Thursday 11 July 2013

Xem họ nói gì về tỷ giá

Tớ lướt báo, thấy có 2 khuôn mặt, 2 ý kiến rất xứng đáng được lôi ra đây để bình luận. Gương mặt đầu tiên là đồng chí Lê Minh Hưng, Phó Thống đốc NHNN. Bổn cũ soạn lại, sau khi liệt kê nào là cán cân thanh toán thặng dư mấy tỉ đôla, nào là trạng thái ngoại tệ tại các ngân hàng không có đột biến, đồng chí Hưng kết luận rõ ràng luôn rằng diễn biến tỉ giá gần đây là do yếu tố tâm lý chứ không phải xuất phát từ mất cân đối cung cầu ngoại tệ.

Sai từ vừa vừa đến rất sai!
Sai vừa vừa vì yếu tố tâm lý đã hình thành từ lâu, chứ không phải đợi đến gần đây mới bộc lộ ra, mới bị cho rằng chỉ xuất hiện sau khi NHNN phá giá 1%. Yếu tố tâm lý hình thành từ lâu trên cơ sở, như tớ nói hôm trước, nhập siêu kinh niên, tỷ giá ổn định quá lâu trong khi lạm phát của Việt Nam quá cao so với các nước khác trong nhiều năm. Tâm lý càng dễ bị gây hoảng loạn/hoảng sợ hơn khi NHNN vừa trước đó cam kết không phá giá, nay lại phá giá (“điều chỉnh”), và chuyện này xảy ra không dưới ... trăm lần từ trước đến nay làm cho năng lực và uy tín của NHNN thành trò cười.

Rất sai, và ngụy biện, vì nếu cân đối ngoại tệ không xấu đi thì cớ gì NHNN phải phá giá, dù chỉ 1%, cho dù thừa biết phá giá, dù chỉ 1% cũng sẽ châm ngòi cho sự hoảng loạn?
Có nghĩa là, hoặc NHNN biết mình đang nói dối mà vẫn cứ phải trâng tráo tiếp tục, trong khi lý do thật sự nằm ở chỗ khác; hoặc rõ ràng cân đối ngoại tệ theo kiểu các đồng chí đang nói đến chẳng liên can mấy đến cái sự đi đâu về đâu của tỷ giá cả. Hoặc cũng có thể NHNN chẳng thể hiểu cái gì đang xảy ra, mình đã, đang và cần phải làm cái gì. Khả năng nào thì cũng cho thấy NHNN đang làm rất tồi công việc của mình, cả về khách quan và chủ quan.    

Rồi đồng chí Hưng lại còn khẳng định NHNN “không điều chỉnh” tỷ giá và sẽ kiên quyết ổn định tỷ giá. Nhưng tiếc rằng, rất tiếc rằng đồng chí Hưng lại nhắc lại rằng tỷ giá chỉ biến động 2%-3% trong cả năm. Nếu đã khẳng định không điều chỉnh, kiên quyết ổn định mà vẫn nói sẽ biến động vậy có nghĩa là hoặc một vài trong mấy khả năng sau: (i) khẳng định mà không chắc (có làm được hay không); (ii) khẳng định một đằng, (để rồi) làm một nẻo; (iii) khẳng định bừa (mục đích để trấn an dư luận là chính, hạ hồi phân giải); (iv) coi “không điều chỉnh” và “ổn định” tỷ giá có nghĩa tương đương với để cho tỷ giá biến động (tăng lên) nữa (từ nay đến cuối năm), là cái mà không thể hiểu được từ cách dùng tiếng Việt, buộc người ta phải đặt câu hỏi không biết đồng chí Hưng có giỏi tiếng Việt hay không.
Khả năng nào chăng nữa thì cũng chỉ có một hàm ý là hãy tiếp tục găm giữ USD vì NHNN chỉ biết/làm được đến thế thôi rồi sẽ phải buông, như đã từng chứng kiến nhiều, nhiều lần trước đây.

 
Gương mặt tiêu biểu thứ hai là của đồng chí Tiến sĩ  Trương Văn Phước. Trước khi viết tiếp, tớ phải phiền bạn đọc tìm giúp tớ đồng chí này lấy bằng TS ở đâu, vì đó là câu hỏi băn khoăn mãi của tớ từ trước đến nay, sau một đôi lần va vấp tranh luận với đồng chí này trên báo chí.
Cụ thể hơn, đồng chí TS Phước nói thế này: “Có một lý thuyết rất kinh điển về tỷ giá hối đoái là lý thuyết về bước đi ngẫu nhiên (Random Walk). Trong cơ chế tỷ giá hối đoái của Việt Nam có rất nhiều cách thức để điều hành trong bối cảnh chúng ta đã lựa chọn một cơ chế thả nổi có điều tiết. Có nhiều lựa chọn. Chúng ta có thể lựa chọn theo phương thức trườn bò của tỷ giá, có thể theo cách thức cố định trong một thời gian nào đó tỷ giá bình quân liên ngân hàng dựa trên một ngang giá trung tâm của tỷ giá hối đoái.”

Hiểu chết liền! Đúng là bước đi ngẫu nhiên có khác, đang từ lý thuyết về bước đi này nhảy một phát sang bàn về cơ chế tỷ giá ở Việt Nam mà (tớ) chẳng hề thấy mối quan hệ nào được nêu ra cả. Tớ nghiệm ra ở Việt Nam có đồng chí này và một số đồng chí khác như đồng chí Ngoạn, hay những khuôn mặt tương tự, rất sính dùng các thuật ngữ, lý thuyết đao to búa nhớn, thích trích dẫn, giảng giải (ấm ớ) về các nghiên cứu học thuật, sách vở, luận thuyết này kia.
Quay lại với bài của trả lời của đồng chí Phước. Bỏ qua cả đoạn dài sau đó từ “Vừa rồi NHNN thử nghiệm một cơ chế để cho tỷ giá hối đoái ổn định thông qua....” đến “Nhưng dù sao Ngân hàng Nhà nước cũng cần xem lại việc lựa chọn một cách thức để cho tỷ giá bình quân liên ngân hàng cố định trong một thời gian lâu sau đó điều chỉnh lên một mức nhất định, hoặc lựa chọn cách thức tỷ giá trườn bò từ từ”, mà tớ đọc chỉ thấy toát lên ý rằng điều chỉnh 1% là chưa đủ liều lượng, như gợi ý của phóng viên (thế mà vòng vo mãi).

Với câu hỏi có phải biến động tỷ giá là do đầu cơ của ngân hàng hay không, đồng chí Phước quầy quậy lắc đầu phủ nhận, với 2 lý do rằng:
(1) thế là sai luật và sẽ bị NHNN phát hiện, xử lý nghiêm túc.

Ô hay, đồng chí Phước không biết rằng đã có bao nhiêu vụ phạm luật của ngân hàng xảy ra hàng ngày hay sao? Chuyện báo chí nêu về mua bán ngoại tệ vượt trần trong ngân hàng khá công khai, chẳng nhẽ các ngân hàng không nhận thức được đó là phạm luật và sẽ bị phát hiện, xử lý hay sao? Sao họ vẫn cố tình làm? Mà đã như thế thì việc đầu cơ ngoại tệ cũng chỉ là chuyện nhỏ với họ thôi chứ, sợ gì?
(2) trước đây ngân hàng chuyển đổi từ USD ra VND để cho vay, giúp giảm lãi suất VND (là đáng khen), nay tỷ giá căng thẳng mà lãi suất VND liên ngân hàng thấp nên họ phải chuyển đổi ngược lại (nhu cầu rất chính đáng).

Hệ hệ, chí lí nhưng không đúng! Đầu cơ nó khác lắm ạ. Đầu cơ là mua gom USD để đó, đợi giá lên thêm mới bán (có thể là trong ngắn hạn), hiểu đơn giản là vậy. Nó không nhất thiết liên quan đến chuyện chuyển đổi đi, chuyển đổi lại như đồng chí Phước đang thuyết giảng. Nếu ngân hàng cho rằng tỷ giá sẽ còn tăng lên, ví dụ, 2% nữa trong tuần tới, tháng tới, thì chẳng có lý do gì mà họ không huy động VND (kể cả tăng thêm một chút lãi suất để dễ huy động) và mua gom USD rồi giữa trong vòng 1 tuần, 1 tháng nữa (trong thời gian đó họ vẫn cho vay số USD này) rồi sau đó bán lại để thu 2% lãi, trong khi lãi suất phải trả cho khoản VND huy động ban đầu chẳng đáng kể nếu tính theo năm, chưa kể lãi suất ngắn hạn thu được từ cho vay USD.
Tóm lại, tớ đã nói vài lần rồi về chuyện tỷ giá ở Việt Nam, thà cứ lẳng lặng mà làm, đừng có lên tiếng thanh minh thanh nga gì, cam kết với quyết tâm/quyết liệt gì, chỉ có tác dụng ngược mà thôi. Lực bất tòng tâm. Cả trí tuệ và thực lực chỉ có vậy thì đừng mong xoay chuyển được thời cuộc.

21 comments:

  1. Tiến sĩ Trương Văn Phước:

    http://s.cafef.vn/ceo/CEO_00685/truong-van-phuoc.chn

    ReplyDelete
  2. Cám ơn đồng chí. Tớ đã vào đọc và... thôi không bình luận nữa, kẻo mang tiếng nọ kia. Nhưng vẫn rất lấy làm lạ là ở Việt Nam lại có cả cái học vị TS "Tài chính, Lưu thông tiền tệ và Tín dụng". Chả nhẽ khi học Tài chính người ta không học tiền tệ và tín dụng ư? Hoặc, tương tự, khi học về tiền tệ, người ta chẳng biết gì về tài chính và tín dụng sao? Đại loại thế.

    Lại nhớ lại hồi ở Nhật tớ gặp một đồng chí ở CIEM có học vị hình như là Doctor of "World Economy", đương nhiên cũng do Việt Nam cấp. Cho đến tận bây giờ tớ vẫn chẳng hiểu cái đó là cái gì nữa. Ối Việt Nam!

    ReplyDelete
    Replies
    1. Ở VN thì còn nhiều nghịch lý chồng chéo lên nhau. Bần nông tôi ngấy VN đến tận cổ rồi.

      Delete
  3. Có vài vấn đề đề nghị Bác làm rõ, bần nông tôi không hiểu:
    + Thế nào là " cân đối ngoại tệ không xấu đi hoặc tốt" ? Đề nghị Bác cho ví dụ minh họa và giải thích dân dã một tý cho bần nông tôi hiểu.
    + Ở câu đồng chí Hưng nói "không điều chỉnh nhưng kiên quyết ổn định tỷ giá" tôi thấy mâu thuẫn thế này: Ông bảo không điều chỉnh nhưng giữ ổn định tỷ giá thì là ông đã can thiệp điều chỉnh vào rồi có đúng không Bác ? Thuật ngữ "trườn bò tỷ giá" là gì vậy Bác ?
    + Đồng chí Ngoan nói: " cơ chế thả nổi có điều tiết" có nước nào trên thế giới làm chưa hả Tiến Sĩ và nếu có thì cách họ làm như thế nào ? Bần nông tôi thì hiểu nôm na là cơ chế thị trường tự do thì để cho thị trường tự điều tiết và quyết định chứ sao Nhà nước lại can thiệp ? Bần nông tôi đang nói là trên một thị trường tự do như ở Mỹ và Nhật chứ không phải là kinh tế thị trường định hướng như ở VN.
    + Bác có tin gì về cái Hiệp định TPP chưa ? Nếu nó được ký thì có ảnh hưởng tốt hay xấu như thế nào đối với người dân ? Liệu thằng kỹ sư như tôi có việc làm với tụi Mẽo không nhỉ ? Bần nông tôi chán làm việc với người VN rồi. Đề nghị Bác cho ý kiến khách quan nhé !
    Tiến sĩ giải thích rõ cho Bần nông tôi hiểu với nhé,Bần nông tôi chả biết mẹ gì về kinh tế cả nhưng phải quan tâm xem chính phủ nó làm gì với túi tiền của dân.
    Cảm ơn Tiến sĩ !

    ReplyDelete
  4. 1. "Cân đối ngoại tệ" chắc là nói đến cán cân thanh toán quốc gia tổng thể, cho biết chênh lệch ngoại tệ vào ra khỏi nền kinh tế.

    2. "Không điều chỉnh" có nghĩa là (kiên quyết) không phá giá (không tăng tỷ giá lên). Ở nghĩa này thì đúng là kiên quyết ổn định tỷ giá, không có gì sai cả. "Trườn bò tỷ giá" có nghĩa là để tiền đồng mất giá từ từ, thường xuyên, liên tục, chứ không giật cục từng nhát một, ở mức độ lớn.

    3. "Thả nổi có điều tiết" thì khá phổ biến ở nhiều nước. Cách làm thì có nghĩa là không thả nổi hoàn toàn, muốn để thị trường dẫn dắt đến đâu thì đến. Đôi khi NHTW sẽ phải can thiệp để tỷ giá biến động không quá bất lợi theo ý chủ quan của nhà điều hành. Cách NHTW Nhật tăng cung tiền để tăng lạm phát và làm đồng yen suy yếu là một cách can thiệp vào tỷ giá khi thấy tỷ giá hiện tại là bất lợi cho phục hồi kinh tế.

    4. TPP hay bất cứ hiệp định thương mại nào đề có lợi cho một số và có hại cho số còn lại, tùy theo đồng chí đứng vào nhóm lợi ích nào để xem xét. Nhưng nhìn chung thì có lợi hơn cho cả nền kinh tế. Vấn đề là có tận dụng được cơ hội mang lại hay bỏ phí, trong khi phải hy sinh, nhượng bộ những cái khác. TPP chưa chắc đã được ký kết theo đúng hạn định vì những mâu thuẫn và bất đồng giữa các bên và sự xuất hiện mới đây của Nhật.

    Làm việc với tụi nào thì làm, miễn là đồng chí bần nông thu về nhiều lợi ích nhất so với làm cho những thằng khác. Làm với thằng Mẽo mà lương không cao (lắm), lại hùng hục như trâu thì đồng chí bần nông nên về cầy ruộng cho khỏe cái đầu. Nên cái này thì chỉ có đồng chí bần nông mới trả lời được thôi.

    ReplyDelete
    Replies
    1. Nếu Nhật Bản tăng cung tiền thì lạm phát tăng người dân chịu thiệt hả TS ? Sao họ không phản ứng nhỉ ?

      Delete
    2. Đồng chí xem tớ giải thích trong bài "Phá giá và lạm phát: Nhìn từ Nhật Bản", có nói cụ thể hơn tại sao phá giá (do tăng cung tiền) mà lạm phát khó tăng ở Nhật.

      Delete
    3. Hay, hay ! Nôm na bần nông hiểu là giá trị nhập khẩu phải rẻ hơn giá trị xuất khẩu thì không có lạm phát ? TS có nói là lòng tin tiêu dùng của người VN vẫn cao hơn của Nhật à ?
      Thế còn thiểu phát là gì hả TS, nó có phải là giảm phát không: tức là hàng nhiều hơn tiền đúng không ?
      Nói tóm lại làm sao tăng thu nhập giảm chi tiêu thì không có lạm phát ?
      Kinh tế chính trị đau đầu quá !

      Delete
    4. Ờ. Cũng gần như vậy, tiêu nhiều hơn làm ra, in tiền để mà chi tiêu (và tiêu thật, chứ không phải đem tiền đó cất đi) thì se gây lạm phát. Thiểu phát thì ngược lại, tiêu ít hon làm ra, chỉ muốn cât tiền vào tủ, để ngắm.

      Delete
  5. Hị hị,... Cảm ơn Tiến Sĩ. À thì ra bọn TB nó can thiệp là lợi ích cho nền kinh tế chứ không phải lợi ích cho phe nhóm nào, đúng không hả Tiến sĩ ?
    1/ Bần nông tôi làm xây dựng nên ít nhiều cũng lo cho ngành xây dựng có việc làm. Hiện nay BĐS đang chết, Bần nông tôi bị chậm lương 3 tháng rồi đang sắp chết đói đây. Có hóng chuyện phiếm của mấy đồng chí trong cơ quan nhận định: " VN ký được TPP thì doanh nghiệp Mỹ nó đổ vào VN làm ăn, đầu tư nhà máy nên BĐS tăng giá, xây dựng lại có việc làm " nói như thế có đúng không hả Tiến sĩ ?
    2/ Bần nông tôi muốn làm với bọn Mẽo là được mấy lợi ích sau:
    + Được học tiếng Anh
    + Được học cách làm việc, cách quản lý, cách tư duy của người Mẽo.
    + Lương thì thấp một tý nhưng tiền tươi chứ không chậm lương như VN.
    Như vậy có được không hả Tiến sĩ ?

    ReplyDelete
    Replies
    1. Đồng chí mà được bọn Mẽo tuyển vào có nghĩa là đồng chí cũng có những kỹ năng trên, ít ra là ở mức trên trung bình rồi, thế thì cần gì phải làm cho bọn nó mới được những kỹ năng đó?

      Về TPP và bọn Mẽo đầu tư ấy mà, thì có Chúa mới biết được là nó có vào nhiều hay không. Ít ra, đối với ngành dệt may và da giày thì sẽ hầu như không có doanh nghiệp Mẽo nào cả. Trong lĩnh vực xây dung thì tớ e rằng bọn Tầu chứ không phải Mẽo đâu.

      Delete
    2. Vẫn còn kém lắm Tiến sĩ ạ ? Hu... hu.. lại phải làm cho Tầu rồi.

      Delete
  6. Các bác bình hay lắm, mà sáng nay báo Tuổi trẻ cũng bàn về tỉ giá, cũng có vài ý kiến của bác TS Lê Thẩm Dương nữa (bác này bị bác Ngọc bắt giò nhiều lần).

    Ai chẳng biết VN ta có quá nhiều cái bất hợp lý (do các tiến sỹ made in VN tạo ra). Đành phải sống chung với lũ vậy.

    ReplyDelete
    Replies
    1. Tớ có định bắt giò đồng chí này hay bất cứ đồng chí Việt Nam nào làm gì cho phí thời gian đâu, chẳng qua nhiều khi ngứa mắt quá không chịu nổi thôi.

      Delete
  7. Em đang tập tành nghiên cứu về tỉ giá hối đoái, đọc sách của mấy bác GV dịch từ sách nước ngoài có nói về tỉ giá hối đoái hỗn hợp, trong mục "Hệ thống tỷ giá hối đoái hỗn hợp" có phân loại thành:
    -Hệ thống dãi băng tỷ giá
    -Hệ thống tỷ giá con rắn tiền tệ
    -Hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý
    -Chế độ tỷ giá chuẩn tiền tệ

    Nhưng em đọc xong thấy khó hiểu (có lẽ do mới, học dịch chưa thoát ý), còn mù mờ.
    Nhờ bác giải thích lại giúp cho dễ hiểu.

    Thanks bác nhiều!

    ReplyDelete
  8. 1. Hệ thống băng tỷ giá: chắc là dịch từ crawling band, là hệ thống trong đó tỷ giá được phép dao động trong 1 biên độ +/-x% so với tỷ giá chính thức, và tỷ giá chính thức này cũng được điều chỉnh định kỳ.

    2. Hệ thống tỷ giá con rắn: chắc dịch từ tiếng Anh cụm từ crawling peg, là cố định tỷ giá của nội tệ với USD, nhưng điều chỉnh tỷ giá định kỳ.

    3. Thả nổi có quản lý: cho phép biến động theo thị trưởng trong nhiều lúc nhưng sẽ bị điều chỉnh theo ý muốn chủ quan của NHTW trong một số lúc.

    4. Tỷ giá chuẩn tiền tệ: tớ chịu không đoán được là dịch từ cái gì trong tiếng Anh. Có thể là từ currency board.

    ReplyDelete
  9. Em cảm ơn bác đã trả lời, nhưng em vẫn còn mơ hồ lắm. Ý em là bác dành chút thời gian giải thích và minh họa (ví dụ) cụ thể hơn để cho em thông, chứ em IQ không cao đâu.

    Mấy thuật ngữ tiếng anh ở trên hình như bác đoán đúng rồi đó.

    Hy vọng không làm phiền bác. Dù sao em cũng rất cảm ơn bác nhiều!

    ReplyDelete
    Replies
    1. Tớ giải thích ở đây không hay bằng đồng chí Google đâu. Với lại, tớ nghĩ là đọc cái khái niệm trên thì cũng đủ hình dung chúng là cái gì rồi mà. Cái 1 và 2 về thực chất là neo tỷ giá nhưng không hoàn toàn chắc chắn, vừa để không xảy ra những cú sốc tỷ giá tạo tâm lý tiêu cực và hoảng loan, vừa vẫn để cho NHTW một số room để cựa quậy, theo chủ ý.

      Delete
    2. Thật ra, em đọc trong sách dịch do người dịch không thực tế nên làm em khó hiểu thậm chí hiểu không đúng. Mà google thì chưa chắc, em nghĩ bác am hiểu nên hỏi cho nó thực tế hơn. Bác nói vậy em cũng pó tay, đành tự ngâm cứu lại từ từ.

      Em lại làm phiền bác rồi. Bác đừng giận nha!

      Delete
    3. Tớ nói thật mà. Tớ không thuộc bài, tầm chương trích cú, không nhớ nổi ai với ai, cái gì với cái gì đâu, nên đồng chí có hỏi tớ thì tớ chỉ nói nôm na, đại khái được đến thế thôi. Vả lại, như tớ đã trả lời, khái niệm chắc cũng chỉ dừng lại ở mức thế thôi, chứ nếu nói thêm nữa thì có vài quyển sách cũng chưa đủ.

      Tớ cũng không có giận/phiền gì bạn đọc cả, đồng chí cứ tự nhiên nhé.

      Delete
    4. À nói thêm rằng tớ cũng bị hổng vốn tiếng Việt chuyên ngành dành cho các thuật ngữ dịch từ tiếng Anh ra. Đôi lúc tớ chỉ biết khái niệm bằng tiếng Anh và không biết từ tương đương trong tiếng Việt là gì, nên mới không hiểu/dịch nổi mấy từ trên ngược lại ra tiếng Anh.

      Delete

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).