói gì không?

Tớ đã không dưới dăm lần phải lên tiếng trên báo chí để phản đối ý tưởng thành lập một cái ủy ban nào đó của một đồng chí nào đó, thường là nghị sĩ cứ mỗi khi thấy có một vấn đề gì đó nổi cộm. Lúc thì là lời kêu gọi thành lập Ủy ban tái cơ cấu kinh tế, lúc thì Ủy ban tái cơ cấu ngân hàng, Ủy ban tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, và mới đây thì là Ủy ban quốc gia giải cứu doanh nghiệp của đồng chí nghị Trần Hoàng Ngân. Tóm lại là kính thưa các loại ủy ban.

Trộm nghĩ, giá mà Quốc hội, Chính phủ nghe theo lời quân sư của mấy đồng chí này thì nay ở Việt Nam phải có thêm đến cả chục cái ủy ban ra đời (và sẽ ra đời tiếp), mà cái nào cũng cấp thiết, quan trọng đến độ phải có một đồng chí mèng ra thì cũng phải là Phó Thủ tướng đứng đầu. Thế có nghĩa là phải bầu ra thêm không cả chục thì cũng phải dăm đồng chí Phó Thủ tướng nữa để chuyên trách đứng đầu các ủy ban vì xem ra 4 Phó Thủ tướng hiện nay chỉ có 2 tay, 1 đầu cho một người, khó mà đảm đương kiêm nhiệm mỗi người thêm 1, 2 cái ủy ban nữa, bên cạnh một lô một lốc các loại chức trách kiêm nhiệm khác mà hiện họ đang phải/được gánh.

Rồi nữa, vì các vấn đề nổi cộm này không phải là độc lập với nhau nên cũng lại phải cần một cái siêu ủy ban, đứng trên các ủy ban khác để phối hợp các ủy ban này lại với nhau, không thì, theo logic đòi thành lập ủy ban, các ủy ban này hoạt động rời rạc, mạnh ai người ấy làm, không giải quyết một cách hữu hiệu các vấn đề nổi cộm có mối quan hệ đan chéo chằng chịt lẫn nhau. Rồi nữa, lại phải cần bầu ra thêm một đồng chí chức to hơn, quyền to hơn chục đồng chí Phó Thủ tướng thì mới có đủ thẩm quyền để gõ đầu mấy đồng chí Phó Thủ tướng bên dưới này để cho công việc được chạy hanh thông. Nếu đồng chí to này là Thủ tướng, thì về nguyên tắc Thủ tướng khó mà có thể làm chủ tịch ủy ban của mấy cái ủy ban cùng một lúc (vì cũng chỉ có 2 tay và 1 đầu), nên rốt cuộc khéo mà phải bầu ra thêm it nhất là một đồng chí Thủ tướng nữa để chuyên trách/kiêm nhiệm cái nhiệm vụ thống nhất quản lý các loại ủy ban.

Kinh khủng hơn nữa là những đề xuất như của đồng chí Ngân không chỉ dừng lại ở việc thành lập ủy ban cấp trung ương, mà còn đòi thành lập ủy ban cấp tỉnh nữa. Ối mẹ ơi, xã hội hiện nay mới có song song 2 bộ máy cho cùng một việc mà đã chẳng ra đâu rồi mà nay thêm 1 bộ máy nữa cùng nhúng mũi vào, ví dụ, hoạt động kinh doanh của một ngân hàng, thì quả thật là tớ không dám hình dung tiếp.

Còn về mặt nhân sự cho bộ máy ủy ban từ trung ương đến cấp tỉnh (sao không đề xuất luôn đến cấp xã nhỉ, cho sâu sát, chứ không thì ai giải quyết sự vụ ở cấp dưới tỉnh?), phải hoan nghênh đồng chí Ngân vì với ý tưởng này nếu được thực thi thì sẽ có thêm hàng ngàn chỗ làm mới cho các ủy ban viên từ chức danh (Phó) Thủ tướng trở xuống, góp phần giải quyết hữu hiệu tình trạng suy giảm việc làm do các doanh nghiệp đóng cửa. Và vì nguồn kinh phí cần có chắc phải đo lường bằng con số nghìn tỷ đồng (lương, phụ cấp, trụ sở, xe cộ, phương tiện làm việc, công tác phí, đào tạo, bồi dưỡng v.v...) nên đây là một nguồn kích cầu quan trọng một công vài ba việc, bù đắp còn hơn những gì mà khối kinh tế tư nhân đang đánh mất do phải đóng cửa.

Đi sâu hơn nữa vào đề xuất của đồng chí Ngân, càng nghiên cứu tớ càng thấy khâm phục trí tưởng tượng trình độ cao của đồng chí. Đồng chí Ngân lấy ví dụ: "Chẳng hạn khi doanh nghiệp kêu lãi suất vẫn cao, cơ quan này phải đứng ra dàn xếp mối quan hệ với ngân hàng để đảm bảo có lãi suất hợp lý cho những dự án tốt. Rồi doanh nghiệp than rằng họ tiếp cận vốn rất khó vì còn kẹt nợ cũ. Vậy thì ủy ban cần đứng ra dàn xếp để khoanh khoản nợ cho doanh nghiệp vay vốn triển khai dự án mới." (Xem tại đây.)

Và (ở một phiên bản báo khác): "Chẳng hạn, doanh nghiệp còn nợ mà chưa được khoanh để vay mới tái đầu tư sản xuất thì người đứng đầu ủy ban có thể chỉ đạo ngay Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính phải tính toán và quyết ngay, tức là đi thẳng vào từng sự vụ hoặc những sự vụ phổ biến một cách rốt ráo." (Xem tại đây.)
Ở phiên bản nào thì cũng cho thấy rằng mỗi ủy ban tương tự thế này cần phải, sẽ làm việc với từng doanh nghiệp một để xác định khó khăn của doanh nghiệp là gì, sau đó thì làm công văn hay gọi điện ngay sang NHNN hoặc Bộ Tài chính (hoặc một ngân hàng nào đó) để yêu cầu/ra lệnh/can thiệp bên đó phải có hành động vì quyền lợi của doanh nghiệp. Hệ hệ, tớ quả thật là không đủ trí tưởng tượng để theo kịp với trí tưởng tượng của đồng chí Ngân. Tớ chỉ mới hình dung được ra được rằng vì có vài trăm nghìn doanh nghiệp, trong số đó có phải đến vài chục phần trăm doanh nghiệp (tức cũng phải đến cả trên trăm nghìn doanh nghiệp) hiện đang kêu khó, than khổ, cần sự giúp đỡ, can thiệp của ủy ban này (và nhiều loại ủy ban khác). Vì mỗi ủy ban viên chỉ có 1 đầu và 2 tay nên 1 người phụ trách chừng chục doanh nghiệp có vấn đề là đã hết ngày làm việc, lịch làm việc kín hết cả mấy quý. Cứ vậy suy ra con số ủy ban viên trực tiếp xử lý các doanh nghiệp đã lên đến hàng chục nghìn, chưa kể con số ủy ban viên gián tiếp.

Lại nữa, vì các ngân hàng, NHNN và Bộ Tài chính sẽ bị các ủy ban viên này gõ đầu can thệp nên họ sẽ phải bố trí từng đó nhân viên để sẵn sàng giải quyết ngay lập tức các vụ việc được chuyển sang từ các ủy ban viên này. Nói cách khác, sẽ phải có hàng chục ngàn nhân viên được bổ sung vào các cơ quan và ngân hàng chỉ để xử lý vấn đề của các doanh nghiệp do ủy ban giải cứu doanh nghiệp các cấp chuyển đến.

Lại chưa kể đến những lĩnh vực vướng mắc khác, ngoài lĩnh vực ngân hàng, có liên quan đến doanh nghiệp (vì doanh nghiệp hiện nay kêu khó đủ thứ, chẳng hạn, ngoài vốn còn thị trường tiêu thụ hàng hóa của họ nữa), nên rốt cuộc số chỗ làm trong các cơ quan nhà nước và khối doanh nghiệp tư nhân sẽ tăng theo cấp số nhân, chứ không phải cấp số cộng nữa. Kèm với đó là kinh phí hoạt động cũng tăng tương ứng.

Vân vân và vân vân. Viết đến đây tớ mới chợt thấy hóa ra trí tưởng tượng của mình cũng đi xa phết (và vẫn còn có thể đi xa hơn nữa, nhưng không dám tưởng tượng thêm). Chợt thở phào một cái, rơi bụp phát xuống đất, đau nhưng mừng và hy vọng khấp khởi rằng nếu đồng chí Ngân cũng tưởng tượng được xa như và hơn tớ thì chắc cũng sẽ biết sợ và đồng chí từ nay về sau sẽ phải cố gắng học được cái thói quen suy nghĩ kỹ 2 lần trước khi nói, tuy rằng bây giờ thì đã muộn rồi (không học được nữa, không có khả năng học).

Monday 20 May 2013

Lạm phát mục tiêu có áp dụng được ở Việt Nam?

Hôm trước, ở trong entry về Vinacomin, có đồng chí bạn đọc hỏi tớ về lạm phát mục tiêu (theo tớ thì dùng mục tiêu lạm phát là chuẩn hơn khi dịch từ tiếng Anh cụm từ "inflation target"). Tớ đã trả lời, và nhớ lại mình cũng đã viết về vấn đề này từ năm 2006 đăng trên tạp chí Tia sáng, với câu trả lời là: (i) chưa nên áp dụng mục tiêu lạm phát ở Việt Nam hiện nay, nếu chỉ vì lo ngại rằng lạm phát sẽ tác động tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng (vì lý thuyết và thực tế chưa có bằng chứng rõ ràng), (ii) dù muốn cũng chưa thể áp dụng được mục tiêu lạm phát ở VN trong hoàn cảnh hiện nay vì một số điều kiện tiên quyết để áp dung nó chưa được thỏa mãn (tính độc lập của NHNN, tỷ giá linh hoạt, chưa tự do hóa thị trường tài chính). Để tiện bạn đọc theo dõi, tớ post lại tất cả lên đây. Mời các đồng chí xem và comment.

I. Câu hỏi của bạn đọc
....
Bữa nay, mấy bác ở VN tổ chức cái hội thảo về lạm phát mục tiêu, em cũng quan tâm vụ này, nhưng thật lòng ko biết NHTW các nước xác định mức lạm phát mục tiêu này như thế nào. Họ chỉ ước lượng định tính rồi công bố và thực hiện này có phương pháp kinh tế lượng thế nào. Còn ở VN, chưa có con số này, giờ muốn tính lạm phát kỳ vọng dựa trên lạm phát thực tế hay dựa trên con số quốc hội duyệt hàng năm ko bác nhỉ, cách tính thế nào. Bác giúp em cũng là giúp nhiều người quan tâm nhưng bí rị đấy bác ạ.

II. Trả lời của tớ
Tớ nghĩ cách làm của VN rất đơn giản, xác định áng chừng theo thời thế, xu thế, áp lực của dư luận/Quốc hội theo thời điểm, hoặc đơn giản hơn, nhiều khi là do cách hiểu sai/ngớ ngẩn của NHNN hay của Quốc hội, Chính phủ v.v...

Chẳng hạn trước đây GDP vẫn còn khả năng tăng trưởng trên 7%/năm thì, do hiểu sai, người ta nghĩ lạm phát phải không cao quá 7%/năm, vì cho rằng nếu cao hơn thì có nghĩa tăng trưởng GDP "không còn ý nghĩa". Họ không nói thẳng thế nào là "không có ý nghĩa", nhưng tớ hiểu ý của họ cho rằng như vậy có nghĩa là tăng trưởng như thế là tăng trưởng thực tế ÂM. Các đồng chí chắc biết họ sai ở chỗ nào chứ?

Nay thì tăng trưởng GDP khó mà vọt lên được mức như xưa, trái lại mức tăng trưởng GDP 5% là hiện thực có vẻ gần gũi hơn. Nhưng ngay cả ở mức tăng trưởng GDP thấp vậy mà lạm phát theo kế hoạch, hoặc có thể gọi/hiểu là lạm phát mục tiêu theo như cách hiểu của VN (tớ đoán thế, mặc dù tớ chẳng hiểu NHNN hay QH định nghĩa nó là cái gì) cũng khó dưới mức 6%-7%. Thực tế này đòi hỏi người ta phải xem xét lại quan hệ giữa GDP mục tiêu và lạm phát mục tiêu, chấp nhận việc lạm phát mục tiêu có thể phải cao hơn tăng trưởng GDP mục tiêu/thực tế.

Thế còn nên đặt lạm phát mục tiêu là 6% hay 7% thì lại cũng là điều hết sức cảm tính, lựa thời cơ mà phán xét. Càng gần về cuối năm, nếu thấy mục tiêu GDP và lạm phát khó đạt được thì người ta càng có xu hướng kêu gọi nới lỏng/sửa đổi lại lạm phát mục tiêu v.v...

Tóm lại, cái gọi là lạm phát mục tiêu, về bản chất là lạm phát theo kế hoạch (kiểu như tăng trưởng GDP theo kế hoạch), và hoàn toàn linh động, biến thiên theo tình huống, theo ý muốn chủ quan của những người hoạch định chính sách hoặc đơn giản hơn, của những người thích can thiệp, có quyền can thiệp, ví dụ như Quốc hội hoặc đảng.

Kinh tế lượng nếu có được dùng trong việc xác định lạm phát mục tiêu thì tớ nghĩ chắc chỉ có khả năng là dùng để tính mối quan hệ tuyến tính giữa tăng trưởng GDP và lạm phát ở VN (chẳng hạn GDP tăng trưởng 1% thì lạm phát tăng x%, hoặc ngược lại) dựa trên số liệu lịch sử của GDP và lạm phát, có thể cùng với một số biến kinh tế khác, để từ đó vạch ra, chẳng hạn GDP năm nay kế hoạch là 6% thì lạm phát sẽ là/phải là 7% hoặc 8% v.v... Nhưng đương nhiên là tớ không nghĩ mối quan hệ mà họ tìm ra nhờ kinh tế lượng như vậy, nếu có, là chuẩn xác, có ý nghĩa, luôn đúng mọi năm. Vì thế đã và tất sẽ có sự điều chỉnh lạm phát mục tiêu theo cảm tính theo thậm chí là hàng quý, nửa năm, và hàng năm, cho dù tăng trưởng GDP dự tính vẫn là một con số nào đó đặt ra từ trước đó.


III. Bài tớ đăng trên tạp chí Tia sáng 20/6/2006
link (dead): http://www.tiasang.com.vn/news?id=588
Một link khác ở đây: http://niemtin.free.fr/lamphat.htm
--------------------
Lạm phát, mục tiêu lạm phát và tăng trưởng kinh tế

Thực chất của quan hệ giữa lạm phát với năng suất và tăng trưởng là thế nào? Mục tiêu lạm phát (MTLP) có phải là điều kiện cần trong chính sách tiền tệ không? Bài viết này sẽ cung cấp những cơ sở lý luận và kết quả thực chứng cho những vấn đề này và liên hệ với Việt Nam.
 
Trong quan niệm của nhiều người, lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế vì làm giảm năng suất lao động. Lạm phát bóp méo mức độ khan hiếm tương đối (phản ánh qua giá cả) của các nguồn lực sản xuất và do đó bóp méo các quyết định đầu tư và sự phân bổ các nguồn lực khan hiếm này. Lạm phát còn làm giảm mức khấu trừ thực tế cho phép trong thuế doanh nghiệp đối với khấu hao tài sản cố định và làm tăng giá thuê tư bản, do đó làm giảm tích lũy vốn, dẫn đến giảm năng suất. Hàm lượng thông tin liên quan đến biến động giá cả giảm đi kể cả trong thời kỳ lạm phát ổn định. Như vậy, các nhà đầu tư thường có xu hướng mắc lỗi trong quyết định của mình và chọn những “gói” yếu tố sản xuất không phải là tối ưu, làm giảm hiệu quả kinh tế và, do đó, giảm năng suất.

Tuy nhiên, không ít người lại lập luận rằng lạm phát ở một mức nhẹ lại có tác dụng tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Chẳng hạn, nhà kinh tế học nổi tiếng Tobin cho rằng lạm phát làm cho nhà đầu tư tái phân bổ danh mục đầu tư của mình từ tiền sang chứng khoán, làm giảm lãi suất thực tế và do đó làm tăng đầu tư và nâng cao năng suất lao động. Ông lập luận thêm rằng “một chút lạm phát giúp bôi trơn nền kinh tế” vì nó giúp thị trường lao động điều chỉnh cho phù hợp. Một số khác cũng chỉ ra rằng nhu cầu tăng lên ổn định sẽ gây ra lạm phát ở mức nhẹ, là cái mà thực ra lại làm tăng, chứ không phải giảm, năng suất lao động và, do đó, tăng tốc độ tăng trưởng. Vì thế, động thái nhằm đạt mức lạm phát bằng 0 chẳng qua là chính sách trả trước ngay bây giờ cho nhiều thiệt hại hơn sau này.

Từ một khía cạnh khác, một số người cho rằng lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế nếu xét đến mối quan hệ giữa tính bất trắc của lạm phát trong tương lai với tăng trưởng sản lượng. Họ cho rằng tính bất trắc của lạm phát càng cao thì tăng trưởng sản lượng càng thấp. Sở dĩ có điều này bởi vì nhà sản xuất khai thác triệt để tính bất đối xứng về thông tin trên thị trường – thông tin có được của người tiêu dùng bị hạn chế so với nhà sản xuất – để tăng biên độ lợi nhuận, do đó làm tăng doanh thu kể cả cho những nhà sản xuất không thật sự hiệu quả. Việc phân bổ các nguồn lực sản xuất tới những nhà sản xuất không hiệu quả như vậy sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng. Nhưng ngược lại với dòng lập luận này, một số nhà kinh tế chỉ ra rằng tính bất trắc của lạm phát lại có tác động tích cực đến tăng trưởng, nhờ vào động thái tăng tiết kiệm để phòng ngừa lạm phát. Họ cũng chỉ ra thêm rằng trên thực tế, quan hệ nhân quả giữa hai biến số này là không nhất quán ở từng trường hợp nghiên cứu quốc gia.

Như vậy có thể nói rằng về lý luận, quan hệ nhân quả giữa lạm phát với năng suất lao động và/hoặc tăng trưởng chưa hoàn toàn sáng tỏ. Thực tế, kết quả nghiên cứu thực chứng trong nhiều nghiên cứu cấp quốc gia và nhóm quốc gia cũng chỉ ra một quan hệ phức tạp giữa 2 nhóm biến số này. Các nghiên cứu thực chứng ban đầu chỉ tập trung vào nhóm G7, hoặc các nước trong tổ chức OECD, và kết quả nghiên cứu không chỉ ra được một kết luận rõ ràng về quan hệ này. Tùy theo dữ liệu sử dụng là chuỗi thời gian (cho trường hợp nghiên cứu từng quốc gia cụ thể), hay dữ liệu cho nhóm quốc gia sẽ có các kết quả đối ngược nhau. Về sau này, một số tác giả bắt đầu nghiên cứu thêm nhóm các nước ở châu Á. Kết quả nghiên cứu cũng không khác mấy so với kết quả từ các nghiên cứu trước đó đối với nhóm OECD hay G7. Cụ thể, ở một số nước như Nhật, Thái Lan, Sri Lanca, Philippines, và Indonesia, lạm phát và năng suất không hề có quan hệ gì với nhau. Ở một số nước khác như Malaysia, lạm phát có tác động tiêu cực đến năng suất. Ở những nước như Hàn Quốc, Ấn Độ, và Singapore, 2 biến số này tác động lẫn nhau.

Căn cứ vào kinh nghiệm của những quốc gia như nêu trên, có thể rút ra một số bài học cho Việt Nam liên quan đến MTLP ở ta như hiện nay:
Ảnh hưởng của lạm phát là không rõ ràng lên tăng trưởng kinh tế. Ở một nước/nhóm nước nào đó lạm phát (và tính bất trắc lạm phát) có thể làm giảm năng suất (và giảm tăng trưởng), nhưng ở một nước/nhóm nước khác điều này là không đúng. Vì vậy, trước khi đưa ra một MTLP để kiềm chế lạm phát ở nước ta (mà chủ yếu dựa vào chính sách tiền tệ), cần phải có những nghiên cứu thực chứng công phu để có một đánh giá đúng về quan hệ giữa lạm phát và năng suất (và tăng trưởng) ở nước ta. Khi chưa có những nghiên cứu này thì không thể loại trừ khả năng lạm phát ở ta tuy cao nhưng tác động của nó lên tăng trưởng là không đáng kể, và do đó chính sách thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát là không cần thiết và chỉ dẫn đến suy giảm tăng trưởng.

Cũng giống như nhiều quốc gia, lạm phát ở ta cũng do một nguyên nhân quan trọng là ngân sách nhà nước liên tục ở mức thâm hụt. Hầu như từ khi thống nhất đất nước đến nay chưa bao giờ ngân sách đạt được cân bằng thu chi, đặc biệt trong những thời kỳ khủng hoảng kinh tế vĩ mô trước thập kỷ 90. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực, thâm hụt ngân sách tăng dần, từ mức 0.13% GDP năm 1998 lên đến 3.23% năm 2001, sau đó giảm xuống, nhưng vẫn còn đứng ở mức khá cao, trên 2% trong vòng 2, 3 năm gần đây. Như vậy, kiềm chế thâm hụt tài khóa sẽ góp phần đáng kể vào việc kiềm chế lạm phát và do đó làm giảm bớt tầm quan trọng của chính sách thắt chặt tiền tệ. Dường như lâu nay ở ta có một quan niệm sai lầm và nguy hại rằng lạm phát chủ yếu bắt nguồn từ các cơn sốt giá nguyên nhiên liệu chiến lược đầu vào. Một số ít người thì tỉnh táo hơn đã nhắc đến sự tăng trưởng tín dụng mạnh để kích cầu trong những năm trước là một nguyên nhân khác của xu hướng lạm phát tăng cao trong những năm gần đây. Thế nhưng hầu như không ai đả động đến một nguyên nhân cũng rất quan trọng là thâm hụt tài khóa đã và đang ở mức khá cao như hiện nay. Từ nhận thức đầy đủ về nguồn gốc lạm phát này, có thể thấy chính sách kiềm chế lạm phát nhờ thắt chặt tín dụng và kiềm chế giá của các nguyên nhiên liệu đầu vào không cho tăng lên là chưa đủ, chưa thật thích hợp, thậm chí là có hại (vì, ví dụ, giá các loại yếu tố đầu vào này sớm hay muộn cũng phải tăng lên cho phù hợp với giá cả thực tế của chúng).

Để có cơ sở áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát như hiện nay, cần phải có thêm một nghiên cứu thực chứng đầy đủ về quan hệ giữa cung tiền và lạm phát trong bối cảnh cụ thể Việt Nam. Điều này là cần thiết vì tăng cung tiền không nhất thiết sẽ gây ra lạm phát. Và nghiên cứu thực chứng ở một số nước (chẳng hạn Ấn Độ và Hàn Quốc) cũng khẳng định rằng tăng cung tiền không phải là nguyên nhân của lạm phát ở những nước này.

Để cho chính sách tiền tệ có hiệu lực trong việc kiềm chế lạm phát, có một số điều kiện tiên quyết. Đó là một thị trường tài chính được tự do hóa, một ngân hàng trung ương độc lập với chính phủ, và một cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn, tiến gần đến cơ chế thả nổi hoàn toàn. Ở Việt Nam, 3 điều kiện này chưa (hoàn toàn) được xác lập. Chúng ta mới bắt đầu tự do hóa thị trường tài chính qua một số động thái, trong đó có việc xóa bỏ trần lãi suất, nhưng hoạt động trong các ngành tài chính và ngân hàng chưa hoàn toàn dựa trên các nguyên tắc thị trường. Ngân hàng Nhà nước, với tư cách là một ngân hàng trung ương, vẫn là một thành viên của chính phủ và chịu nhiều chi phối từ đây. Cơ chế tỷ giá vẫn rất cứng nhắc, hầu như là gắn chặt giá đồng nội tệ với đôla Mỹ.


Thursday 16 May 2013

Bình luận nhanh về khẳng định của Vinacomin

Không hiểu sao tớ rất ngán ai hay nói cái từ “khẳng định”, mà thường về mức độ, nó cũng tệ hại không kém từ “quyết tâm” hay “quyết liệt”, vốn là những sáo ngữ rất được ưa chuộng của các quan từ lớn đến bé ở xứ ta.

Quay lại với khẳng định của Vinacomin về tính hiệu quả của 2 dự án bauxite của nó. Ông có tên là Chỉnh thì khẳng định rằng dự án có hiệu quả vì được ... tính trên nhiều thông số, chứ không phải 1 thông số (nên chắc là tin cậy?), vì giá sau này sẽ tăng lên nên sẽ có lãi...
Ông phải hiểu rằng đương nhiên không ai nghi ngờ/kỳ vọng Vinacomin chỉ tính hiệu quả dự án với 1 thông số (mà ai nghi ngờ/kỳ vọng vậy thì cũng không nên nói chuyện với họ làm gì). Vấn đề là ở chỗ không phải là có nhiều hay ít thông số, mà là sử dụng các thông số đó thế nào, với những giả định nào, có hợp lý hay không, phương pháp tính toán thế nào v.v... Vinacomin không công khai những yếu tố này thì bố ai biết được là Vinacomin đã tính đúng chưa, đủ chưa, và người ta có quyền nghĩ ngược lại, khi một số người khác đã thử tính toán hiệu quả của dự án một cách độc lập để cho kết quả là lỗ chổng vó.

Một trong những tham số quan trọng nhất trong tính hiệu quả của dự án là giá bán sản phẩm. Ông Chỉnh hay bất cứ ai ở Vinacomin, hoặc bất cứ ai khác chẳng có cái lý do/cơ sở gì để khẳng định như đinh đóng cột rằng giá alumina/aluminum sẽ tăng lên sau này, nhất là hàng chục năm nữa, và/hoặc giá thành sản phẩm không tăng tương ứng hoặc nhanh hơn làm cho dự án vẫn là lỗ dù giá bán có tăng v.v... Tất cả những thông số về giá đưa vào tính hiệu quả hiện nay đều chỉ là các giả định, có nghĩa là có thể xảy ra hoặc không xảy ra trên thực tế. Mà đã là giả định thì không thể khẳng định được kết quả rằng dự án sẽ có lãi sau x năm nữa.
Còn nực cười hơn nữa là cái chuyện khẳng định sẽ chịu trách nhiệm trước Đảng và nhà nước (sao không phải là dân nhỉ?). Sau mấy năm nữa thì các ông đã về hưu ráo trọi, hạ cánh an toàn hết rồi, túm vào ai để mà quy trách nhiệm nữa đây? Hơn nữa, nhìn những tấm gương đàn anh đi trước, làm dối, làm láo, thiệt hại liểng xiểng cho cái đất nước khốn khó, bất hạnh này mà hầu như chẳng ai bị quy kết trách nhiệm, bị bỏ tù vì cái tội "dốt", hay “tính sai” cả nên chắc các ông khôn ra, cứ mạnh  dạn mà học tập, phát huy các tấm gương sáng láng đó mà mạnh miệng cam kết chịu trách nhiệm chăng? Mà chịu trách nhiệm như thế nào mới được cơ chứ? Không nhẽ chịu trách nhiệm chính trị như đồng chí gì ấy nhi? Thế thì tớ cũng chịu được và cũng xin cam đoan là sẽ tích cực và quyết liệt khẳng định trách nhiệm của tớ mọi lúc, mọi nơi.

Về bùn đỏ, đồng chí Chỉnh cũng mạnh miệng khẳng định rằng đã tính toán kỹ hết cả rồi, có phương án lường trước hết cả rồi. Ô hô, chủ dự án nào mà chẳng nói vậy, lại dại mà không nói vậy? Vấn đề là, như trên tớ đã nói, tính toán thế nào và chất lượng tính toán ra sao mới là quan trọng. Khỏi cần nhắc lại các tai nạn ở những nơi tưởng như an toàn nhất quả đất này để các đồng chí thấy “bản lĩnh mặt dầy” của các đồng chí. Ngay cả Vinacomin cũng đã tưởng như tính toán đâu vào đó hiệu quả của dự án cảng Kênh Gà để rồi cuối cùng phải thừa nhận là không hiệu quả đấy thôi?

Vân vân và vân. Tóm lại, trong buổi giải trình của Vinacomin người nghe được dịp no bụng miễn phí một loạt các “khẳng định” với “khẳng định” hết chuyện này đến chuyện khác để rồi phải tự vả vào mồm mình một hay nhiều phát vì không biết mà còn thích vặn vẹo, và phải rút ra kết luận quả là Vinacomin sẽ có lý.
Nhưng hãy chờ xem!

Thursday 9 May 2013

Lại NHNN!

Trong bản tin tối qua, NHNN lại biện bạch về chuyện vàng. Nhưng càng biện bạch lại càng thấy tối/rối thêm.

Điểm thứ nhất, NHNN cho rằng: "trước khi có Nghị định 24, mỗi năm NH Nhà nước phải cấp phép nhập khẩu bình quân khoảng 50-60 tấn vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng. Việc này đã gây ảnh hưởng đến tỉ giá, CPI, sự ổn định kinh tế vĩ mô và ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô dự trữ ngoại hối.
Nay, khi NH Nhà nước độc quyền nhập khẩu, sản xuất vàng miếng làm giảm mạnh nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu vàng. Việc NH Nhà nước không cấp phép nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng cùng với hiệu quả của các chính sách bình ổn kinh tế vĩ mô của Chính phủ giúp tình hình cung cầu ngoại tệ cải thiện cơ bản, giảm đáng kể tình trạng đô la hóa nền kinh tế".  
 
Và: "....lượng ngoại tệ dùng để nhập khẩu vàng nhỏ hơn nhiều so với trước đây và chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ lượng ngoại tệ NH Nhà nước đã mua vào thời gian qua. Hiện dự trữ ngoại hối nhà nước đang ở mức cao nhất từ trước đến nay."

Việc NHNN độc quyền không nhất thiết làm giảm nhu cầu dùng dự trữ ngoại tệ để can thiệp/ổn định. Thay vì trước đây NHNN phải tung ngoại tệ gián tiếp vào thị trường vàng thông qua việc tung ngoại tệ để ổn định tỷ giá khi các chủ thể kinh tế khác mua gom ngoại tệ trong nền kinh tế để nhập khẩu vàng thì nay NHNN phải trực tiếp tung ngoại tệ ra để tự mình nhập khẩu vàng.

Số ngoại tệ NHNN trực tiếp bỏ ra để nhập khẩu vàng đúng là có thể nhỏ hơn về lượng, như NHNN nói, so với tổng lượng ngoại tệ trước đây các chủ thể kinh tế huy đồng từ cả nền kinh tế. Nhưng thế không có nghĩa là NHNN thoát được việc phải can thiệp gián tiếp trên thị trường ngoại tệ vì vẫn có một lượng vàng nhất định được nhập lậu, làm ảnh hưởng đến thị trường ngoại tệ, buộc NHNN phải bán ngoại tệ để can thiệp. Cộng cả phần trực tiếp và gián tiếp này thì tổng lượng dự trữ ngoại tệ mà NHNN phải dốc ra để can thiệp vào thị trường vàng và ngoại tệ không chắc đã nhỏ hơn lúc NHNN vẫn chưa dành độc quyền nhập khẩu và cho đấu thầu vàng. NHNN phải chứng minh được rằng thực ra lượng vàng nhập lậu là không đáng kể thì mới kết luận như trên được.

Điểm thứ hai, chẳng hiểu cái khái niệm "đô la hóa" của NHNN là thế nào mà lại nói được rằng đã "giảm đáng kể tình trạng đô la hóa nền kinh tế" nhờ độc quyền nhập khẩu vàng. Giả sử trước khi NHNN được độc quyền nhập khẩu vàng, có 10 tỷ đô la được lưu thông trong toàn nền kinh tế (trừ phần nằm ở dự trữ ngoại tệ của NHNN). Nếu như thông thường các tổ chức được nhập khẩu vàng thì giả sử họ huy động 5 tỷ đô la từ số này để nhập khẩu vàng, tổng số đô la lưu thông trong nền kinh tế còn lại là 5 tỷ đô la. Tuy nhiên, thế này cũng vẫn chưa thể nói là nạn đô la hóa đã giảm, vì song song với 5 tỷ đô la đang lưu thông vẫn có thêm một lượng vàng mới, trị giá 5 tỷ đô la được đưa thêm vào lưu thông, nên nạn đô la hóa thực ra vẫn không thay đổi về bản chất (chính xác ra thì nạn đô la hóa có giảm đi; nhưng nền kinh tế lại bị "vàng hóa" khi có thêm 5 tỷ đô la giá trị vàng vào lưu thông. Và hậu quả của vàng hóa hay đô la hóa thì như nhau; tức nạn "ngoại tệ hóa" không thay đổi).

Sau khi NHNN được độc quyền nhập khẩu vàng, thay vì cần nhập khẩu 5 tỷ đô la giá trị vàng về cho nền kinh tế, NHNN nay chỉ cần xuất ra, ví dụ, 2 tỷ đô la dự trữ ngoại tệ để nhập khẩu vàng về bán đấu thầu (đúng ý/lý luận của NHNN nhé!).

Nhưng nếu vậy thì nạn đô la hóa (chính xác hơn: "ngoại tệ hóa") lại còn trầm trọng thêm! Thay vì trong nền kinh tế chỉ có tổng lượng ngoại tệ+vàng tương đương 10 tỷ đô la (gồm 5 tỷ đô la tiền mặt, 5 tỷ đô la giá trị vàng) đang lưu thông vào thời điểm trước khi NHNN được độc quyền vàng, nay do NHNN tung thêm 2 tỷ đô la giá trị vàng mà nó nhập khẩu về nữa, trong nền kinh tế lúc này có tổng cộng 12 tỷ đô la tiền mặt và vàng. Tức là nạn đô la hóa (ngoại tệ hóa) rõ ràng là trầm trọng hơn trước khi NHNN độc quyền nhập khẩu vàng chứ?

Nạn đô la hóa (ngoại tệ hóa) chỉ không đổi, không tệ đi nếu NHNN không nhập khẩu vàng bằng ngoại tệ dự trữ.

Điểm thứ ba, NHNN nói: "Đồng thời, việc chấm dứt chính sách huy động vàng, cho vay vàng đã loại trừ rủi ro liên quan đến vàng trong hoạt động của tổ chức tín dụng. Cơ quan này cho biết, hơn 1 năm qua, các tổ chức tín dụng đã mua được hơn 100 tấn vàng trên thị trường trong nước để chi trả cho người dân mà không cần ngoại tệ nhập khẩu vàng".

Nếu chỉ để ngăn các tổ chức tài chính ngân hàng nhập khẩu vàng, khuyến khích chúng phải mua vàng trong dân thì cần gì NHNN phải độc quyền nhập khẩu vàng? Thay vào đó, NHNN chỉ cần không cấp phép nhập vàn cho chúng, như trước đây NHNN vẫn làm, là được thôi chứ?

Tóm lại, tớ rất thích NHNN vì nhờ nó mà tớ luôn có chuyện để mà viết blog và đặc biệt là viết báo để cải thiện cuộc sống (nhuận bút kiếm được từ khai thác đề tài về NHNN nhiều phết đấy, cũng phải mua được vài lạng vàng phân phối chứ chẳng chơi).

Wednesday 8 May 2013

Trả lời thư bạn đọc về chuyện vàng


Có đồng chí nói là cộng tác viên của một tờ báo nước ngoài gửi email hỏi tớ về chuyện vàng như dưới đây (phần mầu xanh). Tớ trả lời luôn trên blog này cho tiện cả đôi đường. Các đồng chí có góp ý, bình luận gì thêm thì nhảy vào giúp tớ nhé.

... Em đang viết một bài đánh giá về chính sách thị trường vàng của SBV trong năm vừa qua, và tình cờ đọc được những entry của anh về thị trường vàng Việt Nam. Em rất cảm ơn anh vì những nhận định của anh đưa ra trên blog đã cung cấp những góc nhìn đa diện hơn về chính sách của SBV. Nhân đây, em muốn hỏi xin một vài quick comments của anh về thị trường vàng Việt Nam với tư cách của một chuyên gia kinh tế, để giúp độc giả nhìn nhận rõ hơn về vấn đề này. Hi vọng anh có thể thu xếp thời gian trả lời giúp em hai câu hỏi chính sau:
1. Anh đánh giá thế nào về hiệu quả của chính sách quản lý vàng của SBV 1 năm sau khi nghị định 24 ra đời? Liệu SBV đã đạt được mục tiêu họ đề ra?

2. Anh kì vọng gì về thị trường vàng sau mốc 30/6? Với sự quản lý của SBV như hiện tại thì giá vàng nội địa có khả năng tiến sát mức giá thế giới hay không?

Như em hiểu rationale của SBV về chính sách vàng là: Thực hiện độc quyền vàng miếng để kiểm soát hoàn toàn nguồn cung vàng đầu tư, cấm giao dịch thực hiện bằng vàng và hoạt động tín dụng bằng vàng để loại bỏ vàng ra khỏi hệ thống tiền tệ. Hoạt động đấu thầu vàng là nhằm cung ứng vàng cho các ngân hàng đảm bảo tất toán trạng thái trước 30/6 như quy định. Như thế, sau 30.6 khi nhu cầu tất toán vàng không còn, thị trường sẽ không bị bóp méo bởi sốc cầu từ các ngân hàng nữa, và sẽ điều chỉnh theo hướng giảm dần. Vàng tất toán cũng sẽ được trả lại cho người dân theo quy định, như vậy càng đẩy nhu cầu vàng giảm xuống. Người dân sẽ ít có nhu cầu chọn vàng để đầu tư (cầu thấp, biến động khó lường từ chính sách, khó khăn khi giao dịch), nhập lậu vàng hạn chế (vàng nhập lậu không rửa thành vàng miếng được), từ đó ổn định được thị trường vàng, ngoại tệ, và tăng lượng tiền gửi vào ngân hàng để từ đó tăng đầu tư, trong bối cảnh VND còn yếu và kinh tế thì cũng không sáng sủa gì. Cách hiểu của em về chính sách của SBV như thế có đúng không ạ? Rất mong được anh chỉ bảo thêm.

 Tớ trả lời:
1.      Mục tiêu nào mới được chứ? Như tớ đã viết trong một loạt bài đăng trên báo rồi trên blog này, mục tiêu của NHNN thay đổi đến nay đã vài lần rồi, và lần nào thì tớ cũng đã chứng minh rằng đó hoặc không phải là mục tiêu thật sự của NHNN, hoặc chắc chắn không thành công (xin tìm lại các bài về cùng chủ đề trên blog này để rõ thêm; các bài viết hình như bắt đầu từ khoảng nửa năm sau của 2001, đầu tiên với bài viết “Có nên bình ổn giá vàng” trên VEF thì phải).

2.      Tớ không đầu tư, không nắm giữ vàng nên đương nhiên tớ không kỳ vọng gì vào thị trường vàng ở Việt Nam cả, chỉ quan sát nó với tư cách là quan sát viên để có chuyện mà viết báo và blog thôi! Và vì bệnh nghề nghiệp, cũng như kiến thức và kinh nghiệm mách bảo, tớ không muốn, không thử dự đoán tương lai của thị trường vàng, giá vàng ở Việt Nam sẽ như thế nào vì trò dự đoán này không khác gì gieo quẻ phán vận hạn cả. Nói như thế nhưng cũng có nghĩa là đồng chí đừng có tin vào bất cứ dự đoán với nhận định của bất cứ ai cả, kể cả người trong cuộc là NHNN, và những người “nửa trong nửa ngoài cuộc” là các chuyên gia X, Y, Z hay đăng đàn xuất hiện trên báo chí trả lời về vàng cả.

Trở lại với câu hỏi trên của đồng chí. Tớ nói đừng tin ai và không dự đoán nhưng không có nghĩa là bảo mọi người đừng dự đoán, vì ai cũng sẽ dường như đều nhìn thấy một yếu tố gì đó ám chỉ xu hướng của thị trường (thế nên mới có người nhảy vào trong khi người khác thì lại rút ra).

Với tớ, những yếu tố quan trọng nhất quyết định xu hướng giá vàng ở Việt Nam đó là (i) giá vàng thế giới, (ii) lạm phát ở Việt Nam, (iii) tin đồn, (iv) hành động, khả năng và mức độ can thiệp của NHNN.

Về giá vàng thế giới. Thông thường các biến động mạnh của giá vàng thế giới sẽ là mồi để những cơn sốt nóng, sốt lạnh vàng trong nước xảy ra. Cho dù NHNN có “ổn định” được thị trường vàng theo cái nghĩa mà họ nói, chỉ có họ mới hiểu được, (tự) đánh giá được, nhưng trước những biến động mạnh về giá vàng thế  giới như tháng vừa qua thì có 10 NHNN chắc cũng sẽ phải thúc thủ trước thị trường, khỏi bận tâm đến chuyện bình ổn hay không nữa. 

Về lạm phát ở Việt Nam. Cũng giống như với USD, nhu cầu nắm giữ hay thoát khỏi vàng sẽ phụ thuộc một phần vào kỳ vọng lạm phát ở Việt Nam, vào khả năng phá giá VND. Nhu cầu này sẽ tự khuyếch đại khi có hành động bầy đàn góp mặt, tạo thành những cơn sốt nóng.

Về tin đồn. Những tin đồn tương tự như đổi tiền nếu còn xuất hiện thì sẽ tạo ra những cơn sóng to hay nhỏ trên thị trường vàng, tùy theo mức độ có-vẻ-như-thật của chúng và mức độ nghiêm trọng nếu là sự thật.

Về sự can thiệp của NHNN. Tớ đã nói rằng hành động can thiệp của NHNN như vừa qua chỉ tạo thêm những “nhiễu” cho thị trường, thậm chí tạo thêm cơ hội đầu cơ, tạo ra những cơn sóng mới.

Với những yếu tố trên (luôn có khả năng xảy ra, tương tác với nhau), đồng chí bây giờ chắc đã thấy tại sao tớ không muốn đưa ra bất kỳ một dự đoán, nhận định nào về xu hướng thị trường cả. Và thế cũng có nghĩa là mọi chuyện đều có thể xảy ra, và mọi nhận định của NHNN hay của ai đó đều có khả năng không trở thành sự thật!

Về rationale của SBV mà đồng chí đang cố gắng “nhét vào mồm” SBV thì cũng có thể là đúng như vậy (đúng như SBV đang nghĩ). Nhưng đó tất nhiên chỉ là sự đơn giản hóa trong phòng thí nghiệm kinh tế học, theo các giả thiết. Bất kể một trong những yếu tố trên xuất hiện/góp mặt thì đều có thể làm đảo lộn kết quả “thí nghiệm”.

(Nếu đọc xong phần trả lời trên mà đồng chí vẫn có định trích dẫn, đưa tớ lên báo tây thì đừng có nêu chỗ kiếm tiền của tớ đấy nhé, vì nguyên tắc compliance. Tớ sợ thất nghiệp lắm!).

Tuesday 7 May 2013

Quản lý vàng: Từ ngụy biện đến ngụy biện hơn!

(Lời nhờ vả bạn đọc: Tớ đang có nhu cầu sưu tập email của (thành viên) ban biên tập/thư ký tòa soạn của một số tờ báo như Lao Động, Thanh Niên, Tuổi Trẻ, VnExpress, SGTT, Diễn đàn Doanh nghiệp, Sài Gòn Đầu tư v.v... Ai biết và sẵn lòng giúp đỡ thì xin gửi về email cho tớ với. Tớ xin cám ơn và có thể có... hậu tạ, nếu có yêu cầu).
-----------------------------------------------------------

Trong chuyên mục “Dân hỏi, Bộ trưởng trả lời”, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Văn Bình đã giải đáp một số vấn đề liên quan đến chính sách quản lý vàng của NHNN hiện nay.  Tuy vậy, chắc chắn đối với nhiều người dân các chính sách về vàng của NHNN, trong đó có đấu thầu vàng, càng ngày càng trở nên khó hiểu.
Trước  ý kiến của người dân về việc Ngân hàng Nhà nước cho rằng “bình ổn thị trường vàng nhưng không nhằm mục tiêu bình ổn giá” là không hợp lý, ông Bình thừa nhận một trong những nội dung bình ổn thị trường là làm sao ổn định được giá cả. Tuy nhiên, ông nói thêm rằng với một thị trường như thị trường vàng, tức là thị trường không phải là các mặt hàng ưu tiên, thì giá cả phải do lực lượng thị trường quyết định nhưng không bị chi phối bởi các nhóm lũng đoạn.  

Ở đoạn trên, ông  Bình đã nói rất đúng rằng vì nó không phải là một thị trường của mặt hàng ưu tiên nào đó nên cần để thị trường vàng biến động theo quy luật cung cầu. Nhưng nếu đã vậy, tại sao NHNN phải nhảy vào can thiệp và quản lý với tư cách độc quyền là người mua bán cuối cùng? Với những việc NHNN đang làm trên thị trường vàng, chẳng phải NHNN đang chính là một lực lượng lũng đoạn thị trường hay sao, khi giá vàng không còn phản ánh đúng quy luật cung cầu nữa mà bị bóp méo theo mỗi hành động can thiệp của NHNN?
Tiếp theo, ông Bình cho rằng người dân đã hiểu nhầm giữa khái niệm ổn định giá với khái niệm chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới. Nói thế này thì oan cho dân quá, vì dân chỉ là nạn nhân của mớ bòng bong chính sách về vàng của NHNN. Lúc thì NHNN nói là cần quản lý để giữ khoảng cách giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới không quá 400.000 đồng, lúc thì nói là không cần phải bình ổn giá, lúc thì nói là bình ổn thị trường chứ không bình ổn giá, và nay thì lại quay lại nói rằng cần bình ổn giá vàng (để cho giá vàng trong nước ít biến động, không liên thông với giá thế giới). Trong mớ bòng bong của mục tiêu quản lý thị trường vàng với sự giải thích nửa vời, kém thuyết phục, không đến nơi đến chốn của những người đại diện NHNN thì người dân không hiểu sai mới là chuyện lạ!

Ông Bình cũng đã rất đúng khi nói rằng vàng về bản chất là ngoại tệ nên không nên/cần để thị trường vàng trong nước liên thông với  thị trường vàng thế giới, để tỷ giá được ổn định. Nhưng nếu chỉ vì mục đích ổn định tỷ giá như thế thì tại sao cần phải bình ổn giá vàng trong nước? Chẳng phải là vì thị trường vàng trong nước đã bị cách ly với thị trường thế giới nên dù giá thế giới có biến động thế nào chăng nữa cũng chẳng ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ giá và kinh tế vĩ mô hay sao? Sao NHNN phải bán vàng qua đấu thầu để làm gì nữa?
Còn nếu vì mục đích ổn định giá vàng, như ông Bình nói ở đoạn tiếp theo, để làm cho biến động giá vàng trong nước không lớn dẫn đến giảm đầu cơ thì cũng có điều khó hiểu. Thông thường về nguyên tắc, người ta sẽ đầu cơ một cái gì đó khi biết/đoán giá của nó sẽ tăng lên trong tương lai (gần). Quả là chừng nào NHNN còn cho đấu thầu vàng để tăng cung ra thị trường (giả sử với giá tương đối ổn định trong mỗi đợt đấu thầu) thì giá vàng sẽ có xu hướng ít nhất là không đi lên, và giới đầu cơ chẳng còn cơ hội để đầu cơ (mua thấp bán cao), đúng như ông Bình nói. Nhưng vấn đề là liệu NHNN sẽ bán đấu thầu được bao lâu, và giá bán của NHNN có ổn định tương đối ở một mức nào đó không (chẳng hạn xoay quanh mức 42 triệu đồng/lượng với biên độ cộng trừ không đáng kể, ví dụ, 400.000 đồng/lượng, không đáng để đầu cơ)? Nếu NHNN ngừng bán đấu thầu giữa chừng (vì lo ngại cạn kiệt vàng dự trữ, suy giảm dự trữ ngoại tệ do phải mua vàng, hay vì một lý do nào đó v.v...) thì không thể phủ nhận hoàn toàn khả năng giá vàng sẽ tăng bật lại và tạo cơ hội đầu cơ.

Và nếu NHNN thay vì giữ giá đấu thầu ổn định tương đối như nói ở trên lại điều chỉnh giá đấu thầu qua mỗi phiên với mức độ đủ lớn (như đã chứng kiến trong 13 phiên đấu thầu vừa rồi với mức chênh lệch giá đấu thầu qua các phiên tới hàng triệu đồng/lượng) thì đồng nghĩa với việc tiếp tục tạo ra các cơ hội cho giới đầu tư, chứ không làm giảm đầu cơ như ông Bình tin tưởng.
Liên quan đến câu hỏi ai được hưởng chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới, ông Bình diễn giải rằng do NHNN độc quyền nhập khẩu vàng nên chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới hiện nay sẽ thuộc về ngân sách, thay vì chui vào túi giới nhập khẩu vàng như trước đây.

Về lời diễn giải này, có 3 điểm bất ổn. Thứ nhất, thu chi ngân sách nhà nước  cũng như dự trữ ngoại hối quốc gia có những luật và nguyên tắc quy định chặt chẽ của chúng, không phải thích mang dự trữ ngoại hối (trong trường hợp này là vàng quốc gia) ra bán lúc nào thì bán, cho dù là với danh nghĩa để bổ sung vào ngân sách. Nói cách khác, dự trữ ngoại hối không phải là/không được phép trở thành nguồn thu của ngân sách, trừ những trường hợp đặc biệt theo luật định.
Thứ hai, có thể với tư cách là người mua bán cuối cùng, NHNN sẽ thu lợi khi xuất ngoại tệ dự trữ ra để nhập khẩu vàng về bán đấu thầu trong nước với giá bằng tiền đồng quy theo tỷ giá thì cao hơn hẳn giá nhập khẩu vàng bằng USD. Nhưng cần lưu ý rằng vì NHNN không thể mang tiền đồng thu được từ đấu thầu vàng ra thị trường thế giới để mua vàng hay ngoại tệ về bổ sung vào quỹ dự trữ ngoại hối (trong đó có vàng và USD) đã bị hao hụt do nhập khẩu vàng về đấu thầu, nên rốt cuộc doanh thu bán vàng đấu thầu và “lợi nhuận” từ việc này nếu có nộp vào ngân sách thì cả quốc gia sẽ phải trả giá khi quỹ dự trữ ngoại hối bị hao hụt nặng vì không có nguồn bổ sung từ hành động đấu thầu vàng trong nước.

Cái giá phải trả để đổi lấy phần “lợi nhuận” từ đấu thầu vàng chưa dừng lại ở đó. Khi dự trữ ngoại tệ hao hụt, đồng nghĩa với chảy máu ngoại tệ, làm cho khả năng can thiệp ổn định tỷ giá của NHNN trở nên yếu ớt hơn, vi phạm chính cái mục tiêu mà NHNN luôn nhấn mạnh rằng đấu thầu vàng để tránh chảy máu ngoại tệ làm ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ giá.
Và khi NHNN đấu thầu vàng cũng chính là NHNN đang tăng cung vàng vào nền kinh tế. Nói cách khác, bên cạnh tiền đồng, ngoại tệ, nay lại có thêm một lượng vàng lớn đi vào lưu thông trong nền kinh tế, đồng nghĩa với làm tăng nạn “vàng hóa”, một thực tế mà NHNN cũng luôn nhấn mạnh là sẽ tránh được khi NHNN trực tiếp quản lý thị trường vàng như cung cách hiện nay.

Cuối cùng, theo nguyên tắc, trong quỹ dự trữ ngoại hối luôn cần phải duy trì một tỷ lệ vàng nhất định để đa dạng hóa danh mục tài sản nhằm giảm thiểu rủi ro. Giả sử đến thời điểm trước khi đấu thầu vàng, NHNN nắm giữ trong tay 20 tấn vàng dự trữ và 22 tỷ USD dự trữ ngoại tệ khác. Lưu ý thêm rằng số vàng dự trữ này là cả một quá trình tích lũy trải qua nhiều năm trước, với giá mua vào (bằng USD) ở những năm trước thấp xa so với giá của thời điểm trước khi đấu thầu (ví dụ, có thời điểm chỉ là 400 USD/lượng). Sau khi dùng vàng dự trữ cho đấu thầu, NHNN cần phải bổ sung lại 20 tấn vàng này. Với giá vàng thế giới hiện tại, tuy đã thấp hơn khá nhiều so với trước khi đấu thầu, nhưng so với giá vàng trung bình đã mua trước đây thì vẫn cao hơn nhiều, nên NHNN phải tung ra một lượng USD lớn hơn trước đây từ quỹ dự trữ ngoại tệ để mua lại cùng số vàng 20 tấn này. Nói cách khác, có thể NHNN có lãi khi bán vàng dự trữ với giá bằng VND cao sau đó nhập khẩu vàng về bù lại, nhưng lại chịu lỗ khi tính theo nguyên giá USD của số vàng có trong dự trữ và cần bổ sung lại, thể hiện qua tổn thất dự trữ ngoại tệ dùng để mua vàng.
Tóm lại, dù xét trên nghĩa nào, với mục đích gì thì rốt cuộc những lập luận và giải thích của NHNN về chuyện vàng càng ngày càng trở nên rắm rối, khó hiểu, và khó thuyết phục.

 

Saturday 4 May 2013

Đấu thầu vàng: Mục đích và những con số

(Hôm nay đổi món tí. Bài này gửi đăng báo nhưng chưa biết có đăng được không, nên cứ post lên đây trước đã)
------------------------------------------------
Từ cuối tháng 3 đến 3/5, qua 13 phiên đấu thầu, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã bán tổng cộng 366.400 lượng vàng, tương đương gần 14 tấn. Vì chuyện đấu thầu vàng của NHNN là chuyện vô tiền khoáng hậu ngay cả trên thế giới nên có 3 câu hỏi liên quan tất yếu được đặt ra như dưới đây.

Đấu thầu vàng để làm gì?
Mục đích đấu thầu đã được NHNN giải thích đôi ba lần, gần đây nhất thì cho rằng là để bình ổn thị trường vàng (chứ không phải bình ổn giá vàng).

Để bình ổn thị trường vàng thì, về nguyên tắc, NHNN cần làm cho cung và cầu vàng trong nước ít biến động một cách tương đối. Do có sự liên thông ở một phạm vi nhất định với thị trường vàng thế giới, và do cung cầu vàng trên thế giới biến động từng giây, từng phút, nên, về nguyên tắc, NHNN cũng sẽ phải thường trực trên thị trường vàng trong nước như người bán/mua cuối cùng 24h/24h, 7 ngày/tuần, nếu họ muốn bình ổn thị trường vàng. Vì thế, thay vì mang lại sự bình ổn cho thị trường vàng, việc NHNN thỉnh thoảng thông tung ra thị trường một lượng vàng nhất định nào đó vào một số thời điểm nào đó để đấu thầu (với giá sàn đặt ra trước đó một khoảng thời gian không thể gọi là ngắn) sẽ gây ra nhiều “nhiễu” hơn, nếu không muốn nói là bất ổn hơn cho thị trường vàng trong nước, vì tính chất thời điểm, tần suất và liều lượng cần thiết có sự lệch pha, khác biệt với xu hướng vận động liên tục của thị trường trong nước có sự liên thông với thị trường quốc tế.  
Có người sẽ biện hộ rằng hành động can thiệp này của NHNN là nhằm dẹp nạn “đầu cơ” vàng. Tung vàng dự trữ quốc gia ra bán thì có thể làm cho giá vàng đi xuống và làm thiệt hại kẻ nào đó đã ôm vàng trước đó đợi giá vàng lên thì bán ra kiếm lãi. Nhưng việc tung vàng ra bản thân nó đã tạo cơ hội cho kẻ khác đầu cơ khi tin rằng khi chấm dứt đấu giá vàng hoặc giữa hai đợt đấu giá, giá vàng trong nước sẽ bật lại. Họ sẽ mua vào và đợi chờ giây phút hiện thực hóa nhận định của mình. Trừ khi NHNN vô cớ, và có khả năng, cung vàng liên tục và với số lượng lớn để giá vàng trong nước liên tục đi xuống thì giới đầu cơ mới thiệt hại không gượng được đến mức phải bỏ chạy khỏi thị trường vàng. Nhưng do số lượng vàng dự trữ rất có hạn (như tính toán dưới đây), quan trọng hơn, việc sử dụng chúng không phải chỉ để cho bình ổn thị trường vàng trong nước nên suy ra rằng “nạn đầu cơ” vàng vẫn sẽ còn đất sống và thậm chí còn sống khỏe với một thị trường vàng nay đã bị NHNN làm cho thêm bất ổn và thêm cơ hội đầu cơ.

Như vậy, xét về nguyên tắc thì mục đích của việc đấu thầu vàng mà NHNN tuyên bố xem ra không có cơ hội để thành hiện thực (bình ổn cái không thể bình ổn được về nguyên tắc). Phải chăng còn mục đích gì khác?
Đấu thầu còn có thể kéo dài bao lâu?
Trong phần này chúng ta thử làm một số ước tính số vàng có trong dự trữ ngoại hối của NHNN và số phiên đấu thầu có thể có, dựa trên các giả định và số liệu thực tế. Theo số liệu về dự trữ ngoại hối của Việt Nam do WB công bố thì từ năm 2000 đến 2010, tỷ lệ vàng trên tổng dự trữ ngoại hối của Việt Nam bình quân là 2,1% (năm cao nhất là 3,6%, thấp nhất là 1,1%). Giả sử tỷ lệ cao nhất 3,6% này được duy trì trong các năm sau đó.

Năm 2012, số liệu ước tính từ Việt Nam cho thấy dự trữ ngoại hối của Việt Nam vào khoảng từ 20 tỷ đến 23 tỷ đôla. Lấy con số 23 tỷ đôla, tỷ lệ vàng là 3,6% và giá vàng vào ngày 31/12/2012 là 1.660 đôla/ounce để tính thì ra số vàng dự trữ đến cuối năm 2012 là khoảng 414 nghìn lượng. So với lượng vàng đã bán ra qua 13 phiên (366,4 nghìn lượng) thì có thể thấy ở kịch bản khả quan nhất, NHNN cũng chỉ còn khoảng 48 nghìn lượng trong kho dự trữ.
Đây chỉ là con số ước tính đến thời điểm cuối năm 2012. Vì dự trữ ngoại hối được Ủy ban Kinh tế Quốc hội công bố là đã tăng 3,18 tỷ đôla trong quý 1 năm nay, nên có thể suy ra dự trữ ngoại hối của Việt Nam vào cuối quý 1 là 26,2 tỷ đôla. Dựa vào tỷ lệ 3,6% và tổng dự trữ ngoại hối là 26,2 tỷ đôla, ta có tổng giá trị vàng trong quỹ dự trữ ngoại hối là khoảng 943 triệu đôla.

Nếu tính với giá vàng quốc tế trung bình là 1.500 đôla/ounce trong thời gian đấu thầu vàng vừa qua thì số vàng dự trữ trước khi đấu thầu là 629 nghìn ounce (522 nghìn lượng). Trừ đi 366,4 nghìn lượng đã đấu thầu thì NHNN chỉ còn trong tay tối đa là 156 nghìn lượng sau 13 phiên đấu thầu, tức tương đương khoảng trên dưới 5 phiên đấu thầu nữa, dựa trên số vàng đấu thầu trung bình qua 13 phiên.
Con số 156 nghìn lượng này vẫn còn chưa bằng số lượng vàng ước tính mà các ngân hàng còn phải tất toán vào 30/6 lên tới hơn 6 tấn, tức là hơn 160 nghìn lượng (theo báo chí, tổng số vàng cần tất toán tạm ước tính là 20 tấn, trừ đi gần 14 tấn các ngân hàng đã mua vào qua đấu thầu). Nói cách khác, theo  những giả định và ước tính “hào phóng” nhất thì nếu NHNN có bán sạch quỹ vàng dự trữ, họ cũng mới chỉ gần làm thỏa cơn khát mua vàng của các ngân hàng để tất toán.

Hậu quả sẽ ra sao?
Vì số vàng có trong dự trữ quốc gia mà NHNN nắm giữ rất có hạn, dù chỉ là so với số vàng mà các ngân hàng có nhu cầu mua vào để tất toán, nên NHNN chắc chắn sẽ phải dùng đến dự trữ ngoại tệ, vừa để nhập vàng bổ sung vào quỹ vàng đã bị hao hụt nặng, vừa có vàng để cung cấp tiếp cho các ngân hàng tất toán vàng. Việc dùng đến dự trữ vàng và ngoai tệ quốc gia sẽ được coi là thỏa đáng nếu nó phục vụ lợi ích chung, nhưng trong trường hợp này xem ra khó có thể giải thích thỏa đáng khi các ngân hàng mới là đối tượng được phục vụ chính trong các cuộc đấu thầu.

Điều quan trọng hơn, hành động bán vàng dự trữ quốc gia này của NHNN làm tăng nạn “vàng hóa” khi một lượng lớn vàng được tung vào nền kinh tế, làm suy yếu thêm tính hiệu quả của chính sách tiền tệ của NHNN. Dùng dự trữ ngoại tệ để mua vàng cũng làm suy yếu quỹ dự trữ ngoại hối của Việt Nam, làm giảm khả năng can thiệp bình ổn tỷ giá và lạm phát mà NHNN đang theo đuổi.
Trong khi đó, NHNN lặp đi lặp lại rằng họ cần can thiệp bình ổn thị trường vàng để tránh nạn “vàng hóa”, tránh nhập lậu vàng làm thâm hụt dự trữ ngoại tệ, ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định của tỷ giá và lạm phát. Nhưng việc NHNN đấu thầu vàng và dùng dự trữ ngoại tệ để nhập vàng như hiện nay chẳng phải là sẽ dẫn đến những hậu quả này hay sao?

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).