Thursday 29 August 2013

Bàn tròn chuyên gia: Tỷ giá và chiếc tăm tre (Bài đăng trên TBKTSG 29/8/2013, nhiều tác giả)




Nguyên văn phát biểu của tớ (viết chung chung khi chưa biết ý kiến của các tác giả khác thế nào)

Ổn định tỷ giá không luôn là một thành tích

Với vấn đề liên quan đến tỷ giá mà TBKTSG đặt ra, có thể thấy rõ ràng rằng tỷ giá đồng đô la biến động (tăng lên) rất ít trong khi lạm phát của Việt Nam tăng mạnh so với Mỹ đã gây phương hại thế nào đến sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam nói riêng và rộng hơn là tăng trưởng kinh tế. Trong kinh tế học, khi tỷ giá danh nghĩa của bản tệ không điều chỉnh kịp với mức chênh lệch lạm phát trong và ngoài nước, lúc đó bản tệ được nói là đã lên giá thực (real appreciation) so với ngoại tệ, và hậu quả trực tiếp là làm giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế bản địa dẫn đến tăng nhập siêu và kết cục là giảm tăng trưởng kinh tế.

Có lẽ vấn đề cần bàn ở đây là tại sao trước một điều hiển nhiên như vậy nhưng người ta vẫn e ngại chuyện phá giá bản tệ (tăng tỷ giá danh nghĩa) ở mức độ ít ra là bằng một phần của chênh lệch lạm phát để khôi phục lại xuất khẩu, giảm nhập khẩu nhằm giảm nhập siêu? Thậm chí, chuyện giữ cho tỷ giá ổn định bất chấp lạm phát đã tăng thế nào còn luôn được coi là một thành công trong chính sách điều hành kinh tế vĩ mô ở Việt Nam.

Thường thì điều này xuất phát từ những ngộ nhận và nhận thức phiến diện rằng phá giá sẽ không giúp gì cho xuất khẩu mà chỉ làm tăng lạm phát khi giá nhập khẩu nguyên nhiên liệu đầu vào tăng lên. Rồi là phá giá thì sẽ làm nhà đầu tư nước ngoài chán nản bỏ đi, còn gánh nặng nợ nước ngoài thì tăng lên v.v... Mặc dù là ngộ nhận và phiến diện (xin xem các bài viết của tác giả về tỷ giá trên TBKTSG) nhưng tiếc là nhiều người vẫn mắc phải và đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc hoạch định và điều hành chính sách vĩ mô ở Việt Nam.

Qua hội nghị bàn tròn này với TBKTSG, tôi tin và hy vọng rằng các vị chuyên gia ở đây cũng có chung một quan điểm với tôi, từ đó cùng kiến nghị lên Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực thi một chính sách tỷ giá thân thiện với xuất khẩu hơn, cũng chính là một chính sách kích thích tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô (thông qua giảm nhập siêu).

Ngược lại, tôi cũng rất mong các vị cùng bày tỏ tiếng nói quan ngại với chính sách tỷ giá hiện tại của NHNN khi chủ trương kìm tỷ giá trong khi tiếp tục tăng cung tiền để tăng cầu cho nền kinh tế. Sự “ổn định” của tỷ giá như hiện nay nên được nhìn nhận là một điều có hại hơn là một thành công chính sách, và cần được hiểu là một sự “ổn định” không bền vững và trong ngắn hạn, để rồi kết cục là một sự phá giá mạnh không thể tránh được, có thể châm ngòi cho một cơn hoảng loạn, mất kiểm soát.


Bình luận của tớ:
1.       Các lập luận của đồng chí Thơ và Tuấn có một lỗi sai cơ bản. Mặc dù (hình như) cũng đồng ý rằng tỷ giá hiện tại là bất lợi cho sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, tức là đồng ý rằng tỷ giá là một trong những nhân tố có tác động đến tính cạnh tranh của hàng hóa nội địa, nhưng mặt khác, thay vì cho ý kiến có đồng ý điều chỉnh tỷ giá hay không thì họ lại quay sang bàn đến những vấn đề khác, nào là gốc rễ thực sự của việc cạnh tranh yếu, nào là khác biệt về tính cạnh tranh v.v.. Nói tóm lại là lạc đề!
 
Để dễ hình dung, tớ đưa ví dụ thế này. Một bệnh nhân bị bệnh tim mạch. Mặc dù bác sĩ điều trị cũng đồng ý với các bác sĩ hội chẩn khác rằng bệnh nhân này bị hẹp động mạch gì gì đó (ví dụ, do mỡ máu) cần phải nong động mạch ra thì mới có nguy cơ sống sót. Nhưng thay vì (kết hợp) điều trị theo cách này, ông ta chỉ chăm chú vào điều trị nguồn gốc của bệnh, tức là chế độ ăn uống, sinh hoạt không lành mạnh của bệnh nhân. Đương nhiên là cần cầu trời cho bệnh nhân này đủ dai sức để sống và chờ cho việc điều chỉnh chế độ ăn kiêng và sinh hoạt phát huy hiệu quả (không tích tụ thêm các cục xơ vữa nữa). Nhưng cho dù có sống được thì mạch máu của bệnh nhân vẫn tắc như cũ, và do đó dễ gây đột quỵ, vì vẫn hẹp do không được nong!
 
2.       Vấn đề mà TBKTSG đặt ra rất đơn giản và dễ hiểu. Họ hỏi là có nên phá giá không, chứ không hỏi là có cần phải phá giá bao nhiêu, phá giá mạnh không. Vì thế, lẽ ra câu trả lời tất yếu chỉ cần/đương nhiên là: Cần phải phá giá, dù ít, dù nhiều, chứ không thể tuyên bố như NHNN nói là không “điều chỉnh”. Tất nhiên cách thức và lộ trình phá giá như thế nào là chuyện khác, như đã được đồng chí Giang bàn đến và tớ cũng nói nhiều lần rồi (chẳng hạn cứ lẳng lặng mà làm, thỉnh thoảng làm bụp một phát, tùy theo mức độ cảm thấy phù hợp). Đằng này các đồng chí Thơ và Tuấn lại quay sang phản đối rằng phá giá/điều chỉnh mạnh là không phù hợp. Tức là, một lần nữa tớ nhấn mạnh, lại lạc đề!
 
3.       Như tớ đã góp ý với TBKTSG đặt lại câu hỏi thứ hai, như trong bài gốc, khi mọi thứ vẫn như nguyên mà tỷ giá vẫn cố định (tức VND lên giá thực so với USD) thì rõ ràng là hàng hóa Việt Nam càng mất tính cạnh tranh và vì thế càng phải nên phá giá chứ? Đây là vấn đề có tính logic mà các đồng chí Thơ và Tuấn đang vi phạm trong lập luận của mình, khi họ chuyển vấn đề từ việc có nên phá giá không sang việc phân tích yếu tố nào mới là yếu tố chính ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, hoặc lặp lại vấn đề không nên phá giá mạnh (như đồng chí Tuấn ví dụ là 13%). Để tăng phần thuyết phục, họ đưa ra những lập luận mà xét cho cùng vừa rắm rối, và quan trọng hơn, vừa ... lạc đề!
 
4.       Đồng chí Giang, mặc dù như tớ vẫn thường hoan nghênh, nhất là trong bài này khi cùng đưa ra ý kiến khá giống với tớ, mắc một sai lầm nhỏ, khi cho rằng phá giá sẽ làm tăng gánh nặng nợ Nhà nước. Đây là vấn đề mà tớ đã phản biện trên TBKTSG mấy tháng trước đây (đại loại, nếu không phá giá thì nợ Nhà nước – tính bằng VND - có thể không tăng lên, nhưng rốt cuộc quỹ dự trữ ngoại hối của NHNN lại hao hụt tương ứng để kìm giữ tỷ giá. Tức là tiền từ chui từ lỗ hổng nọ ra lỗ hổng kia trong cùng một cái quần quốc gia).
 
5.       Còn về ý kiến của đồng chí Phạm Thế Anh, tuy có phân tích theo một hướng hơi khác một chút (chỉ số giá sản xuất), nhưng có thể thấy rõ ràng nó cũng phạm phải những sai lầm giống của đồng chí Thơ và Tuấn (tập trung vào tìm căn nguyên của tính cạnh tranh yếu, bỏ qua việc cần thiết phải phá giá, như là một trong những biện pháp cần làm).
 
Và qua bài này, mới thấy, như tớ đã phát biểu trong bài, rằng sự ngộ nhận và hiểu một chiều về tỷ giá đang ngự trị trong đầu của rất, rất nhiều người, kể cả giới học giả được coi là tinh hoa (nhất) của Việt Nam như trong bài này (bạn đọc nào còn nghi ngờ nhận định của tớ thì tìm đọc lại các bài phản biện về tỷ giá của tớ trên báo chí và post lại trên blog này), và chúng đã rất có ảnh hưởng (tiêu cực) đến việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ và tỷ giá ở Việt Nam. Và cứ nhìn lực lượng tương quan giữa phe phản đối và phe ủng hộ tỷ giá trong bài này thì sẽ dễ hiểu, dễ thấy tại sao NHNN lại “kiên định” với chuyện không phá giá đến thế. Có 5 người tham gia trong bài thì quá bán, 3 người, phản đối phá giá (mạnh); chỉ còn mỗi tớ và đồng chí Giang là luôn kiên định với việc phá giá (tất nhiên phá giá ở mức bao nhiêu là chuyện bàn sau).
 
 
Các comment trên của tớ có thể gây khó chịu cho ai đó, nên rất mong mỏi các đồng chí không tán thành hãy vào đây tranh luận ra ngô ra khoai với tớ.

Wednesday 21 August 2013

Lại chuyện phản đối Mỹ áp thuế chống trợ cấp, phá giá

Tớ đã vài lần viết về chuyện cứ mỗi khi Mỹ áp dụng thuế chống phá giá, chống trợ cấp lên một mặt hàng nào đó của Việt Nam, từ dệt may, giày dép, thủy sản, đến thép là y như rằng một dàn đồng ca cất lên từ phía Việt Nam cãi bay cãi biến rằng Việt Nam không trợ cấp, ưu đãi cho những ngành này, nào là Việt Nam có lợi thế tự nhiên trong sản xuất những mặt hàng này làm cho giá thành và giá bán rất cạnh tranh, nào là v.v...

Chỉ cần google với cụm từ khóa, chẳng hạn như, "cho vay ưu đãi" là lập tức ra một loạt tin tức về chính sách cho vay ưu đãi với một số ngành nghề của Việt Nam thuộc diện bị kiện ở Mỹ như thế này:

http://dangcongsan.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30701&cn_id=599354
http://portal.tiengiang.gov.vn/wps/wcm/connect/Web+Content/portaltiengiang/Menu/tintuc/kinhte/Nuoi+tom+nuoc+lo+2013+Giam+dien+tich,+tang+san+luong
http://www.baophuyen.com.vn/Kinh-te-82/7706405705905605672
http://xttm.mard.gov.vn/Site/vi-vn/171/288/316/71648/Default.aspx
http://ndhmoney.vn/web/guest/s26/-/journal_content/hang-ngan-ty-dong-von-vay-uu-dai-di-ve-dau
http://tepbac.com/news/full/6506/Giai-ngan-kip-thoi-nguon-von-uu-dai.htm
http://www.tiengiang.gov.vn/xemtin.asp?cap=3&id=22068&idcha=10054

Chưa kể, còn rất nhiều chương trình cho vay ưu đãi của các ngân hàng thương mại mà người cấp vốn cuối cùng lại là nơi mà ai cũng biết là ở đâu.

Với những thông tin công khai thế này, thậm chí còn được giật tít như muốn nhấn mạnh rằng chính phủ quyết hỗ trợ các ngành nghề này, không bỏ rơi ai, thể hiện bản chất tốt đẹp của kinh tế thị trường định hướng XHCN v.v... mà vẫn cãi bay cãi biến người ta (Mỹ) thì có khác gì là cãi chày cãi cối?

Cũng có người tỉnh táo hơn, khuyến nghị rằng nếu có làm thì làm kheo khéo thôi, đừng công khai, đừng dùng từ "hỗ trợ" với "ưu đãi" để người ta có cớ mà hành (bài đăng trên báo hẳn hoi mà tớ quên mất là ở báo nào rồi). Nghe cũng có lý đấy, nhưng đây chỉ là cái lý của kẻ giỏi biến báo, luồn lách. Cung cách làm ăn không minh bạch, không đàng hoàng này rồi thế nào cũng sẽ bị lộ và phải trả giá.

Cũng nhân đây sẽ thấy thêm về mặt trái của cung cách hoạch định và thực thi chính sách kinh tế xã hội ở Việt Nam. Bất chấp các nguyên lý của thị trường, dồn các nguồn lực khan hiếm cho một số ngành để đổi lấy những thành tích nào là xóa đói giảm nghèo nào là xuất khẩu hàng đầu thế giới v.v... Lợi đâu chưa thấy nhưng chỉ thấy những là dư cung, giá hạ, trắng tay, xóa nợ, khoanh nợ, và tệ hơn là tư cách "nền kinh tế thị trường" mãi mà chẳng được công nhận.

Thôi thì nhân lúc người ta vạch mặt chỉ tên, hãy dũng cảm chấp nhận sự thật và tìm cách đàng hoàng hơn mà làm cho có hậu.





Thursday 15 August 2013

TPP: Nhìn từ hai phía Việt – Mỹ (Bài đăng trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn 15/8/2013, bản gốc)

TPP - Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương đang được đàm phán bởi 12 nước thành viên (với Nhật mới tham gia đàm phán đầu năm nay) ở 2 bên bờ Thái Bình Dương, trong đó có Mỹ và Việt Nam. Trải qua 18 vòng đàm phán, TPP được kỳ vọng sẽ được thông qua bởi các nước thành viên vào tháng 10 năm nay.

Bài viết này dựa trên quan sát và ghi chép của tác giả thu được qua một số cuộc viếng thăm các cơ quan Việt Nam và Mỹ thường trú tại Việt Nam gần đây, nhằm cung cấp một số quan điểm trái chiều có liên quan đến TPP nhìn từ hai phía để giúp bạn đọc có cái nhìn toàn diện hơn về cuộc đàm phán TPP giữa Mỹ và Việt Nam (Lưu ý, bài viết không lặp lại mô tả chi tiết TPP).
Nhìn từ phía Việt Nam, một quan điểm phổ biến là Mỹ cần Việt Nam và tìm cách lôi kéo Việt Nam vào cuộc chơi TPP mà Mỹ cầm trịch (không có Trung Quốc và nước này cũng không được Mỹ mời vào TPP). Vào TPP, Mỹ hy vọng Việt Nam sẽ thành một nước có thế và lực mạnh hơn với kinh tế phát triển nhờ TPP để thoát khỏi vòng ảnh hưởng cũng như kìm hãm sự lan tỏa ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực, cốt có lợi cho Mỹ. Để đổi lại động cơ chính trị này, Mỹ sẵn sàng thỏa hiệp và chịu ép với Việt Nam trong một số lĩnh vực kinh tế và xã hội, như mở cửa thị trường Mỹ cho hàng xuất khẩu của Việt Nam...

Tuy tin như vậy, nhưng phía Việt Nam vẫn giữ một con mắt nghi ngờ, quan ngại với lập trường mà họ cho là “tiêu chuẩn kép” của Mỹ. Theo họ, một mặt Mỹ muốn, buộc các nước thành viên khác mở cửa cho hàng hóa và dịch vụ của Mỹ xâm nhập nhưng mặt khác Mỹ lại tìm cách gây khó dễ, đóng cửa với hàng hóa và dịch vụ của các nước thành viên đối tác của mình, đặc biệt là một nước đang phát triển như Việt Nam với một thế yếu mà Mỹ đã và sẽ lợi dụng triệt để. Những biện pháp gây trở ngại này của Mỹ thường sẽ là quy tắc xuất sứ sợi (Yarn Forward), danh sách loại trừ, những vấn đề liên quan đến nhân quyền, công đoàn, môi trường, tôn giáo và chuyển giao công nghệ, và một số cản trở phi thuế quan khác. Nhận định này đã hiện diện trong các vòng đàm phán với Việt Nam và là một trong những trở ngại chính cho việc sớm đi đến thỏa thuận.
Ngược lại, theo quan điểm của phía Mỹ  thì thực ra mức độ quan tâm của Mỹ đến Việt Nam không lớn như phía Việt Nam nghĩ. Đúng là Mỹ có ý muốn Việt Nam tham gia TPP nhưng điều này chỉ đơn thuần là Mỹ muốn nhìn thấy một Việt Nam phát triển ổn định về chính trị và kinh tế.  Thậm chí họ còn cho rằng nếu Mỹ buông Việt Nam thì Trung Quốc cũng chẳng thu được lợi ích đáng kể nếu lôi kéo được Việt Nam rơi vào lãnh địa của mình, nếu xét đến sự khác biệt quá lớn về quy mô kinh tế, lãnh thổ và dân số của Trung Quốc và Việt Nam và Trung Quốc cũng chẳng vì thế mà mạnh hơn lên nhiều.

Sự quan tâm của Mỹ đến Việt Nam càng suy giảm hơn với sự tham gia của Nhật vì Nhật là một đối tác kinh tế lớn của Mỹ và giữa 2 nước này chưa có một hiệp định tự do thương mại song phương (TPP cũng đóng vai trò như một hiệp định tự do thương mại song phương). Vì thế Mỹ phải tập trung nỗ lực hơn vào cuộc đàm phán với Nhật thay vì Việt Nam. Nội dung và thỏa thuận đàm phán với Nhật cũng sẽ là tiêu chuẩn để Mỹ áp dụng trong đàm phán với Việt Nam nên cuộc đàm phán Việt Mỹ sẽ càng trở nên phức tạp và rắc rối hơn, và cũng như vậy là tương lai gia nhập TPP của Việt Nam.
Một điểm đáng lưu ý là Chính phủ Mỹ không có nhiều quyền kiểm soát trong các thỏa thuận TPP với Việt Nam như với hiệp định tự do thương mại song phương Việt – Mỹ, không chỉ vì TPP còn phải trình Nghị viện Mỹ, nơi bị chi phối nặng nề bởi các nhóm lợi ích (trong đó có các công ty dệt may) và lực lượng chính trị, phê chuẩn, mà còn vì Chính phủ Mỹ phải tôn trọng các hiệp định tự do thương mại song phương với các nước khác như Mexico và Peru, sao cho tiêu chuẩn của các thỏa thuận với Việt Nam không thấp hơn tiêu chuẩn ký kết với, hoặc làm tổn hại đến các nước này.

Phía Mỹ còn cho rằng phía Việt Nam có quá nhiều đòi hỏi không chính đáng làm cho phía Mỹ ngán ngẩm, vì Việt Nam coi TPP cũng là một thỏa thuận song phương, mà thực ra không phải là vậy. Nguyên nhân cho vấn đề này, theo phía Mỹ, có thể là sự thiếu hiểu biết về bản chất của TPP của phía Việt Nam.
Thêm một thực tế là Cơ quan đại diện thương mại Mỹ đã có một người lãnh đạo mới và vị này thì rất ít thông cảm với Việt Nam, thay vào đó rất có cảm tình với Nhật. Ngoài ra, Cơ quan này cũng đang phải đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Đại Tây Dương (TAP) nên sự quan tâm cho cuộc đàm phán với Việt Nam càng trở nên ít đi. Mỹ cũng khó mà thỏa hiệp được với Việt Nam về điều khoản quan trọng nhất trong TPP là quy định Yarn Forward để có thể xâm hại đến quyền lợi của các đối tác của Mỹ ở châu Âu, Phi và Trung Đông trong một chuỗi cung ứng sản phẩm tạo ra nhiều triệu công ăn việc làm trong ngành dệt may.

Tóm lại, giữa 2 bên đã có sự khác biệt khá lớn về quan điểm và nhận định cũng như các mối quan tâm về đối phương. Cộng thêm với sự ràng buộc chính trị và xã hội trong nước, các bất đồng và có cả nghi kị, kèm theo sự gia nhập mới đây của Nhật làm cho quá trình đàm phán TPP trở nên phức tạp và khó khăn hơn. Vì thế nhiều nhà quan sát nghi ngờ khả năng cán đích hoàn tất đàm phán tháng 10 tới đây, mặc dù các nhà lãnh đạo khẳng định quyết tâm về đích đúng hạn.

Wednesday 14 August 2013

2 comment của bạn đọc

Hôm nay tớ nhận được 2 comment. 1 gửi trực tiếp đến email của tớ (mà tớ mạn phép tác giả post lại ở phần dưới đây), còn comment thứ 2 thì để lại trên blog này, trong entry: "Cần hoan nghênh đồng chí TS Lê Hồng Giang" với nhõn mỗi 2 chữ "Thang dien"!

Về comment thứ 2 này, xin nói với đồng chí tác giả của nó, chắc không điên bằng tớ, rằng tớ không bận lòng lắm (và tớ không xóa comment này, cũng như bất cứ loại comment nào khác), và rất mong đồng chí này đừng lạc vào đây một lần nữa kẻo lại tẩu hỏa nhập ma như tớ thì khốn cho cái đời đồng chí lắm. Đọc mà không tiêu hóa được, lại thêm uất ức quá sẽ sinh bệnh nặng.

Về comment thứ nhất, nguyên văn như sau (hơi dài):

"Em chào thầy
Trước khi vào chủ đề chính, em muốn chia sẻ với anh một chút cảm nhận của em như thế này ạ. Thực sự thì em cũng mới biết đến blog của anh thông qua một vài đường link nào đó mà em cũng không thể nhớ được. Và comment đầu tiên em đọc của anh có nội dung ngang tàng "nếu giỏi bằng tớ...", comment này làm em không khỏi tò mò về khả năng, kiến thức và tư duy của anh. Tuy nhiên càng đọc những bài của anh (gần như đêm nào trước khi ngủ em cũng đọc), em càng ngưỡng mộ anh. Quả thật phân tích của anh và anh Lê Hồng Giang sâu sắc và đứng trên một lập trường nhất định (điều quan trọng nhất của người làm khoa học). Nhưng em có cảm giác khi đọc các bài viết của anh, anh không phục gần như tất cả những nhà khoa học ở Việt Nam vậy? Không biết cảm giác của em là đúng hay sai, gần đây anh có entry chỉ trích một nhà giáo là thầy của em, thực sự đọc đến đoạn đó em không khỏi ấm ức, bực tức...vì a động chạm đến người thầy của em. Ngay lúc đó em cũng có ý comment luôn nhưng do entry quá lâu rùi, bởi vậy em cũng không viết nữa. Em chỉ muốn hỏi anh một việc: "Kiến thức là bao la, các chuyên gia kinh tế bản thân họ cũng khó có thể tường mình mọi vấn đề được. Vậy thì tại sao chỉ một hoặc hai nhận xét có phần chưa chính xác thì anh có thể kết luận đồng chỉ này thế nọ, đồng chí kia thế khác". Đến Gia Cát Lượng vẫn còn có lúc tính toán sai mà anh.
Đây là chuyện bên lề thôi ạ, còn mục đích chính em viết mail cho anh là để bái sư anh ạ! Em biết anh chưa biết em là ai, là thằng nào, danh phận ra sao, trình độ như thế nào...Nhưng em muốn bái sư anh để có thể học hỏi được từ anh, từ cách tư duy, cách liên hệ vấn đề, cách giải quyết vấn đề...Trong thời gian học đại học, em cũng đã từng nghĩ rằng không biết bao giờ mình có thể nhìn một chỉ số nào đó thay đổi, nghe một bản tin kinh tế nào đó...mà đoán biết được điều gì đang xảy ra và sắp tới sẽ diễn biến như thế nào. Trong 4 năm ấy, em vẫn chưa thực hiện được mong ước đó và cũng chưa tìm ra một tác giả nào, một người nào có những phân tích bóc tách vấn đề sâu sắc như anh và anh Giang. Em viết mail này chỉ hy vọng anh có thể chia sẻ con đường để anh đạt tới cảnh giới này và em mong rằng anh có thể dìu dắt em bằng 1/2 anh thôi ạ "em tự lượng sức mình". :) Em rất muốn đóng góp gì đó anh ạ! Rất mong anh vén lối mở đường cho em tới đỉnh cao của tri thức. Vậy nên em xin phép anh cho em gọi anh bằng thầy ạ!
Hy vọng sớm nhận được tin tốt lành từ Thầy!
Em cám ơn thầy!
Trân trong ./."
 
Chắc có rất nhiều đồng chí bạn đọc ở đây có cùng thái độ ngứa mắt với tớ như thế này nên tớ muốn lặp lại ở đây câu trả lời qua thư với tác giả để các đồng chí đỡ ngứa mắt:
 
1. Về chuyện tớ không phục một nhà khoa học nào ở VN, thì như tác giả cũng đã viết rằng "chưa tìm ra một tác giả nào, một người nào có những phân tích bóc tách vấn đề sâu sắc như anh và anh Giang" nên câu trả lời đã rõ.
 
2. Tớ nói "khi nào bằng tớ" (chứ không phải "khi nào giỏi bằng tớ") thì chỉ cần người nói nói ra một vài câu là có thể biết người đó thuộc dạng nào một cách tương đối chính xác. Vì thế đồng chí thầy của tác giả nói một vài câu sai lầm là đủ để tớ kết luận như đã kết luận, còn đúng hay sai thì tự tác giả biết (hoặc sau này sẽ biết).
 
3. Con đường đạt đến "cảnh giới" thì một phần lớn là do năng khiếu bẩm sinh cộng với đọc và học và trải nghiệm thực tế, một phần khác là thái độ hoài nghi và có cái nhìn phản biện mọi thứ, kể cả những cái tưởng là chân lý, kể cả với những ai là thần tượng. Với nhiều yếu tố này nên tớ nghĩ là số người được gọi là đạt đến "cảnh giới" không nhiều, nếu không muốn nói là rất it, và tớ cũng không dám nhận là như vậy, mặc dù tớ tự nhận là có một số yếu tố trên, đặc biệt là thái độ hoài nghi, phản biện, không coi ai là thần tượng (để khỏi phải hoài nghi) hết.
 
 
 


Wednesday 7 August 2013

TPP và cơ hội cho ngành dệt may – nhìn từ các doanh nghiệp Việt Nam (Bản gốc của bài đăng trên Tuổi trẻ)

Một phiên bản của bài này xuất hiện dưới dạng bài phỏng vấn trên Tuổi trẻ, 8/8/2013
http://tuoitre.vn/Kinh-te/562578/nganh-det-may-khong-de-huong-loi-tu-tpp.html

--------------------------------------------
Bài viết này dựa trên tư liệu tác giả đã thu thập được qua các cuộc tiếp xúc và phỏng vấn với một số doanh nghiệp dệt may hàng đầu ở Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương và Hà Nội, cũng như một số cơ quan hữu quan của Việt Nam và nước ngoài thường trú tại Việt Nam mới đây, trong bối cảnh Việt Nam đang đàm phán với các nước thành viên khác để hoàn tất Hiệp định đối tác Thái Bình Dương (TPP) vào tháng 10 này như mục tiêu mà các nhà lãnh đạo đã đặt ra.
Ngành dệt may là một trong số những ngành xuất khẩu mũi nhọn ở Việt Nam, với doanh số hơn 17 tỷ đô la Mỹ và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đạt 7,5% trong năm 2012 (so với năm 2011). Xuất khẩu hàng dệt may hiện đã chiếm hơn 15% tổng doanh số xuất khẩu của cả nước.

Doanh số và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam được kỳ vọng sẽ còn tăng mạnh hơn nữa khi TPP được ký kết kèm theo đó là mức thuế xuất khẩu của hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Mỹ (thị trường xuất khẩu chủ chốt chiếm đến 44% tổng xuất khẩu dệt may của Việt Nam năm 2012) được hạ từ mức trung bình khoảng 17% xuống 0%.
Hiện nay, có một số dự báo của những cơ quan hữu quan cho thấy Việt Nam sẽ tăng được doanh thu xuất khẩu hàng dệt may lên tới 30 tỷ đô la vào năm 2025 trong khuôn khổ TPP, tức là 70% lớn hơn so với khi Việt Nam đứng ngoài TPP.

Tuy nhiên, những dự báo trên có thể đã dựa trên những giả định tĩnh, khá đơn giản rằng năng lực sản xuất dệt may của Việt Nam sẽ tăng lên mạnh mẽ và nhanh chóng, theo đúng quy hoạch và chiến lược phát triển mà các cơ quan hữu trách vạch ra, cũng như đại bộ phận hàng dệt may của Việt Nam sẽ được hưởng thuế suất 0% khi xuất khẩu vào Mỹ và các nước thành viên TPP khác.
Trên thực tế, có rất nhiều trở ngại cho Việt Nam chạm tới được mục tiêu này. Thứ nhất, gánh nặng về thủ tục hành chính và chi phí như lưu giữ đầy đủ sổ sách chứng từ, thời gian và tốc độ giao hàng đến khách hàng v.v... có thể lớn hơn cả phần thuế được cắt giảm trong TPP, làm nản lòng các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may và các công ty thương mại trung gian, và do đó họ thà chấp nhận nộp thuế nhập khẩu để đưa được hàng của mình đến thị trường tiêu thụ nhanh nhất và đỡ phiền phức. Trở ngại này cũng có thể làm nản lòng một số doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam trong việc đẩy mạnh xuất khẩu thêm nữa, và do đó tổng doanh số xuất khẩu của Việt Nam không nhất thiết sẽ tăng mạnh như dự tính.

Trở ngại thứ hai, trở ngại chính, đến từ quy tắc về nguồn gốc sợi (yarn forward) trong khuôn khổ TPP. Theo đó, để được hưởng thuế nhập khẩu 0%, hàng dệt may của Việt Nam phải sử dụng sợi và các sản phẩm từ sợi có xuất sứ từ các nước thành viên TPP. Năng lực sản xuất sợi của Việt Nam và các nước thành viên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của phân khúc hạ nguồn (dệt may) nên vẫn sẽ còn phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu từ các nước ngoài TPP, điển hình là Trung Quốc và một số nước khác trong khu vực châu Á. Ngoài ra, với đặc thù thường xuyên thay đổi mẫu mã, số lượng, chủng loại, cũng như vật liệu hàng dệt may theo năm hoặc theo mùa, việc luôn đáp ứng được quy tắc xuất sứ sợi để hưởng thuế suất 0% là không đơn giản và không phải không tốn kém. Do đó, nhiều doanh nghiệp buộc phải duy trì một tỷ lệ nhất định vải vóc và nguyên vật liệu có nguồn gốc từ các nước ngoài TPP, và tức là vẫn phải chịu thuế suất như hiện nay. Thực tế tham gia Hiệp định đối tác kinh tế với Nhật (EPA) trong đó có quy tắc nguồn gốc vải (fabric forward) vốn cởi mở hơn quy tắc nguồn gốc sợi mà xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Nhật không tăng mạnh cho thấy khả năng tương tự xảy ra cho Việt Nam trong TPP.
Trở ngại thứ ba, cũng liên quan đến quy tắc nguồn gốc sợi, là năng lực sản xuất bị hạn chế của Việt Nam, khó đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu tăng cao trong khuôn khổ TPP. Những yếu tố tiêu cực như năng lực quản lý yếu kém, thiếu hụt lao động (kể cả lao động phổ thông), năng suất lao động thấp, thiếu vốn đầu tư và công nghệ, và môi trường kinh doanh không thân thiện với nhà đầu tư, và đặc biệt là thủ tục hải quan hay bị kêu là nhũng nhiễu và mất thời gian, là một vài trong số những yếu tố kìm hãm việc tăng mạnh năng lực sản xuất ở Việt Nam. Những trở ngại này không phải chỉ là trên lý thuyết mà là ý kiến của đa phần các công ty dệt may xuất phát từ thực tế hoạt động hàng ngày cho biết.

Người ta hy vọng rằng với thời gian ân hạn 3 năm (như phía Mỹ đề xuất, hoặc 5 năm như phía Việt Nam đề xuất) cho việc áp dụng quy tắc nguồn gốc sợi là đủ để cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào các ngành thượng nguồn như kéo sợi, dệt, nhuộm, hoàn tất đáp ứng đủ nhu cầu vải đầu vào cho ngành may. Nhưng có vị tổng giám đốc một công ty dệt may lớn sau khi bộc lộ sự bất mãn với các con số kế hoạch và mục tiêu của các cơ quan hữu trách vì cho rằng họ quan liêu, xa rời thực tế,  ông cho biết khoảng thời gian này thậm chí may ra chỉ đủ để xây một nhà máy chưa chưa nói gì đến cả một chuỗi, một loạt các nhà máy theo nhu cầu, xuất phát từ kinh nghiệm không mấy hay ho mà doanh nghiệp ông đã phải nếm trải khi đầu tư vào một dự án mở rộng năng lực sản xuất của mình cách đây 2 năm mà vẫn chưa xin được giấy phép xây dựng, mặc dù mọi thứ đã chuẩn bị đầy đủ, kể cả đã phải “đi đêm” để “chạy” giấy tờ.
Về khả năng hạn chế trong việc tăng năng lực sản xuất ở Việt Nam, còn lưu ý thêm một số trở ngại lớn nữa là đất đai và môi trường. Nhiều doanh nghiệp cho biết không dễ xin được đất đai để làm nhà xưởng vì các địa phương coi ngành may mặc là ngành có giá trị gia tăng thấp, không hấp dẫn và vì thế các chính quyền địa phương không mấy mặn mà cấp đất cho doanh nghiệp làm nhà xưởng. Các doanh nghiệp cũng cho biết nếu có xin được đất thì họ cũng còn ngại ngần vì chi phí đền bù, giải tỏa nhiều khi bằng mấy năm lợi nhuận thu được của các doanh nghiệp này.

Trong khi đó, vấn đề bảo vệ môi trường đã được các địa phương đặc biệt đề cao hiện nay. Với những phân khúc sản xuất gây ô nhiễm môi trường như nhuộm, rất khó để các doanh nghiệp xin được giấy phép hoạt động tại các địa phương. Mà theo một số nhà quản lý trong ngành thì phân khúc nhuộm chính là nút thắt cổ chai cho toàn bộ ngành dệt may của Việt Nam, quyết định đến năng lực sản xuất của cả ngành này.
Trên đây mới chỉ là những khó khăn và trở ngại về phía nhà xuất khẩu Việt Nam. Ý kiến chung từ các cuộc gặp cho thấy khả năng Mỹ (và các nước nhập khẩu hàng dệt may khác của Việt Nam) không dễ dàng ngồi nhìn hàng dệt may của Việt Nam tung hoành trên thị trường của mình, mặc dù có thể ngành dệt may là ngành đang lụi tàn, chỉ còn chiếm một vị trí hết sức khiêm tốn ở những nước này. Tuy là ngành đang lụi tàn, nhưng với Mỹ, các công ty dệt may của họ vẫn có khả năng lobby rất lớn và có sự chi phối đáng kể đến các chính sách thương mại của Chính phủ Mỹ. Bởi vậy, sẽ là không khó hiểu khi Mỹ sẽ dùng các công cụ và vấn đề như nhân quyền, môi trường, lao động, hàng rào kỹ thuật và các loại hàng rào thương mại phi thuế quan khác để cản trở xuất khẩu dệt may của Việt Nam vào nước này.

Với những khó khăn và thực trạng nêu trên,  một mặt TPP sẽ mang lại cho ngành dệt may Việt Nam một số cơ hội mới để phát triển nhưng, mặt khác, những trở lực nội tại và bên ngoài có lẽ sẽ giới hạn đáng kể đến khả năng phát triển của ngành này ở Việt Nam. Bởi vậy, mọi chiến lược và quy hoạch phát triển cho ngành cần tính đến một cách đầy đủ những yếu tố chủ quan và khách quan này để cho các mục tiêu có tính khả thi và thực tế hơn.

Bất ổn tỷ giá: Đừng đổ cho “tâm lý”! (Bài đăng trên TBKTSG 8/8/2013, bản gốc)

Sau khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) “điều chỉnh” tỷ giá đồng/đô la Mỹ liên ngân hàng cuối tháng 6, lập tức tỷ giá niêm yết tại các ngân hàng thương mại và tỷ giá trên thị trường tự do đã tăng vọt. Có lúc, tỷ giá đạt gần 21.900 đồng/đô la trên thị trường tự do.

Như thường lệ, NHNN lặp lại bài trả lời quen thuộc, quy buộc việc tỷ giá tăng mạnh là do yếu tố tâm lý, do động cơ đầu cơ trục lợi của một số người v.v…, chứ còn cân đối ngoại tệ vẫn đảm bảo, vẫn có thặng dư cán cân thanh toán đến mấy tỷ đô la, trạng thái ngoại tệ tại các ngân hàng không có đột biến v.v..

Tuy nhiên, một số vấn đề xảy ra cho thấy vấn đề không đơn giản, không đúng như những gì NHNN tuyên bố, thuyết phục dân chúng.

Thứ nhất, có thể đúng như NHNN nói, các yếu tố thiết lập tỷ giá không có mấy thay đổi theo chiều hướng xấu gây áp lực lên tỷ giá, và do đó không cần phải “điều chỉnh” tỷ giá. Nhưng nếu đúng như vậy thì câu hỏi được đặt ra là tại sao NHNN lại quyết định “điều chỉnh” tỷ giá liên ngân hàng hồi tháng 6, dù chỉ là 1%, mặc dù họ có thể biết rõ hậu quả của việc “điều chỉnh” này sẽ như thế nào, căn cứ từ những vụ “điều chỉnh” trước đây? Có thể NHNN sẽ có câu trả lời nào đó nhưng chắc chắn sẽ không phải là, chẳng liên quan gì đến những yếu tố mà NHNN đã viện ra (cán cân ngoại tệ không mất cân đối, thặng dư cán cân thanh toán, trạng thái ngoại hối của các ngân hàng không biến động mạnh...). Suy ra tiếp, sự giải thích của NHNN về lý do biến động tỷ giá như vừa qua (do yếu tố tâm lý, do đầu cơ) là không chuẩn xác.

Thứ hai, và liên quan đến vấn đề trên, khi tác giả nói sự quy kết của NHNN nhằm vào yếu tố tâm lý, đầu cơ là không chuẩn xác vì tác giả cũng công nhận rằng sự biến động mạnh có phần thái quá của tỷ giá đúng là có phần của tâm lý và đầu cơ. Nhưng cần nhấn mạnh rằng đây là yếu tố đến sau, chứ không phải là yếu tố châm ngòi cho sự “điều chỉnh” tỷ giá liên ngân hàng của NHNN. Vào thời điểm NHNN “điều chỉnh” tỷ giá, không thấy họ đề cập gì đến yếu tố tâm lý mà vì nó NHNN phải “điều chỉnh. Đã không có “yếu tố tâm lý”, là cái lý do giải thích cho biến động mạnh của tỷ giá như vừa qua theo lời của NHNN, mà NHNN vẫn phải “điều chỉnh” thì phải chăng “yếu tố tâm lý” thực ra chẳng có vai trò to lớn gì cả? Và theo lẽ thông thường, khi NHNN “điều chỉnh” tỷ giá (nhấn mạnh thêm là trước đó NHNN vẫn khẳng định “không phá giá”), việc này đương nhiên kích hoạt tâm lý sợ hãi của dân chúng rằng tỷ giá sẽ còn tăng lên nữa (vốn đã quá quen thuộc với dân chúng, như đã thường xảy ra trong quá khứ, chứ không phải là lần đầu). Từ tâm lý sợ hãi đến hành động mua gom, găm giữ (tức “đầu cơ”) là một khoảng cách rất gần, dẫn đến hậu quả như đã biết.

Thứ ba, lý giải cho hành động “điều chỉnh” tỷ giá của mình, NHNN chỉ giải thích một cách chung chung, mơ hồ rằng là để phản ánh đúng hơn quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Như vậy, bản thân lý do này cũng cho thấy quả thực quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường đã bị bóp méo (mất cân đối) ở một mức độ nào đó, gây sức ép lên tỷ giá. Nói cách khác, đây mới chính là nguyên nhân làm cho tỷ giá biến động mạnh, bắt đầu với việc “điều chỉnh” tỷ giá của NHNN và theo sau là tâm lý đầu cơ càng làm cho tỷ giá biến động mạnh hơn mức cần có.

Vậy điều gì dẫn đến quan hệ cung cầu ngoại tệ bị mất cân đối? Tin tức trên báo chí gần đây giúp ta trả lời được câu hỏi này. Luồn tin thứ nhất liên quan đến chuyện dư thừa tiền đồng, mà vì nó NHNN đã phải tung tín phiếu ra để hút về đến 21 nghìn tỷ đồng chỉ riêng trong 2 tuần đầu tháng 7, trong khi theo báo chí cho biết thì hành động hút tiền về đã bị sao nhãng trong tháng 6. Luồng tin thứ hai cho biết lãi suất tiền đồng liên ngân hàng ở mức thấp cho đến gần đây khi NHNN tung tín phiếu để giảm thanh khoản trong hệ thống. Lãi suất tiền đồng thấp đương nhiên sẽ làm tăng sức hấp dẫn của việc nắm giữ đô la. Luồng tin thứ ba liên quan đến tín dụng tiền đồng tăng trưởng mạnh trong tháng 6. Từ 3 luồng tin này, có thể tổng hợp để đưa ra một bức tranh cho thấy NHNN đã bơm mạnh tiền đồng vào hệ thống nói riêng và nền kinh tế nói chung trong suốt thời gian qua cho đến tháng 6, làm cho tiền đồng trở nên dư thừa so với đô la, từ đó tạo ra áp lực lên tỷ giá danh nghĩa. Trong khi đó, lạm phát ở Việt Nam tiếp tục tăng, càng làm cho tiền đồng tăng giá thực so với đô la, càng tác động tiêu cực đến xuất khẩu và cán cân thương mại, cũng tức là tăng áp lực lên tỷ giá danh nghĩa (chính là áp lực phá giá tiền đồng). Vì lý do này hay lý do khác mà NHNN đã chọn thời điểm tháng 6 để “điều chỉnh” tỷ giá (thực chất là phá giá), nhưng cần phải hiểu rằng hành động này không sớm thì muộn cũng sẽ phải xảy ra, chứ không thể nói khác đi được.

Điều liên quan còn lại cần nói trong bài này là tại sao NHNN đã chủ động “điều chỉnh” tỷ giá (có thể nói ở mức độ thăm dò, như một số người nhận định) mà NHNN rốt cuộc lại can thiệp kìm hãm đà tăng tỷ giá bằng cả biện pháp bán ngoại tệ cho hệ thống ngân hàng? Chẳng phải làm vậy chứng tỏ họ đang vừa lãng phí nguồn lực (tung dự trữ ngoại hối ra để chặn đà tăng tỷ giá), vừa lúng túng trong mục tiêu và biện pháp điều hành hay sao (cần phá giá nhưng phá giá nửa vời, không đủ liều lượng, thậm chí để tỷ giá quay trở lại gần vạch xuất phát)? Hay phải chăng họ sợ yếu tố tâm lý, như đã nói, làm mọi việc vượt quá tầm kiểm soát của họ?

Cuối cùng là vài lời về cách PR cho NHNN mỗi khi cần tuyên bố gì đó liên quan đến tỷ giá. Qua phân tích trên có thể thấy những tuyên bố với giải thích của NHNN là không chuẩn xác, máy móc, thậm chí là (vô tình hay hữu ý) sai lạc so với thực tế, là điều mà chính vì thế mới làm cho tâm lý của dân chúng càng tiêu cực với mỗi bước đi về chính sách của NHNN. Có lẽ NHNN cần thay đổi cách và nội dung PR của mình ở những lần sau mới mong đạt được hiệu quả như mong muốn.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).