Sunday 22 December 2013

Thúc đẩy tăng trưởng tín dụng và rủi ro nợ xấu (Bài đăng trên TBKTSG, số ra ngày 19/12/2013)


Với diễn biến “ì ạch” của tăng trưởng tín dụng từ đầu năm cho đến nay, có khả năng không hoàn thành mục tiêu tăng trưởng tín dụng 12% trong năm 2013 này, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có những biện pháp chỉ đạo quyết liệt đốc thúc và tạo điều kiện cho hệ thống ngân hàng tăng trưởng tín dụng. Còn bản thân các ngân hàng thương mại thì cũng quyết liệt tìm mọi cách để tăng tín dụng vì áp lực lợi nhuận, giảm nợ xấu, và giành thị phần.
Trong khi đó, nền kinh tế xem ra cũng vẫn đang trong giai đoạn “ì ạch” tăng trưởng, với hàng tồn kho ở mức lớn, với sản xuất cầm chừng ở nhiều ngành, nhiều nơi do nhu cầu thấp, thu nhập dân cư và doanh nghiệp tăng chậm, dẫn đến vòng luẩn quẩn là tổng cầu tăng chậm, nợ xấu gia tăng, nhu cầu tín dụng hạn chế, bất chấp mọi nỗ lực quyết liệt giải quyết khó khăn, thúc đẩy tăng trưởng của Chính phủ.

Bối cảnh này làm dấy nên nỗi lo ngại rất chính đáng rằng các biện pháp tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng như hiện nay sẽ tiếp tục làm gia tăng khối nợ xấu trong nền kinh tế, đơn giản vì nhanh và “quyết liệt” thường đồng nghĩa với ẩu và bỏ qua các nguyên tắc hành động chuẩn mực.
Sẽ có nhiều người, nhiều ngân hàng phản đối mối lo ngại này, vì cho rằng cho vay tín dụng luôn đi kèm với những nguyên tắc bất di bất dịch của ngành, kể cả trong giai đoạn đang phải “quyết liệt” như hiện nay. Họ sẽ dẫn ra những bằng chứng nào là thông tin tín dụng được cung cấp bởi Trung tâm Thông tin tín dụng NHNN (CICB), nhờ đó họ nắm rõ được lịch sử tín dụng của khách hàng, nhờ đó giảm thiểu khả năng cho vay “nhầm” đối tượng; nào là cán bộ tín dụng được đào tạo bài bản, có kinh nghiệm và tuân thủ pháp luật; nào là hệ thống quản lý rủi ro của các ngân hàng đã được nâng cấp, tái cơ cấu để hạn chế gia tăng rủi ro tín dụng từ cấp cơ sở v.v... Còn phía NHNN thì liên tục khẳng định đã tăng cường và thắt chặt công tác thanh tra, giám sát hoạt động tại các ngân hàng, quản lý rủi ro của toàn hệ thống v.v...

Và mọi việc dường như sẽ đúng như vậy cho đến khi có những vụ việc nổ ra, làm bộc lộ những lỗ hổng lớn trong công tác quản lý rủi ro của hệ thống ngân hàng và cả NHNN. Mới đây nhất là vụ tranh chấp kho cà phê trị giá 100 tỷ đồng của Công ty Trường Ngân vốn là tài sản thế chấp cho ... 7 ngân hàng với tổng số nợ lên tới 600 tỷ đồng. Trước đó, theo báo chí, thì còn có vụ Công ty cổ phần Inox Việt Mỹ cũng dùng sản phẩm inox của mình để thế chấp tại 5, 6 ngân hàng để vay 200 tỷ đồng. Đây chắc chắn mới chỉ là 2 trong số nhiều vụ việc đã và đang xảy ra mà dư luận còn chưa được biết đến.
Những vụ việc trên, về nguyên tắc, là không được phép xảy ra. Nếu đúng rằng các ngân hàng có sử dụng thông tin của CICB và các thông tin của CICB là đầy đủ để cung cấp một bức tranh tổng quát về những khách hàng như  Trường Ngân hoặc Inox Việt Mỹ thì chắc chắn các ngân hàng sẽ biết chính xác hiện tại các khách hàng này đang có bao nợ, với những ngân hàng nào. Bản thân từng ngân hàng có ý định cho các công ty này vay, dựa trên thông tin của CICB, có khả năng và bắt buộc phải phân tích xem với dư nợ vay hiện tại và số nợ mới mà họ đang xem xét, thì liệu các công ty khách hàng tiềm năng này có khả năng trả nợ cho họ không (dựa vào, ví dụ, thu nhập và dòng tiền), để rút ra kết luận có thể cho họ vay được không v.v...

Nhưng những vụ việc như trên vẫn xảy ra, chứng tỏ hai điều. Hoặc là thông tin của CICB là không đầy đủ, không được cập nhật (kịp thời). Điều này có thể xảy ra khi đối tượng cung cấp thông tin cho CICB, theo luật định, là các tổ chức (có hoạt động) tín dụng không thực hiện nghiêm túc đúng nghĩa vụ của mình; còn CICB thì không thực hiện được việc giám sát công tác báo cáo của các tổ chức này. Hoặc là bản thân các ngân hàng thương mại đã lơ là với chuyện cho vay, không có hệ thống quản lý rủi ro tín dụng hoạt động tốt, bị cán bộ tín dụng qua mặt v.v...
Điều rủi ro hơn hiện nay là các ngân hàng đang dốc sức phát triển mảng tín dụng cá nhân trong bối cảnh tín dụng doanh nghiệp đang “mắc cạn”. Các khoản cho vay cá nhân như tiêu dùng; mua, xây, sửa nhà; mua ô tô, thẻ tín dụng đang được khuyến khích và quảng bá rầm rộ.

Vì quy mô khoản vay tương đối nhỏ, số lượng đối tượng nhiều, chi phí cho vay lớn hơn đáng kể so với tín dụng doanh nghiệp nên thông tin gửi về CICB hoặc thông tin lấy ra từ đây còn hạn chế hơn nữa so với thông tin về các doanh nghiệp khách hàng vay tiền. Một số thông tin cực kỳ quan trọng đối với tín dụng cá nhân là tổng thu nhập và tổng số các khoản đã vay ngân hàng của từng khách hàng cá nhân là những điều mà các ngân hàng rất khó, và hầu như không nắm được. Nếu như ở nhiều nước khác, thông tin về thu nhập của mọi cá nhân được thể hiện rõ ở tổng mức thu nhập khai báo với cơ quan thuế vụ, thì ở Việt Nam, thu nhập này khá là mù mờ hoặc không được biết đến, không được xác nhận. Trong khi đó, thông tin về tổng mức vay nợ của khách hàng cá nhân với các tổ chức tín dụng hoặc là cũng không có, hoặc là không đầy đủ, thậm chí còn tệ hơn nhiều (nếu có) nếu so với thông tin tương tự của các khách hàng doanh nghiệp, vốn cũng đã không đầy đủ, cập nhật.
Thiếu vắng thông tin về thu nhập và đi vay của các khách hàng cá nhân làm nảy sinh rủi ro lớn về nợ xấu từ mảng nghiệp vụ này, vì phòng ngừa rủi ro luôn có hiệu quả hơn là xử lý hậu quả khi sự việc đã rồi, xét về mặt bảo toàn vốn và lợi nhuận. Lúc đó, các ngân hàng chỉ còn biết dựa vào các biện pháp “rắn” sau cho vay để đôn đốc thu nợ nếu khách hàng mất khả năng, hoặc cố tình không chi trả, cho dù kết quả có thể chẳng là bao.

Cũng phải công bằng mà nói rằng lỗ hổng trong cho vay cá nhân (và cả một bộ phận doanh nghiệp) nói trên là do “ở Việt Nam nó thế!”, và trói tay các cơ quan giám sát Chính phủ và các ngân hàng muốn làm nghiêm túc, trong khi là điều có thể thực hiện được ở nhiều nước khác. Ở Singapore, ví dụ, mới đây, nhân chuyện giá bất động sản tăng nóng do đầu cơ, Chính phủ đã khống chế tổng mức vay nợ ngân hàng dùng để mua căn hộ của Chính phủ quản lý sao cho mức trả góp hàng tháng (tiền trả nợ gốc cộng lãi) không quá 30% tổng thu nhập hàng tháng của người vay. Và đương nhiên là tổng thu nhập hàng tháng và tổng mức vay mượn ngân hàng của đại bộ phận người sống ở Singapore là điều có thể biết được qua một cái bấm chuột máy tính.
Nói tóm lại, rủi ro nợ xấu tăng lên mạnh hơn là điều có thể nhìn thấy trước khi mục tiêu tăng trưởng tín dụng đang được quyết liệt và ráo riết thực hiện, bởi không chỉ những lý do chủ quan (yếu kém nội tại trong hệ thống quản lý rủi ro của các ngân hàng) mà còn bởi những lý do khách quan (không phân tích, theo dõi được tổng số tiền vay và khả năng trả nợ của khách hàng).

Saturday 14 December 2013

Lại thêm cái quen quen!

Tiếp theo bài mới đọc buổi chiều nay, tớ lại thấy có bài này có mùi văn thoang thoảng của tớ (ở trong bài này), ở cái đoạn định nghĩa về tỷ giá thật trong cái box màu vàng phía dưới. Hóm thật. Sao đồng chí tác giả không google một phát là ra cái định nghĩa chuẩn rồi tha về, mà cứ phải bệ nguyên cái thoang thoảng của tớ làm gì nhỉ. Tớ xem ra khéo sắp thành lãnh tụ đến nơi mất.

Friday 13 December 2013

Bài này nghe quen quen!

Tớ lướt báo, thấy có bài này trên tờ An ninh Thủ đô, nghe quen quen mùi của tớ, hehe!

http://www.anninhthudo.vn/Van-de-hom-nay/Khong-de-cung-cau-venh-nhau/528889.antd

Vì là nó "hơi hơi" có mùi của bài này của tớ

http://phan-minh-ngoc.blogspot.com/2013/11/quan-ly-gia-khong-phai-cu-muon-binh-la.html

Phải công nhận là bọn báo chí cũng xào xáo giỏi và "thản nhiên" thật.

Và các báo cũng đưa tin giá sữa đã bắt đầu tăng ở một số nhãn. Trong khi đó thì Bộ Tài chính đã thành lập mấy đoàn kiểm tra với xử phạt. Rốt cuộc, như tớ nói, hãy chuẩn bị mà đón đợi tinh thần giá sữa tiếp tục tăng

Thursday 5 December 2013

Ở đâu động lực tăng trưởng? (Bài đăng trên TBKTSG, số 5/12/2013, bản gốc)


Trong bối cảnh nền kinh tế đang tăng trưởng thấp hơn so với mức được coi là tiềm năng và vẫn còn đó những bất ổn kinh tế vĩ mô, một câu hỏi được đặt ra là phải làm gì để “vực” dậy tăng trưởng kinh tế trong khi vẫn tiếp tục cải thiện các cân đối kinh tế vĩ mô.
Trả lời câu hỏi trên, gần đây có luồng ý kiến cho rằng đã đến lúc Việt Nam cần phải từ bỏ chính sách quản lý tổng cầu (hay “trọng cầu”) để thúc đẩy tăng trưởng. Thay vào đó là chính sách “trọng cung”, gồm thực thi chính sách tiền tệ theo hướng duy trì lạm phát ở mức thấp, giúp doanh nghiệp có thể tiên đoán được sự biến đổi về lãi suất, nhờ đó có thể giúp doanh nghiệp xây dựng được các chiến lực kinh daonh và yên tâm bỏ vốn đầu tư trong trung và dài hạn; giảm các loại thuế và phí, cắt giảm chi tiêu chính phủ; đẩy nhanh hơn nữa tiến độ cổ phần hoá các DNNN; giải điều tiết các thị trường, tăng cường cạnh tranh và tự do thương mại; khuyến khích đầu tư vào phát triển công nghệ, giáo dục và đào tạo để cải thiện năng suất và phát triển vốn con người.

Đối với luồng ý kiến này, có thể thấy một số vấn đề cần làm rõ thêm.

Nhận diện thách thức hiện tại
Nền kinh tế Việt Nam hiện đang phải đối mặt với tổng cầu tăng yếu (hơn mức kỳ vọng và/hoặc tiềm năng), thể hiện ở tăng trưởng GDP và chỉ số bán lẻ ròng thấp. Cầu yếu còn thể hiện ở  việc dư cung, với chỉ số hàng tồn kho cao, ở việc doanh nghiệp không dám vay vốn (mặc dù đủ điều kiện vay với lãi suất ưu đãi) để mở rộng sản xuất. Trong khi đó, thu ngân sách bị hụt lớn (so với kế hoạch) do Chính phủ tiến hành một loạt động thái cắt giảm, hoãn, miễn,  hoàn thuế trong khi mức giao nộp của doanh nghiệp và cá nhân, theo báo cáo, bị sụt giảm bởi sản xuất kinh doanh không khả quan.

Cho dù các thách thức trên có thể chỉ là ngắn hạn nhưng nếu không có biện pháp xử lý đúng đắn thì chúng sẽ thành vấn đề có tính dài hạn hơn. Nói cách khác, hiện nay nền kinh tế đang đối mặt với thiếu cầu chứ không phải thiếu cung để mà phải “kích cung”. Nên nếu tiến hành chính sách trọng cung (hiểu ở đây chắc là, theo ý của phía “trọng  cung” này, phải tăng cung hơn nữa; và lưu ý thêm rằng hiểu như vậy thì chính sách này không thể được gọi là “trọng cung” theo đúng định nghĩa của nó) thì nền kinh tế sẽ càng phải chứng kiến sự dư thừa, tồn kho hàng hóa lớn hơn, doanh nghiệp càng phải co hẹp và đóng cửa nhiều hơn. Vì thế, chí ít thì tình trạng thiếu cầu (và dư cung) là căn bệnh đang diễn ra hiện nay và cần phải được giải quyết ngay và trước mắt đã. Cho đến khi nào sự bất cân đối này được cải thiện thì có thể lúc đó ta mới có thể phải xem xét các biện pháp kích thích sản xuất kinh doanh (lưu ý lại là các biện pháp này không thuộc về chính sách “trọng cung” theo đúng nghĩa của nó) trong trung và dài hạn.
Trong bối cảnh hụt thu ngân sách ở mức lớn như hiện nay (và còn kéo sang ít nhất năm sau), chính sách trọng cung với các biện pháp giảm thuế phí hơn nữa chỉ càng dẫn đến sự hụt thu trầm trọng hơn. Nguy hiểm hơn, điều này sẽ càng buộc Chính phủ phải dựa vào Ngân hàng Nhà nước (NHNN) để tiền tệ hóa khoản thâm hụt ngân sách Chính phủ, tức là làm trầm trọng thêm các bất ổn vĩ mô (áp lực lạm phát và tỷ giá gia tăng v.v...).

Cho dù phía trọng cung nói trên có đề cập đến giảm chi tiêu Chính phủ, nhưng rõ ràng là cho dù có giảm được chi tiêu Chính phủ nhưng thâm hụt ngân sách vẫn có khả năng không giảm đi, thậm chí vẫn trầm trọng hơn, nếu tổng thu ngân sách giảm mạnh hơn mức giảm chi của Chính phủ. Chưa nói thêm rằng giảm chi tiêu của Chính phủ sẽ lại dẫn đến vòng luẩn quẩn là tổng cầu yếu lại càng thêm yếu trong khi cái cần ngay trước mắt là phục hồi tổng cầu, chứ không phải là tổng cung.

Động lực tăng trưởng nằm ngay ở giải pháp xử lý những thách thức hiện tại
Xử lý được những “điểm nghẽn tăng trưởng” nói trên cũng tức là mang lại động lực phục hồi tăng trưởng cho nền kinh tế. Và giải pháp xử lý đương nhiên sẽ phải là tăng tổng cầu (và giảm tồn kho), và giảm thâm hụt ngân sách Chính phủ. Vì khuôn khổ giới hạn, nên ở đây ta chỉ nêu một số nét làm ví dụ.

Tổng cầu gồm có cầu từ thị trường nội địa và từ xuất khẩu. Tuy xuất khẩu đã tăng trưởng rất khả quan trong suốt mấy quý qua nhưng vẫn có thể tạo thêm dư  địa để khu vực này đóng góp tích cực hơn nữa vào tăng trưởng kinh tế, thông qua các biện pháp như phá giá tiền đồng để tăng sức cạnh tranh, nhờ đó tăng được doanh số xuất khẩu. Xuất khẩu tăng sẽ có tác động tích cực tới nền kinh tế nội địa khi nó tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập, thuế phí giao nộp, v.v... và tức là tăng tổng cầu.
Ngoài mặt lượng, dư địa đóng góp của xuất khẩu vào tăng trưởng còn có thể được mở rộng thêm về chất, tức nhờ vào tăng hàm lượng giá trị gia tăng trong hàng xuất khẩu. Các biện pháp chính sách theo hướng này là phải tăng cường liên kết theo chuỗi giữa hoạt động xuất khẩu với hoạt động của các ngành công nghiệp phụ trợ. Mà theo hướng này, một loạt các biện pháp chính sách cần phải tiến hành, trong đó đáng kể nhất là cải thiện tính hiệu quả của việc hoạch định chính sách, của hoạt động của bộ máy công quyền, quản lý hành chính; cải thiện chất lượng và số lượng các yếu tố đầu vào như lượng và chất nguồn lực lao động, đất đai, hạ tầng v.v...

Đối với thị trường nội địa, giảm, miễn và hoãn thuế phí như đã và đang làm có lẽ không phải là một giải pháp hiệu quả và có tính quyết định, vì như đã nói, nó có tác dụng phụ là làm tăng hụt thu. Ngay những nước như Nhật, với nền kinh tế trì trệ hàng thập kỷ qua, vẫn phải cân nhắc đến tăng thuế tiêu thụ để bù đắp nguồn thu. Thay vào đó, cải thiện lòng tin của người tiêu dùng, của doanh nghiệp vào triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là điều cần được ưu tiên để họ mở rộng hầu bao cho tiêu dùng và đầu tư. Mà để làm việc này thì việc giảm thiểu tính bất trắc của nền kinh tế trong tương lai, chứ không phải là việc nâng lên hay hạ xuống bản thân một chỉ số kinh tế vĩ mô nào đó (như lạm phát), mới là điều quan trọng. Người ta thậm chí còn mạnh tay chi tiêu tại thời điểm hiện tại nếu nhìn thấy trước được rằng lạm phát chắc chắn sẽ ở mức xung quanh, chẳng hạn, 7% vào năm sau. Kể cả đối với đầu tư cũng vậy, đầu tư vẫn có thể tăng nếu nhà đầu tư tính toán được bài toán lợi nhuận dựa trên mức lạm phát cho trước hầu như là sẽ thành sự thật này. Điều rủi ro mà người ta lo ngại nhất, và co lại, chính là việc dự tính lạm phát một đằng mà thực tế hóa ra một nẻo. Nói cách khác, chính sách tiền tệ làm cho lạm phát ở mức thấp, như phía “trọng cung” đề xuất, không nhất thiết là cần thiết và/hoặc có lợi hơn một chính sách tiền tệ gây ra lạm phát cao hơn, nhưng ổn định hơn.
Với chi ngân sách Chính phủ, cắt giảm chi tiêu và đầu tư công vừa là điều không dễ dàng, vừa là điều không nhất thiết là ưu tiên hàng đầu, đặc biệt trong bối cảnh không còn trông chờ vào đâu để vực tổng cầu. Thay vào đó, và hiển nhiên là vậy, hiệu quả chi tiêu là điều cần chú trọng. Theo hướng này, tất nhiên sẽ có một loạt biện pháp chính sách cần được xây dựng và thực thi để cải thiện chất lượng chi tiêu của Chính phủ. Một khi hiệu quả chi tiêu được nâng cao thì đương nhiên nhu cầu tăng thâm hụt ngân sách sẽ phải giảm đi.

Những giải pháp trên cũng sẽ mang lại động lực tăng trưởng trong trung và dài hạn
Không như một số người sẽ hiểu lầm rằng các giải pháp trên chỉ mang tính ngắn hạn, đối phó với những thách thức hiện tại. Cần lưu ý rằng các giải pháp trên thường là (và liên quan đến), như đã dẫn chứng,  việc cải thiện tính hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế, của từng khu vực, thành phần kinh tế và của chức năng và hoạt động của Chính phủ v.v... để sao cho cùng một nguồn lực hiện có nhưng thành quả đóng góp vào tăng trưởng kinh tế lớn hơn.  Mà bản thân nội hàm của việc cải thiện tính hiệu quả đã tự nó bao gồm tất cả những biện pháp mà phía “trọng cung” đề xuất. Chẳng hạn, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) cũng chính là một biện pháp để cải thiện tính hiệu quả của khu vực kinh tế này, sao cho ngân sách không phải bỏ thêm vốn ra mà đóng góp của nó lại tăng lên. 

Tóm lại, đi tìm và mang lại động lực cho hồi phục và tăng trưởng kinh tế không nên chỉ giới hạn ở trong 2 khái niệm “trọng cầu” và “trọng cung”. Trong ngắn hạn, động lực này nằm ngay ở chính kết quả của các giải pháp có xử lý hữu hiệu được các khó khăn và thách thức hiện nay của nền kinh tế hay không. Tiếp tục thực thi hữu hiệu các giải pháp này để cải thiện tính hiệu quả của các nguồn lực trong trung và dài hạn cũng chính là động lực cho tăng trưởng kinh tế trong trung và dài hạn.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).