Tuesday 26 November 2013

Bình ổn vàng tổn thất ra sao?


Theo báo cáo “Xu hướng Nhu cầu Vàng của Hội đồng Vàng Thế giới, tổng nhu cầu tiêu thụ vàng của Việt Nam tiếp tục tăng trong quý 2 và quý 3 năm nay, đưa tổng lượng vàng tiêu thụ trong 2 quý này  lên 46,1 tấn, tăng 28% so với cùng kỳ năm 2012 (xem bảng dưới).

Nhu cầu vàng tiêu dùng của Việt Nam
 Quý 2+3/2012Quý 2+3/2013% tăng
Tổng khối lượng (tấn)36,146,128%
Vàng trang sức4,45,320%
Vàng miếng, thỏi31,740,829%
Tổng giá trị (triệu USD)1.8912.0317%
Vàng trang sức2302342%
Vàng miếng, thỏi1.6611.7978%

Nếu tính theo giá trị, Việt Nam đã tiêu thụ một số lượng vàng có giá trị trên 2 tỷ USD trong 2 quý qua. Mức tăng so cùng kỳ năm ngoái chỉ là 7% vì giá vàng đã liên tục giảm trong các quý vừa qua, xuống còn 1,326 USD/oz trung bình trong quý 3 này.
Đáng chú ý là lượng tiêu thụ vàng miếng và thỏi đã tăng mạnh trong quý 2 và 3 năm nay so với cùng kỳ năm trước (tăng 9,1 tấn). Cũng cần lưu ý là thời kỳ này cũng là thời kỳ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tổ chức đấu thầu vàng cấp tập với khối lượng lớn.

Vì Việt Nam là nước nhập khẩu hầu như toàn bộ lượng vàng tiêu thụ, và vì không thể coi con số nhu cầu 46,1 tấn nói trên là tổng lượng vàng có (sẵn) trong nền kinh tế, nên có thể coi nhu cầu tiêu thụ vàng do Hội đồng Vàng Thế giới cung cấp nói trên chính là nhu cầu nhập khẩu vàng thêm vào nền kinh tế trong 2 quý qua. Và vì thời gian này cũng là thời gian diến ra đấu thầu vàng của NHNN – nguồn cung độc quyền vàng miếng và thỏi ở Việt Nam – nên có thể nói rằng phần lớn khối lượng vàng miếng và thỏi tăng thêm vào nền kinh tế trong thời gian qua gắn liền với (và là kết quả của) hành động đấu thầu vàng của NHNN.
Đương nhiên, để nhập khẩu vàng miếng và thỏi phục vụ cho đấu thầu vàng trong nước thì NHNN phải dùng ngoại tệ trong quỹ dự trữ ngoại hối. Theo số liệu trong bảng trên thì Việt Nam đã phải bỏ ra gần 1,8 tỷ USD để nhập khẩu vàng miếng và thỏi trong 2 quý qua. Như thế, số ngoại tệ mà NHNN đã phải bỏ ra chắc cũng không xa con số này lắm.

Và mới đây, NHNN lại có chủ trương mua vào vàng miếng với dự đoán xu hướng giá vàng sẽ giảm trong 6 tháng hoặc 1 năm tới, được cho là có mục đích để bổ sung vào quỹ dự trữ ngoại hối của Việt Nam (mua rẻ và hy vọng vàng lên giá để tăng giá trị quỹ dự trữ ngoại hối).
Giả sử NHNN đã dự đoán đúng xu hướng giảm giá vàng này, và NHNN giá vàng trong 6 tháng tới sẽ giảm đi so với mức giá hiện tại như kỳ vọng của NHNN. Lúc đó, NHNN có 3 lựa chọn mua vào vàng miếng: mua vàng từ thế giới; mua vàng từ trong nước; và mua từ cả 2 nguồn này.

Đối với lựa chọn mua vàng từ thế giới, NHNN tiếp tục phải bỏ ra một lượng ngoại tệ  trong quỹ dự trữ ngoại hối để nhập khẩu vàng. Tuy giá vàng có thể đúng như dự đoán là sẽ rẻ hơn thời điểm này, và do đó lượng ngoại tệ bỏ ra cho cùng một số lượng vàng nhập khẩu sẽ ít đi, nhưng đồng thời với việc mua vàng về thì quỹ dự trữ ngoại hối lại mất đi một lượng USD tương ứng về giá trị. Như thế có nghĩa là tổng giá trị quỹ dự trữ ngoại hối không thay đổi về giá trị (quy đổi theo USD), mà chỉ có sự hoán đổi cấu thành của quỹ, chứ không có tác dụng “bổ sung” vào (làm tăng giá trị của) quỹ dự trữ ngoại hối như NHNN có thể đã dự tính. Và sẽ càng là vấn đề khi giá vàng lại tiếp tục giảm sau khi NHNN mua vào, vì lúc đó quỹ dự trữ ngoại hối càng tổn thất thêm nữa về giá trị.
Đối với lựa chọn mua vàng miếng từ thị trường trong nước, NHNN có thể in/xuất tiền đồng ra để mua vàng mà không cần phải dùng đến ngoại tệ trong quỹ dự trữ ngoại hối. Tuy nhiên, do nguồn cung vàng trong nước là rất có hạn (chủ yếu là lượng vàng do dân nắm giữ trước đây, đặc biệt kể từ khi NHNN tổ chức đấu thầu), nên hành động này của NHNN nhanh chóng đẩy giá vàng trong nước lên cao. Kết cục là NHNN hoặc phải rút thanh khoản từ hệ thống ngân hàng hoặc phải in tiền thêm để mua đủ số lượng vàng cần thiết. Như vậy, hành động mua vàng trong nước để bổ sung quỹ dự trữ ngoại hối của NHNN sẽ gây ra hoặc là tăng lãi suất do thanh khoản tiền đồng khan hiếm, hoặc gây ra áp lực lạm phát do in tiền. Cả 2 hậu quả này đều là điều NHNN muốn tránh, nhất là trong thời điểm hiện tại.

Đối với lựa chọn thứ 3, tức kết hợp cả 2 lựa chọn trên, tuy hậu quả có vẻ như được san sẻ giữa 2 lựa chọn ban đầu, nhưng nói ngắn gọn thì hậu quả vẫn là hậu quả (ví dụ, quỹ dự trữ ngoại hối có thể ít hao tổn hơn nhưng nền kinh tế sẽ bị thiệt hại nhiều hơn do lãi suất hoặc lạm phát tăng cao).
Tóm lại, cái giá của bình ổn vàng là sự hao hụt khá lớn trong quỹ dự trữ ngoại hối trong suốt thời gian qua, chưa kể những rủi ro đi kèm với việc NHNN có thể mua vàng vào trong thời gian tới (tùy theo lựa chọn mua vào của NHNN mà rủi ro sẽ là khác nhau).

6 comments:

  1. Bác phân tích rất chuẩn! Cái giá phải trả cho sự bình ổn giá vàng của NHNN quả là không nhỏ chút nào. Nhưng mấy bác NHNN vẫn ca tụng thành quả đạt được nhờ những phát kiến vĩ đại của họ đấy!

    ReplyDelete
    Replies
    1. Tại sao NHNN vẫn tự ca tụng được? Một yếu tố cực kỳ may mắn với (chính sách của) NHNN là giá vàng thế giới đi xuống liên tục, làm nản lòng giới đầu cơ chờ giá lên. Bối cảnh giá đi xuống sẽ không tạo ra những cơn sốt nóng, là điều quả thật đang thiếu vắng hiện nay, và làm NHNN ngộ nhận (hay tự vơ vào) rằng đó là do công lao của chính sách bình ổn vàng của họ.

      Yếu tố may mắn thứ hai là luồng ngoại tệ vào VN có vẻ như rất dồi dào, làm NHNN không cần phải vất vả giật gấu vá vai, xoay ngoại tệ để mua vàng. Ngoại tệ dồi dào nên họ sẵn sàng tung ra để mua vàng về bình ổn. Thử hình dung xem ngoại tệ mà khó khăn như hồi mấy năm trước xem, liệu NHNN có "bình ổn" được không, có tự đắc thế được không?

      Nói gì thì nói, số lượng ngoại tệ trên mới chỉ là tạm tính và cho thời gian 6 tháng. Tức bình quân mỗi tháng đi tong 300 triệu USD để bình ổn vàng. Số ngoại tệ còn tiếp tục mất đi trong những tháng của quý 4 này vì NHNN vẫn đang tiếp tục đấu thầu, cảm tưởng như họ đang tìm mọi cách đánh dập đầu giới đầu cơ bằng cách tung vàng ra liên tục làm cho giới đầu cơ bội thực vàng mà chết hẳn.

      Nhưng mọi chuyện sẽ sớm phải chấm dứt khi dự trữ ngoại tệ không còn dồi dào, luồng ngoại tệ vào cũng không còn dồi dào, và giá vàng thế giới đảo chiều,kéo theo giá vàng trong nước.

      Hãy kiên nhấn đợi xem NHNN còn làm thế này được bao lâu! Nhưng chắc chắn khi (phải) chấm dứt đấu thầu vàng, NHNN sẽ biện giải rằng đấu thầu vàng đã đạt mục đích ("bình ổn"), và từ nay trở đi không còn phải đấu thầu nữa! Hãy chờ xem màn kịch kết thúc thế nào.

      Delete
  2. Bác phân tích thêm rất cụ thể, cho thấy thật chất của việc bình ổn giá vàng trong nước. Thời gian gần đây rất nhiều bản tin kinh tế, tài chính trên truyền hình truyền tải thông điệp cho dân chúng rằng VN có lượng dữ trữ ngoại tệ (usd) dồi dào (gần 12 tuần nhập khẩu), và dự kiến (chắc ăn) lượng kiều hối trong năm nay đạt trên 10 tỉ usd, ... và nhiều tin khác (k biết có lá cải k) để củng cố cho VN ta trong năm nay vẫn còn đầy usd. Còn thực chất bên trong như thế nào, hạ hồi sẽ rõ phải không bác!

    ReplyDelete
  3. Chắc có lẽ việc duy trì đấu thầu vàng chỉ còn đo bằng tuần nữa thôi.

    ReplyDelete
  4. Gửi anh Ngọc, cho mình hỏi 2 điều:

    1. Bài viết của anh cho rằng bình ổn vàng gây tổn thất (dự trữ ngoại hối, áp lực lãi suất, lạm phát cao...), nhưng không thấy anh ước tính con số tổn thất là bao nhiêu, như thế làm sao đánh giá được tổn thất?

    2. Anh chỉ mới tính chi phí đầu vào khi NHNN mua vàng, nhưng chưa tính giá bán đầu ra chênh lệch khá lớn so với giá mua và chi phí đầu vào. Nếu đây là nguồn thu của NHNN thì sao anh lại không tính để bù trừ tổn thất?

    "Từ 28/3, nhà điều hành đã tổ chức 21 phiên đấu thầu và bán ra khoảng 20 tấn vàng. Theo ước tính của Standard Chartered, Ngân hàng Nhà nước đã chi ra khoảng một tỷ USD, tương đương 10% kim ngạch nhập khẩu hàng tháng của cả nước để nhập khẩu vàng. Lợi nhuận thu về từ chênh lệch giá vàng theo tính toán của nhà băng này khoảng 117 triệu USD."

    Nguồn: http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/ebank/ngan-hang/ngan-hang-nha-nuoc-lai-117-trieu-usd-qua-dau-thau-vang-2806828.html

    Báo cáo của SCB: https://research.standardchartered.com/researchdocuments/Pages/ResearchArticle.aspx?&R=106462

    ReplyDelete
  5. 1. Tớ phản đối lập luận cho rằng NHNN đang lãi từ kinh doanh vàng, khi đấu thầu vàng nhập về với giá bằng hoặc cao hơn giá thị trường trong nước, trong khi giá thị trường trong nước quy đổi theo tỷ giá VND/USD luôn có khoảng cách chênh lệch lớn với giá quốc tế.

    Thực ra tớ đã viết trong bài rồi nhưng cuối cùng lại xóa đi một đoạn lập luận về chuyện này. Đại ý là NHNN xuất ngoại tệ ra mua vàng rồi bán thu tiền đồng về. Đúng là nếu quy ra tiền đồng hết thì NHNN sẽ có lãi lớn. Nhưng vấn đề là tiền đồng là tiền nhà trồng được, nhưng không thể mang ra quốc tế để mua vàng lúc cần, vì thế không thể so sánh khập khiễng như vậy được. Hãy giả sử một trường hợp cực đoan rằng vì một lý do gì đó mà ngoại tệ trở nên khan hiếm đến mức mà NHNN cần mua lại vàng nhưng không thể xoay sở để có đủ lượng USD cần (trường hợp này cũng giống như doanh nghiệp chỉ có nguồn thu trong nước nhưng lại phải đi nhập khẩu hàng về để bán, phải/đi vay vốn bằng ngoại tệ, vì thế sẽ chịu rủi ro thua lỗ, phá sản khi không thể xoay được ngoại tệ nhập hàng, trả nợ, hoặc với tỷ giá đã trở nên quá đắt đỏ. Gọi là tình trạng currency mismatch).

    Đại loại thế, và vì mới chỉ là rủi ro và nó là điều khó có thể lượng hóa được nên tớ mới không viết vào bài, và chỉ tập trung vào khía cạnh tổn thất quỹ dự trữ ngoại hối, là cái nhìn thấy và đo đếm được ngay.

    2. Đã được trả lời luôn tại điểm 1.

    ReplyDelete

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).