------------------------------------------------------------------------------------
Ngày 18/9, Cục Dự
trữ Liên bang Mỹ (FED) đã quyết định tiếp tục chương trình nới lỏng định lượng
(QE) – chương trình mua trái phiếu Chính phủ Mỹ - của mình thêm một thời gian nữa.
Việc FED ngừng hay tiếp tục QE đã gây sóng gió cho cả thế giới, đặc biệt là những
nền kinh tế mới nổi. Mấy tháng liền cho đến trước ngày 18/9 khi FED chính thức
công bố tiếp tục hay chấm dứt QE, ý kiến chung trên thị trường tài chính quốc tế
là FED sẽ chấm dứt (hoặc giảm bớt quy mô) QE trong tháng 9 này. Nhận định này
đã làm cho các dòng vốn đảo ngược, chảy ra khỏi các nền kinh tế mới nổi, trở về
các nước phát triển nơi mà lãi suất đã tăng, làm sụt giảm giá của các tài sản
có tính rủi ro các nước có thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai lớn
như Ấn Độ, Indonesia, và Thổ Nhĩ Kỳ, đồng thời làm suy yếu đồng tiền của họ.
Tuyên bố tiếp tục
QE của FED đã có tác dụng giữ chân và/hoặc thu hút thêm các dòng vốn đổ vào các
nước đang phát triển này, dẫn đến sự hồi phục của giá chứng khoán và các loại
tài sản khác, cũng như tỷ giá bản tệ. Ví dụ, với Ấn Độ, tỷ giá đồng rupee/USD
đã suy yếu từ mức 53,8 vào ngày 1/5 xuống mức thấp kỷ lục 68,5 ngày 28/8, tức sụt
tới 27% trong vòng 3 tháng, trước khi tăng mạnh trở lại, lên mức 62,2 vào ngày 19/9, một ngày sau khi FED ra quyết
định giữ nguyên QE.
Vì FED không nói
rõ khi nào sẽ chấm dứt QE, cũng như không rõ chỉ tiêu cụ thể để FED ra quyết định
liên quan đến QE, nên dòng vốn đang đổ vào các nước đang phát triển và hậu thuẫn
cho tỷ giá ở những nước này hầu như chỉ mang tính ngắn hạn, phản ánh rõ nét
tính bất trắc của QE. Trên ý nghĩa này, điều quan trọng cho các nước đang phát
triển, đặc biệt là những nước phải dựa vào vốn nước ngoài để trang trải thâm hụt
tài khoản vãng lai lớn và kinh niên của mình, là phải có những biện pháp chính
sách để tránh hay giảm thiểu tác động của việc tháo chạy của vốn nước ngoài khi
FED tuyên bố dừng QE.
So với Ấn Độ, Việt
Nam có một số tương đồng như tăng trưởng GDP đã tụt giảm mạnh trong mấy năm gần
đây, trong khi thâm hụt vãng lai là vấn đề kinh niên và ở mức lớn trong suốt
nhiều năm. Thâm hụt tài khoản vãng lai của Việt Nam ở mức trung bình là 3,5%
GDP trong suốt khoảng thời gian từ 1980 cho đến 2012 (so với 1,4% của Ấn Độ
trong cùng thời kỳ), và mới chỉ chuyển sang thặng dư bắt đầu từ năm 2011 (0,2%
GDP) và vọt lên mức 7,4% GDP năm 2012. Việt Nam cũng có thâm hụt ngân sách kinh
niên và đứng ở mức lớn (trung bình đứng ở mức 3,6% GDP từ 1980 đến 2012; so với
mức khoảng 3% GDP của Ấn Độ).
Bởi vậy, có thể
nói chắc chắn rằng Việt Nam cũng thuộc một trong những nước có nguy cơ bị ảnh
hưởng tiêu cực do các nguồn vốn nước ngoài đảo chiều từ việc chấm dứt QE, tuy mức
độ ảnh hưởng có thể nhỏ hơn hoặc đến chậm hơn do mức độ kém phát triển hơn của
thị trường tài chính và sự có mặt của các biện pháp kiểm soát lưu chuyển vốn.
Ngoài tác động trực
tiếp của việc đảo chiều các luồng vốn vào Việt Nam, việc chấm dứt QE sẽ lại một
lần nữa châm ngòi cho sự bất trắc và chao đảo trên các thị trường tài chính quốc
tế, có thể ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng và đà hồi phục kinh tế toàn cầu, và
tức là của Việt Nam. Mức lãi suất chung sẽ tăng lên làm giảm các nguồn vốn vào
Việt Nam, kể cả vốn FDI, hoặc làm cho chúng trở nên đắt đỏ hơn. Khi đó, những yếu
kém mang tính cơ cấu của Việt Nam như thâm hụt vãng lai và thâm hụt ngân sách lớn
nếu vẫn không được cải thiện thì chắc chắn sẽ càng làm khuyếch đại ảnh hưởng
tiêu cực từ bên ngoài lên tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam.
Trong bối cảnh dễ
bị tổn thương bởi khi QE xảy ra thực sự (chỉ còn là chuyện sớm hay muộn), Việt
Nam cần phải (tiếp tục) thực thi nhiều biện pháp chính sách để đảm bảo các cân
đối vĩ mô của mình, trong đó có cán cân tài khoản vãng lai và cán cân thu chi của
ngân sách.
Với tài khoản
vãng lai, điều may mắn là Việt Nam đã bắt đầu đạt được thặng dư tài khoản vãng
lai từ năm 2011, tạo ra cảm giác khá an tâm về tài khoản vãng lai của Việt Nam.
Tuy nhiên, với tình trạng nhập siêu đang rình rập quay lại sau một thời gian ngắn
đạt xuất siêu trong mấy quý vừa qua, khả năng quay trở lại trạng thái thâm hụt
kinh niên của tài khoản vãng lai trong thời gian tới là điều khó có thể phủ nhận.
Duy trì tỷ giá linh hoạt, thay vì ổn định trong biên độ hẹp như hiện tại, là một
trong những điều cần làm để cải thiện cán cân thương mại.
Về thâm hụt ngân
sách và nợ nước ngoài, đáng tiếc là, mặc dù với thâm hụt ngân sách lên tới 6,9%
GDP năm 2012 (số liệu của ADB), vẫn có một số tiếng nói kiến nghị tiếp tục nới
lỏng mức thâm hụt ngân sách để tăng tổng cầu, thúc đẩy tăng trưởng. Đương
nhiên, đi đôi với việc này sẽ là sự gia tăng của, và phụ thuộc vào, nợ nước
ngoài của Việt Nam. Việc kiến nghị nới lỏng này trong hoàn cảnh bình thường thì
có thể hiểu và chấp nhận được. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh bất trắc và rủi ro
đang tăng lên của môi trường kinh tế toàn cầu có phần liên quan đến QE trong thời
gian tới như đã nói ở trên, việc tiếp tục gia tăng thâm hụt ngân sách và nợ nước
ngoài là điều bất cập. Thay vì tập trung vào kích thích tăng trưởng bất chấp những
rủi ro đang rình rập, điều cần thiết là duy trì một môi trường vĩ mô ổn định để
sẵn sàng đối phó những cơn sốc bên ngoài sẽ đến nay mai.
No comments:
Post a Comment