Wednesday 31 December 2014

Vũ khí bảo vệ đồng ruble của Nga hiệu quả đến đâu? (Bài đăng trên CafeF, 1/1/2015)

http://cafef.vn/tai-chinh-quoc-te/vu-khi-bao-ve-dong-ruble-cua-nga-hieu-qua-den-dau-2015010109265380316ca32.chn

Ngày 25/12, Nga tuyên bố cuộc khủng hoảng tiền tệ của nước này đã kết thúc, cho dù họ đã và đang phải trả bằng một cái giá khá đắt đỏ, với dự trữ ngoại hối sụt giảm mạnh và, ngược lại, lạm phát đã tăng lên mạnh, châm ngồi cho một cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất kể từ năm 1998.

Biện pháp giúp Nga ngăn chặn được đà rơi tự do của đồng ruble chủ yếu thông qua biện pháp nâng lãi suất cơ bản lên đến 17%/năm, đồng thời với một số biện pháp khẩn cấp như huy động các công ty tài chính bán ngoại tệ ra thị trường để cứu đồng nội tệ, và buộc các doanh nghiệp xuất khẩu lớn (gồm cả hai đại gia năng lượng là Gazprom và Rosneft, Tập đoàn Năng lượng Zarubezhneft, hãng khai thác mỏ Alrosa và nhà sản xuất kim cương PO Kristall)bán bớt dự trữ ngoại tệ của họ để hỗ trợ tỷ giá đồng ruble.

Công bằng mà nói, các vũ khí mà Nga hiện đang dùng ở trên đều là vũ khí thông thường, phổ biến và thường được dùng ở giai đoạn đầu trong các cuộc khủng hoảng tiền tệ trên thế giới. Việc nâng lãi suất cơ bản sẽ có 2 tác dụng: khuyến khích nhà đầu tư nắm giữ tài sản bằng đồng ruble (hoặc, ngược lại, ngăn chặn cơn sợ hãi của nhà đầu tư rời bỏ các tài sản bằng đồng ruble và chuyển sang các tài sản bằng ngoại tệ và chuyển ra nước ngoài cho an toàn); và ngăn chặn hành động đầu cơ trục lợi của các nhà đầu tư thông qua việc vay bằng đồng ruble đang mất giá mạnh để đầu cơ vào USD, sau đó bán USD thu về nhiều hơn số đồng ruble đã vay. Trong khi đó, việc yêu cầu các công ty xuất khẩu lớn có nguồn ngoại tệ dồi dào phải bán USD nắm giữ (một phần hay toàn bộ) sẽ tạo thêm nguồn cung USD ra thị trường, đỡ gánh nặng cho Ngân hàng Trung ương phải dốc dự trữ USD ra để ổn định thị trường ngoại hối.

Trên lý thuyết, các biện pháp trên sẽ lập tức phát huy tác dụng hỗ trợ đồng nội tệ vì gián tiếp hay trực tiếp làm giảm nhu cầu USD, đồng thời lại làm tăng nguồn cung USD và bảo toàn quỹ dự trữ ngoại hối như là một chỉ biểu cho sự vững mạnh của bản tệ. Thực tế này cũng đã diễn ra ở Nga gần đây với sự hồi phục đáng kể giá trị của đồng ruble từ mức thấp kỷ lục hồi giữa tháng 12.

Nhưng, vấn đề là những biện pháp này sẽ phát huy tác dụng được bao lâu?

Việc nâng mạnh lãi suất sẽ là đòn giáng mạnh vào tiêu dùng và đầu tư của cá nhân và doanh nghiệp ở Nga. Nghịch lý là, để phục hồi lòng tin vào đồng ruble, lãi suất buộc phải neo ở mức đủ cao và đủ lâu. Đến lượt nó, lãi suất cao kéo dài không những làm giảm cầu tiêu dùng và đầu tư ngay lập tức mà còn châm ngòi cho kỳ vọng suy thoái kinh tế trong những quý tới, lại làm người tiêu dùng và nhà đầu tư càng co cụm lại, không dám tiêu dùng và đầu tư để phòng bị cho một tương lai càng xám xịt hơn. Bởi thế, nâng mạnh lãi suất chỉ có thể là một giải pháp nhất thời, chứ không thể kéo dài từ quý này sang quý khác được.

Tương tự như vậy là việc buộc các doanh nghiệp xuất khẩu phải bán ngoại tệ cho nhà nước (còn gọi là kết hối). Phàm cái gì là điều bắt buộc thì thường là điều không tốt, không có lợi cho các đối tượng bị chế tài, trong trường hợp này là các doanh nghiệp xuất khẩu. Việc kết hối này rõ ràng sẽ làm giảm lợi nhuận của các doanh nghiệp xuất khẩu này, nên sẽ khuyến khích họ tìm cách lách để không phải bán (nhiều) USD doanh thu cho nhà nước, hoặc, ngược lại, giảm động lực sản xuất kinh doanh của họ, từ đó giảm nguồn thu USD nói chung và lượng USD có thể bán cho nhà nước nói riêng. Thêm nữa, bản thân các đại gia năng lượng và khai mỏ nói trên của Nga lại đang hứng chịu ảnh hưởng của giá dầu và giá khoáng sản (kim loại, than, quặng sắt v.v...) tụt dốc nên sự đóng góp của chúng cho thị trường ngoại hối ở Nga sẽ càng có hạn, không thể kéo dài nhiều tháng được.

Như vậy, có thể thấy các biện pháp hiện tại của Nga chỉ có tác dụng trong ngắn hạn, chỉ giúp họ mua thêm thời gian trước khi có những biện pháp cơ bản khác và hữu hiệu hơn được thực thi. Chừng nào cho đến lúc các biện pháp khác chưa được thực thi thì chừng đó vẫn còn quá sớm để khẳng định rằng cuộc khủng hoảng tiền tệ của họ đã kết thúc như họ đã tuyên bố.

Nhưng cái khó cho Nga là các biện pháp khác lại không có nhiều, hoặc không dễ thực thi, hoặc không phát huy tác dụng ngay trong ngắn hạn, đặc biệt trong bối cảnh giá dầu và khoáng sản yếu, không biết chừng nào mới hồi phục lại.

Các lựa chọn chính sách còn lại cho Nga là tiếp tục dùng dự trữ ngoại hối, tạm thời được cho là lớn, để ổn định tỷ giá; thi hành kiểm soát vốn (capital control); nhờ vả đến IMF (và “đồng minh” như Trung Quốc); và cải cách kinh tế để giảm phụ thuộc vào giá dầu, đồng thời khôi phục, bình thường hóa quan hệ với Mỹ và EU để không chịu thêm các ảnh hưởng từ cấm vận và trừng phạt, vốn là một phần nguyên nhân của, và được khuyếch đại lên trong cuộc khủng hoảng tiền tệ hiện thời.

Đáng lưu ý là hai trong số các biện pháp trên, dùng dự trữ ngoại hối và thi hành kiểm soát vốn, đã được Tổng thống Putin phủ nhận và/hoặc tuyên bố là không muốn/không áp dụng. Việc nhờ đến IMF (kèm theo là các điều kiện), một tổ chức vốn được coi là sân sau của phương Tây, chắc chắn sẽ là điều không hề dễ chịu với Nga, với niềm kiêu hãnh Nga.
Còn “đồng minh” Trung Quốc, tuy cũng đã bày tỏ thiện ý giúp đỡ, chia sẻ khó khăn, nhưng bản thân “đồng minh” này cũng phải đang căng mình trợ giúp Venezuela nơi họ đã đổ nhiều tỷ USD vào, nên sự giúp đỡ “chí tình”, nếu có, và nếu không phải là lời nói đãi bôi, sẽ chỉ có giới hạn.

Trong khi đó, việc cải cách kinh tế, phát triển các ngành kinh tế phi dầu mỏ là những công việc mang tính dài hạn hơn, và không dễ mà thực hiện khi nền kinh tế Nga đã bị chi phối nặng nề bởi các tập đoàn lũng đoạn, các nhóm quyền lợi trong các lĩnh vực tài nguyên liên kết chặt chẽ với chính quyền. Còn việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ và EU (đúng hơn là tuân theo cuộc chơi của họ), với Nga, xem ra là điều cuối cùng nước này muốn làm, có thể làm, trước khi thế giới sụp đổ!

Tóm lại, chừng nào Nga chưa đưa ra được một kế hoạch hữu hiệu từ ngắn hạn đến dài hạn, khôi phục lại được lòng tin trên thị trường rằng nước này sẽ thoát khỏi được cuộc khủng hoảng hiện tại nhờ kế hoạch đó thì chừng đó cuộc khủng hoảng tiền tệ, và hậu quả là suy thoái kinh tế, sẽ còn chưa tìm thấy lối thoát.

Giá dầu và tác động lên Việt Nam trong năm 2015 (Bài đăng trên TBKTSG Online, 31/12/2014)

Bài này được viết từ giữa tháng 11, nên số liệu đã hơi lạc hậu, nhưng ý tưởng thì vẫn không thay đổi
http://www.thesaigontimes.vn/124784/Gia-dau-va-tac-dong-len-Viet-Nam-trong-nam-2015.html

(TBKTSG Online) - Việc giá dầu thô sụt giảm mạnh trong mấy tháng cuối năm 2014, bắt nguồn từ việc Mỹ đẩy mạnh sản xuất năng lượng và Saudi Arabia hạ mạnh giá dầu thô xuất khẩu của mình vào thời điểm nhu cầu tiêu thụ dầu mỏ của thế giới đang đi xuống, đã làm dấy lên những quan ngại sâu sắc về triển vọng tăng trưởng kinh tế chủ yếu ở những quốc gia xuất khẩu dầu thô.

Đối với Việt Nam, một nước xuất khẩu ròng dầu thô với doanh thu từ dầu thô khoảng 7-8 tỉ đô la (với sản lượng khoảng 8-9 triệu tấn/năm) và nộp ngân sách khoảng 4-5 tỉ đô la hàng năm, việc giá dầu thô giảm đi khoảng 20-25% đồng nghĩa với hụt thu ngân sách khoảng trên dưới 1 tỉ đô la/năm (20.000 tỉ đồng), một khoản tuy là tương đối nhỏ so với tổng thu ngân sách (dự tính đạt 911.100 tỉ đồng năm 2015) nhưng cũng là một khoản thu quan trọng trong bối cảnh ngân sách tiếp tục được dự toán ở mức thâm hụt khá lớn, tới 5% GDP năm 2015.
 
Bên cạnh ảnh hưởng trực tiếp lên ngân sách, giá dầu thô sụt giảm kéo theo giá xăng dầu thành phẩm, từ đó làm tổn thất thuế, phí thu từ nhập khẩu xăng dầu và các loại thuế phí liên quan khác gắn liền với giá xăng dầu nhập khẩu.
 
Chưa thấy có những tính toán sơ bộ tổng hụt thu từ việc giảm giá dầu thô ở một số mức, nhưng có lẽ thất thu từ thuế phí ứng với mức giảm giá dầu thô 20-25% sẽ nhỏ hơn đáng kể con số 1 tỉ đô la dự tính cho hụt thu ngân sách từ xuất khẩu dầu thô như nói ở trên.
 
Trong bối cảnh giá dầu thô sụt giảm này, điều đáng lạc quan là tác động tích cực của giá xăng dầu nhiên liệu thấp hơn lên tiêu dùng, đầu tư và do đó tăng trưởng kinh tế.

Cần lưu ý rằng tuy là nước xuất khẩu ròng dầu thô nhưng chênh lệch giữa doanh thu từ xuất khẩu dầu thô và chi phí nhập khẩu xăng dầu nhiên liệu là không lớn ở Việt Nam. Việt Nam vẫn cần phải nhập khẩu một khối lượng sản phẩm dầu gần tương đương với khối lượng dầu thô xuất khẩu (khoảng 7,4 triệu tấn năm 2013). Xét về mặt giá trị, do sản phẩm dầu thường có giá đơn vị cao hơn dầu thô nên chênh lệch xuất nhập khẩu này thậm chí còn nhỏ hơn nữa.
 
Ngược lại với trường hợp giá dầu tăng cao, tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế, khi giá dầu hạ, chi phí cho nhiên liệu trong thu nhập khả dụng của dân chúng sẽ giảm đi, làm cho sức mua của người dân tăng lên. Tương tự như vậy, chi phí vận tải của doanh nghiệp cũng sẽ giảm đi, giúp cải thiện thu nhập của doanh nghiệp, đồng thời cũng giúp doanh nghiệp giảm giá bán sản phẩm và dịch vụ.

Trên giác độ vĩ mô, giảm giá xăng dầu tạo điều kiện giảm giá cả (hoặc chí ít thì cũng giảm bớt đà tăng của giá cả) của nhiều hàng hóa, vốn ít nhiều đều có liên quan đến giá xăng dầu, từ đó giảm áp lực lạm phát. Những yếu tố vi mô và vĩ mô này góp phần cải thiện lòng tin, kích thích tiêu dùng và đầu tư của hộ dân và doanh nghiệp. Có thể ví tác động của việc giảm giá xăng dầu với tác động của việc cắt giảm thuế thu nhập cá nhân và doanh nghiệp, tạo điều kiện cho tăng tiêu dùng và đầu tư.

Đến lượt nó, tăng trưởng kinh tế và thu nhập của các chủ thể kinh tế sẽ giúp cải thiện nguồn thu thuế và phí cho ngân sách, bù đắp một phần (hoặc toàn bộ) cho thất thu ngân sách trực tiếp do giá dầu thô giảm.
 
Với những lý do trên, đi đôi với chênh lệch không lớn giữa xuất khẩu dầu thô và nhập khẩu sản phẩm dầu ở Việt Nam nên giá dầu thô giảm nhìn chung sẽ chỉ bất lợi cho ngân sách, nếu có, trong thời gian ngắn hạn, chứ không nhất thiết là hồi chuông cảnh báo cho triển vọng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, như với trường hợp một số các nước phụ thuộc lớn vào xuất khẩu dầu thô khác.
 
Tuy vậy, Việt Nam cần phải xây dựng một số kịch bản kinh tế ứng với một số mức giá dầu thô khác nhau. Trong trường hợp giá dầu thực sự giảm mạnh đúng như dự báo trong năm 2015 thì Việt Nam cần phải chủ động tiến hành những biện pháp đối phó hữu hiệu xác định trước nào đó để giảm thiểu tác động tiêu cực của giá dầu lên thu ngân sách.
 
Trên góc độ này, khá ngạc nhiên khi thấy dự toán ngân sách của Việt Nam năm 2015 vẫn được xây dựng dựa trên giá dầu dự báo ở mức 100 đô la/thùng, trong khi kịch bản đối phó với giá dầu thấp hơn lại chỉ dừng lại ở việc điều chỉnh sản lượng dầu thô khai thác và dự trữ, mà không hề thấy đề cập đến khả năng phải cắt giảm chi tiêu ngân sách bao nhiêu và cắt giảm cụ thể ở những khoản nào, đồng thời tăng thu từ các nguồn phi dầu mỏ như thế nào, bao nhiêu.
 
Nhìn rộng ra, những giải pháp cắt giảm chi tiêu cụ thể và thiết thực để đối phó với tác động giá dầu giảm như ở Nigeria nêu trên là một tham khảo tốt cho Việt Nam, và không những trong bối cảnh giá dầu sụt giảm mạnh mà còn ngay cả trong hoàn cảnh bình thường, khi xét đến tình trạng thâm hụt ngân sách kinh niên và không có dấu hiệu giảm đi như ở Việt Nam hiện nay.

Box
Dự báo giá dầu thô trong năm 2015 đã liên tục được điều chỉnh giảm song song với diễn biến đi xuống của giá dầu thô giao ngay. Cơ quan năng lượng Mỹ (EIA) hồi giữa tháng 11 đã sửa lại dự báo giá dầu WTI ở mức trung bình trong năm 2015 xuống còn 77,8 đô la/thùng thay vì mức 94,2 đô la/thùng đưa ra hồi tháng 10 (giá dầu WTI được dự đoán đạt trung bình 95 đô la/thùng năm 2014).
    
Các nước xuất khẩu dầu thô khác cũng giảm dự báo giá dầu của mình, đồng thời xây dựng kịch bản ứng phó với hậu quả của giá dầu thô sụt giảm lên thu ngân sách và tăng trưởng kinh tế. Chẳng hạn, Nigeria, một quốc gia xuất khẩu dầu thô lớn ở châu Phi đã dự báo (tại thời điểm viết) giá dầu sẽ chỉ còn 73 đô la/thùng trong năm 2015, thay cho mức 78 đô la/thùng đưa ra trước đó. Đối phó lại với triển vọng này, Nigeria dự định tăng thu từ các nguồn phi dầu mỏ, song song với cắt chi tiêu không cần thiết và lãng phí từ ngân sách. Những biện pháp tiết giảm chi tiêu gồm hạn chế đi công tác nước ngoài của công chức, dừng các chương trình đào tạo ở nước ngoài, và cắt giảm biên chế của chính quyền liên bang.

Saturday 27 December 2014

Những cái sai đằng sau lo ngại lạm phát thấp (Bài đăng trên CafeF, 28/12)

http://cafef.vn/kinh-te-vi-mo-dau-tu/nhung-cai-sai-dang-sau-lo-ngai-lam-phat-thap-201412280909213738ca33.chn

Lạm phát năm nay đã giảm xuống mức thấp nhất trong nhiều năm là tin vui, tốt lành với cả nền kinh tế. Tuy vậy, lạm phát thấp đồng thời cũng làm dấy lên nỗi lo của không ít người khác.

Họ cho rằng: (1) Lạm phát thấp là biểu hiện của tổng cầu yếu, giảm phát (hoặc thiểu phát); (2) Tổng cầu yếu thể hiện ở con số gần 65.000 doanh nghiệp phá sản, ngừng hoạt động, cao hơn so với năm ngoái, tình trạng thất nghiệp cao, hàng tồn kho cao, siêu thị không bán được hàng, tổng mức bán lẻ giảm mạnh; (3) Lạm phát thấp ảnh hưởng nhiều đến động lực sản xuất của doanh nghiệp. Do giá xăng giảm, chi phí đầu vào sản xuất giảm là yếu tố làm giá thành hàng hóa giảm song vấn đề then chốt sức mua người dân yếu, giá rẻ nhưng dân không mua cũng vô ích; (4) Lạm phát thấp dẫn đến việc điều chỉnh thị trường trước các cú sốc không được tốt và nhanh; (5) Lạm phát thấp, không tăng được lợi nhuận trong khi chi phí vẫn cao thì sẽ kìm hãm sản xuất trong ngắn hạn; (6) Trong ngắn hạn đặt ra mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát 3-4% thì tương đương với mức tăng trưởng dưới 6%; (7) Lạm phát thấp làm chênh lệch giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa sẽ giãn ra, dẫn đến dòng vốn đầu tư gián tiếp sẽ đổ vào Việt Nam trong bối cảnh tỷ giá Việt Nam tương đối ổn định. Ngân hàng Nhà nước cần phải đưa ra các giải pháp để vừa duy trì ổn định kinh tế vĩ mô vừa tránh được tình trạng kinh doanh chênh lệch tỷ giá và lãi suất; (8) lạm phát thấp thu ngân sách nhà nước sẽ khó khăn, Chính phủ sẽ tiếp tục thiếu tiền do đầu tư, trả nợ và thực hiện các nhiệm vụ cải cách và phát triển kinh tế - xã hội v.v...

Về ý kiến số 1 nói trên, tác giả bài viết này đã đôi lần phản biện lại rằng lạm phát thấp không nhất thiết là biểu hiện của tổng cầu yếu, bằng một ví dụ đơn giản là sốt cao không nhất thiết là biểu hiện của căn bệnh Ebola, mà có thể là do căn bệnh khác nào đó như viêm phổi.

Hơn nữa, những người lo ngại lạm phát thấp còn sai lầm về khái niệm giảm phát hoặc thiểu phát. Giảm phát là hiện tượng giá cả hàng hóa và dịch vụ nói chung giảm đi (giá cả tăng trưởng âm). Hiện tại, lạm phát tuy thấp nhưng vẫn ở mức dương, lớn hơn 0 nhiều, sao lại nói là Việt Nam đang có giảm phát? Còn nếu nói là Việt Nam đang có thiểu phát thì lại càng sai hơn nữa khi ngoài điều kiện là lạm phát âm (giảm phát), GDP phải tăng trưởng âm thì mới có thể gọi một nền kinh tế là có thiểu phát, trong khi GDP của Việt Nam đã tăng trưởng gần 6% trong năm nay!

Về ý kiến số 2, có thể dễ dàng thấy đây là ý kiến hết sức chủ quan, hời hợt và không chính xác. Ngoài những dẫn chứng thuyết phục bằng những con số cụ thể trên từng lĩnh vực mà Tổng cục Thống kê đã đưa ra gần đây để giải thích tại sao lạm phát thấp và tại sao không thể nói là tổng cầu yếu, cũng như tác giả đã đôi lần viện dẫn đến để phản biện lại luồng ý kiến sai lầm này, có thể chỉ ra thêm một số lỗ hổng trong ý kiến này. 

Ví dụ, về con số 65.000 doanh nghiệp phá sản, ngừng hoạt động, cao hơn năm ngoái tuy có thể là con số thực tế, chính xác, nhưng nêu ra như vậy chỉ là phiến diện nếu người ta quên không kể thêm rằng con số doanh nghiệp thành lập mới và hoạt động trở lại còn lớn hơn con số này. Tình trạng thất nghiệp cao cũng chỉ là một yếu tố cảm tính vì chẳng được củng cố bằng bất cứ dẫn chứng số liệu nào. Về chỉ số hàng tồn kho, tổng mức bán lẻ, doanh số của siêu thị v.v..., rất tiếc là số liệu của Tổng cục Thống kê đã cho thấy rõ là đều cải thiện hơn so với (các) năm trước.

Về ý kiến số 3, vừa không rõ ràng, vừa cảm tính và mâu thuẫn. Nói “lạm phát thấp ảnh hưởng nhiều đến động lực sản xuất của doanh nghiệp”, phải chẳng người ta ngụ ý rằng lạm phát thấp làm cho doanh nghiệp không tăng được giá bán nên không khuyến khích doanh nghiệp tăng cường sản xuất? Nếu vậy thì ý kiến này tự mâu thuẫn vì người ta cũng thừa nhận rằng lạm phát thấp làm giảm giá thành sản xuất. Do đó, biên độ lợi nhuận của nhà sản xuất vẫn được bảo đảm, bất kể họ không tăng được giá bán hàng hóa.

Nói “song vấn đề then chốt sức mua người dân yếu, giá rẻ nhưng dân không mua cũng vô ích” cũng sai vì như đã nói ở trên, chẳng có dấu hiệu nào để mà nói rằng “dân không mua”, nếu không muốn nói ngược lại rằng dân thực ra đã tăng cường mua, thể hiện qua doanh số bán lẻ ròng đã tăng 6,5% so với năm trước và là mức tăng cao nhất trong mấy năm gần đây.

Về ý kiến số 4, nói “lạm phát thấp dẫn đến việc điều chỉnh thị trường trước các cú sốc không được tốt và nhanh” là vô căn cứ và không xác đáng. Lạm phát thấp thực ra là điều tích cực cho các phản ứng chính sách vĩ mô vì nó tạo ra thêm room cho cơ quan chức năng. Ví dụ, nếu có cú sốc về tỷ giá, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có thể nâng lãi suất thêm lên từ mức lãi suất thấp (do lạm phát thấp) để bảo vệ sự ổn định của tỷ giá mà không gây ra tác động tiêu cực quá lớn lên doanh nghiệp do lãi suất vẫn ở mức vừa phải, chịu đựng được. Nếu lạm phát ở mức cao thì buộc lãi suất phải điều chỉnh lên mức cao hơn, và do đó khi NHNN thắt chặt chính sách tiền tệ để bảo vệ tỷ giá, điều đó càng làm cho lãi suất tăng cao hơn nữa, gây khó khăn hơn nhiều cho doanh nghiệp.

Về ý kiến số 5, nói “lạm phát thấp, không tăng được lợi nhuận trong khi chi phí vẫn cao thì sẽ kìm hãm sản xuất trong ngắn hạn” là sai, vì cũng như đã nói ở ý kiến số 3 bên trên, lạm phát thấp thì làm cả giá bán và giá thành hàng hóa đều không tăng mạnh được, dẫn đến biên độ lợi nhuận không thay đổi, và doanh nghiệp thậm chí lại còn có thêm động lực để mở rộng sản xuất để tăng tổng lợi nhuận (dù biên độ lợi nhuận có thể không thay đổi), nếu các tính toán lỗ lãi của họ được bảo đảm ở mức độ chắc chắn nhờ lạm phát thấp và ổn định.

Về ý kiến số 6, nói “trong ngắn hạn đặt ra mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát 3-4% thì tương đương với mức tăng trưởng dưới 6%” là sai vì có nhiều năm/thời kỳ CPI của Việt Nam chỉ ở mức 3%-4% nhưng tăng trưởng GDP vẫn đạt trên 6% như những năm 1997 và 2000-2003 (theo số liệu của ADB). Vì thế, không thể thiết lập một cách định tính tốc độ tăng trưởng GDP với mức lạm phát theo kiểu như thế này được.

Với ý kiến số 7, không thể nói “lạm phát thấp làm chênh lệch giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa sẽ giãn ra” vì, cũng như với khu vực sản xuất, lạm phát thấp làm giảm lãi suất danh nghĩa (cả lãi suất huy động và cho vay), như số liệu công bố của NHNN cho thấy. Bởi vậy, lãi suất thực cũng không thay đổi (lớn), và cũng như vậy là chênh lệch giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực. Do đó, dòng vốn đầu tư gián tiếp đổ vào Việt Nam sẽ không biến động (mạnh), khi các điều kiện khác không thay đổi. Như thế thì gánh nặng của NHNN trong việc “vừa duy trì ổn định kinh tế vĩ mô vừa tránh được tình trạng kinh doanh chênh lệch tỷ giá và lãi suất” là không có gì thay đổi.

Và cuối cùng, với ý kiến số 8, dù lạm phát thấp có thể ảnh hưởng đến (làm giảm) nguồn thu của chính phủ như luồng ý kiến này lo ngại (mặc dù không có lý do xác đáng), nhưng, cũng giống như với nhà sản xuất, lạm phát giảm làm giảm (hoặc không tăng) doanh thu của họ và cũng đồng thời làm giá thành (tức chi) của họ giảm đi (hoặc không tăng), rốt cuộc cán cân thu chi của chính phủ không thay đổi. Vì thế, không thể nói như luồng ý kiến này rằng lạm phát thấp “làm thu ngân sách nhà nước sẽ khó khăn, Chính phủ sẽ tiếp tục thiếu tiền do đầu tư, trả nợ và thực hiện các nhiệm vụ cải cách và phát triển kinh tế - xã hội”.

Friday 26 December 2014

Ăn mừng 2014 và chờ đợi 2015 sẽ tốt đẹp hơn nếu việc ổn định vĩ mô tiếp tục được đặt lên hàng đầu (Trả lời phỏng vấn Đại biểu Nhân dân, 27/12, tiêu đề do báo đặt)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=337024

08:49 | 27/12/2014
Nhìn lại năm 2014, TS PHAN MINH NGỌC, CHUYÊN GIA CỦA NGÂN HÀNG SUMITOMO CHI NHÁNH SINGAPORE cho rằng chúng ta có thể ăn mừng một năm khá thành công trên nhiều mặt. Năm tới sẽ còn tốt đẹp hơn khi tiền đề tăng trưởng và phát triển hơn nữa đã được tạo dựng, trong khi nền kinh tế thế giới có thể tăng trưởng khả quan hơn nhờ giá dầu thấp và các nước phương Tây đã qua đáy của khủng hoảng.
 
Chúng ta có thể ăn mừng
- Cảm nhận của TS về diễn biến của nền kinh tế Việt Nam trong năm 2014?
- Tôi thấy năm 2014 là một năm có tăng trưởng kinh tế tương đối tốt trong sự ổn định cũng tương đối về mặt vĩ mô. Có nghĩa là, nếu tình hình đúng như đã phản ánh qua các con số thống kê thì chúng ta có thể ăn mừng một năm khá thành công trên nhiều mặt, tất nhiên là so với mấy năm gần đây, chứ không phải so với thời hoàng kim ở thập kỷ trước.
- Theo TS, đâu là điểm đáng để ăn mừng nhất?
- Đó là chúng ta đã khá kiên trì với việc duy trì ổn định vĩ mô mà vẫn đạt được một tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối tốt, tuy rằng đã có không ít áp lực do có nhiều tiếng nói, tại nhiều thời điểm kêu gọi một cách vô lý Chính phủ nới cái này, kích cái kia, cứu cái nọ v.v...
Chính phủ thiếu một đội ngũ chuyên gia tư vấn giỏi
- Còn những điểm chưa sáng trong bức tranh kinh tế?
- Điểm tối là chúng ta đã nói nhiều, bàn nhiều quá trong nhiều vấn đề lớn của nền kinh tế mà thực hiện chưa được bao nhiêu, ví dụ, tái cơ cấu, cổ phần hóa.
- Vậy sự chậm trễ này để lại những hệ quả gì?
- Dễ thấy nhất là chuyện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, với mục tiêu cổ phần hóa 432 doanh nghiệp trong 2 năm 2014 - 2015, trong khi số doanh nghiệp đã được cổ phần hóa cho đến thời điểm này (hết năm 2014) mới chỉ là một phần nhỏ của kế hoạch này. Cổ phần hóa chậm trễ đương nhiên đồng nghĩa với việc nhà nước phải tiếp tục nặng nợ với nhiều trong số này, vốn đang làm ăn bê bết, thua lỗ.
 
Rồi chuyện tái cơ cấu hệ thống tài chính, ngân hàng. Kế hoạch đặt ra sẽ sáp nhập, hợp nhất hàng chục ngân hàng nhưng rồi cho đến nay cũng chỉ có một vài trường hợp đã được tái cơ cấu. Những ngân hàng thuộc diện phải tái cơ cấu mà vẫn chưa thực hiện được sẽ tiếp tục là gánh nặng, là nguồn gây bất ổn và rủi ro cho hệ thống ngân hàng.
- Theo TS, làm sao để tiến độ tái cơ cấu nhanh hơn, cần thêm ý chí hay những điều kiện khác?
- Có lẽ là do ý chí, từ cấp cao nhất. Bên ngoài thì có thể nghe, có thể thấy những quyết tâm với quyết liệt, nhưng bên trong có thể vẫn có những mắc mớ, xung đột về quyền lợi nào đó mà người ta đã không dám làm đến nơi đến chốn như đã nói.
- Nhìn lại điều hành kinh tế năm 2014, bài học có thể được rút ra là gì, thưa TS?
- Cái tôi thấy thiếu nhất ở Việt Nam hiện nay là một đội ngũ chuyên gia tư vấn giỏi cho Chính phủ, những nhà hoạch định chính sách có đầu óc kỹ trị. Cứ phân tích các chính sách đã và đang ban hành, các ý kiến trả lời công chúng của các cơ quan chủ quản, các kiến nghị, tham mưu và đề xuất của đội ngũ những chuyên gia quen thuộc hiện nay thì có thể thấy sự bất cập của những chính sách, kiến nghị, tham mưu và đề xuất này, xuất phát từ sự mỏng về trình độ và thiếu về số lượng. Với tình trạng như vậy, không ngạc nhiên khi thấy nhiều chính sách ban hành không đáp ứng được nhu cầu thực tiễn, nhiều ý kiến tư vấn, kiến nghị nếu được thực thi sẽ chỉ gây rối loạn. Ơn trời là mọi việc rồi cũng trôi qua trong năm 2014 và bởi vậy điều mà tôi muốn rút ra ở đây là cần phải phát triển yếu tố con người, nhấn mạnh đến chữ giỏi, về năng lực, về trình độ.
Năm 2015 sẽ tốt đẹp hơn... 
- Triển vọng kinh tế năm tới, chúng ta nên có cái nhìn lạc quan hay bi quan? 
- Trên cơ sở những yếu tố hiện có của bối cảnh kinh tế trong và ngoài nước, năm 2015 sẽ là năm tốt đẹp hơn năm nay, khi tiền đề tăng trưởng và phát triển hơn nữa đã được tạo dựng một phần trong năm nay, ví dụ như ổn định vĩ mô, trong khi nền kinh tế thế giới có thể tăng trưởng khả quan hơn nhờ giá dầu thấp và các nước phương Tây đã qua đáy của khủng hoảng.
- Nhiều người hy vọng Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư sửa đổi vừa được Quốc hội thông qua có thể tạo một làn sóng khởi nghiệp mới trong cộng đồng doanh nghiệp vào năm tới, TS nghĩ sao?
- Tôi nghĩ là dù có hay không những luật sửa đổi này thì tình hình khởi nghiệp kinh doanh cũng không vì thế mà tăng lên hay giảm đi mạnh ở Việt Nam. Cái quan trọng là người ta có tìm thấy cơ hội, và điều kiện để khởi nghiệp hay không. Luật dù tốt, phù hợp đến mấy thì cũng chỉ là hỗ trợ cho quá trình khởi nghiệp này thuận lợi hơn mà thôi, chứ không phải là điều kiện tiên quyết. Những năm trước đây, dù các luật vẫn còn mang tính trói buộc nặng nề hơn, nhưng người ta vẫn đua nhau mở doanh nghiệp, là chứng tỏ điều này.
- Qua những chuyến công tác tại Việt Nam trong năm nay, TS cảm nhận như thế nào về sự chuẩn bị của doanh nghiệp Việt Nam cho các sự kiện hội nhập của năm 2015, như việc thành lập Cộng đồng Kinh tế Asean hay một số hiệp định thương mại giữa Việt Nam và các nước sẽ được hoàn tất?
- Chắc có một phần lớn doanh nghiệp cũng ý thức được điều gì sẽ xảy ra trong thời gian tới. Nhưng tôi không nghĩ rằng họ đã chuẩn bị sẵn sàng cho những sự kiện này theo cái nghĩa là mọi thứ đã được bày ra sẵn sàng đâu vào đấy, chỉ đợi thời điểm các hiệp định này có hiệu lực là họ sẽ bấm nút khởi động, triển khai các dự định, dự án của mình. Đơn giản là dù có muốn thì cũng không thể làm gì được nhiều, vì mọi việc đều ở thời tương lai, đã rõ hình thù cơ hội hay thách thức ra đầu cua tai nheo thế nào đâu mà chuẩn bị, đối phó với lại nắm bắt? Hành động thông thường ở đây là nước đến đâu thì nhảy đến đó, và tôi cho rằng thế là hợp lý, hợp nhẽ.
- Vậy còn những doanh nghiệp nước ngoài TS có dịp tiếp xúc, họ nhìn nhận cơ hội làm ăn như thế nào ở Việt Nam trong năm tới?  
- Câu trả lời tùy thuộc vào từng ngành nghề khác nhau. Với những ngành ví dụ như thép, khoáng sản thì triển vọng không mấy lạc quan, xuất phát từ nhu cầu thấp hoặc dư cung, hay từ sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu. Với những ngành có triển vọng xuất khẩu tốt như điện tử, may mặc, da giày thì sự mở rộng năng lực sản xuất để đón nhận cơ hội mới là chiều hướng chung.
... nếu ổn định vĩ mô tiếp tục được đặt lên hàng đầu
- Theo TS, Chính phủ nên theo đuổi một chính sách kinh tế như thế nào cho năm tới, đặc biệt trong bối cảnh giá dầu tiếp tục lao dốc?
- Dường như mọi người đều nhìn nhận hiện tượng giá dầu lao dốc là điều gì đó ghê gớm, có hại cho nền kinh tế thế giới và cho Việt Nam thì phải? Với quan điểm ngược lại, tôi cho rằng chỉ cần Chính phủ theo đuổi một chính sách tăng trưởng và phát triển cẩn trọng, luôn đặt ổn định vĩ mô lên hàng đầu thì tăng trưởng kinh tế ở mức ít nhất như năm 2014 là điều trong tầm tay.
- Do đâu TS chắc chắn như vậy?
- Có cái kỳ lạ ở Việt Nam là một mặt thì người ta mong mỏi giá cả hạ đi để người tiêu dùng đỡ phải đau đầu hàng ngày với chi phí cho cuộc sống cứ tăng lên mãi. Nhưng mặt khác, khi giá cả tăng chậm lại, hoặc thực sự giảm đi thì người ta lại chuyển sang lo lắng, vì cho rằng đó là biểu hiện của tổng cầu yếu, thiểu phát, và lại mong có lạm phát thì mới yên tâm! Tôi thật chẳng còn hiểu người ta muốn gì, nghĩ gì nữa.
 
Trở lại với giá dầu lao dốc, với tôi là điều rất tốt cho toàn bộ nền kinh tế vì chi phí cho mọi hoạt động kinh tế, mọi sản phẩm và dịch vụ đều giảm đi, ít hay nhiều, tương ứng với giá dầu giảm. Điều này đến lượt nó sẽ lại kích thích sức mua, sức tiêu dùng, nhờ đó kích hoạt hơn nữa mọi hoạt động kinh tế và, do đó, tăng trưởng kinh tế.
 
Trong bối cảnh thuận lợi hơn như vậy, nếu môi trường kinh doanh tích cực được bảo đảm bằng những chính sách kinh tế vĩ mô thận trọng, bám sát theo mục tiêu ổn định vĩ mô thì chẳng có lý do gì mà nền kinh tế lại không đạt kết quả khả quan hơn năm 2014, trừ khi có những cú sốc lớn đến từ nội tại hay bên ngoài.
- Nếu có gì cần phải lưu ý cho nền kinh tế trong năm tới, thì theo TS là gì?
- Đó là sự tự mãn, chủ quan, nhanh chóng thay đổi trong chính sách điều hành kinh tế. Trên hết, cần nhận thức rằng các thành quả đạt được đã không hề dễ dàng và nhanh chóng đạt được, nhưng sẽ nhanh chóng tiêu tan khi các chính sách không có tính nhất quán, chạy theo những mục tiêu ngắn hạn và mang tính thời tiết.
- Xin cám ơn TS!
Hồng Loan thực hiện

Tuesday 23 December 2014

Sự bế tắc của VAMC (Bài đăng trên CafeF, 23/12)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/su-be-tac-cua-vamc-201412231746364502ca34.chn
 
Mới đây, VAMC cho biết từ khi triển khai mua bán nợ đến nay họ đã mua được 107.000 tỷ đồng nợ xấu từ nhiều ngân hàng (riêng năm 2014 đã mua được 67.000 tỷ đồng). Mặt khác, VAMC mới chỉ thu được 4.000 tỷ đồng từ việc bán/thu hồi nợ năm 2014, mặc dù đã vượt so với kế hoạch là 2.500 tỷ đồng. Đáng lưu ý là trong kết quả thu nợ, bán nợ của 2014, có khoảng 50% là những khoản nợ khách hàng đã tự nguyện trả, còn lại 50% là VAMC cùng với tổ chức tín dụng bán tài sản đảm bảo.

Như vậy, có thể thấy về bản chất, VAMC vẫn chỉ là một nơi nhận và giữ nợ hộ cho các tổ chức tín dụng, khi mà con số nợ thu hồi lại được chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng số nợ đã nhận. Không những vậy, đến một nửa số nợ đã thu hồi lại là do khách hàng “tự nguyện trả”, có nghĩa là lẽ ra các tổ chức tín dụng đã có thể thu hồi được nợ mà chẳng cần đến, hay thông qua VAMC làm gì, trừ khi các khách hàng “tự nguyện” này sợ cái oai của VAMC (nếu có) mà phải tự nguyện trả. Đây có lẽ là một trong những nguyên nhân chính, bên cạnh nguyên nhân là VAMC chỉ chọn mua những món nợ “ngon”, làm cho nhiều tổ chức tín dụng được báo cáo là e dè, miễn cưỡng phải bán nợ xấu cho VAMC theo quy định.

Nói về giải pháp giải quyết số nợ đã mua về, VAMC cho biết họ tiến hành phân loại nợ, cơ cấu nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ làm sao cho phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị, trường hợp không thể cơ cấu lại nợ thì mới tiến hành bán nợ, bán tài sản.

Nếu chỉ có vậy, người ta sẽ sẽ khó mà thấy được vai trò thiết yếu của VAMC trong việc giải quyết nợ xấu. Bản thân các tổ chức tín dụng chắc chắn đã, đang và sẽ tiếp tục làm những việc như thế này, và như thế thì sự tham gia của VAMC có chăng chỉ làm rối thêm sự việc, và tất nhiên là tốn kém thêm cho các tổ chức tín dụng chủ nợ vì mọi chi phí xử lý nợ xấu của VAMC đều rốt cuộc đều được cấn trừ vào giá trị còn lại của nợ xấu, trong khi các tổ chức tín dụng có nợ xấu bán cho VAMC vẫn phải có trách nhiệm trích lập dự phòng và tiếp tục xử lý những khoản nợ xấu này.

Và trong việc bán nợ, bán tài sản – điểm nghẽn của việc xử lý nợ xấu ở Việt Nam, đến ngay VAMC cũng đang gặp bế tắc khi họ thừa nhận rằng Việt Nam hiện chưa có thị trường mua bán nợ, mới đang manh nha lập thị trường mua bán nợ. Ngoài ra, tuy VAMC nhấn mạnh rằng muốn lập thị trường mua bán nợ thì họ sẽ là đơn vị tiên phong đứng ra thực hiện việc này, nhưng ngay cả ở điểm này ta cũng khó thấy được vai trò và sự cần thiết của VAMC. Vì, rõ ràng việc thành lập thị trường mua bán nợ xấu chỉ là việc ban hành các luật lệ và khuôn khổ pháp lý để một thị trường như thế ra đời, và để mọi đối tượng nào đáp ứng được các yêu cầu tham gia trên thị trường này, và có nhu cầu thì sẽ được phép tham gia và hoạt động mua bán trên thị trường đó. Nói cách khác, VAMC không phải là cơ quan lập pháp hay quản lý chức năng, mà chỉ đơn thuần là một chủ thể tương lai tham gia trên thị trường mua bán nợ xấu sau này (nếu có), và, bởi vậy, sự “tiên phong” của VAMC vừa là điều không cần thiết, vừa nằm ngoài thầm quyền của họ. Tất nhiên, VAMC vẫn có thể có, vẫn có thể đóng vai trò là tổ chức tư vấn cho nhà nước trong việc thành lập thị trường mua bán nợ xấu, nhưng cũng chỉ đến thế thôi, và việc tư vấn này thì nhiều tổ chức và cá nhân khác cũng có thể đảm nhận (tốt hơn) được.

Trong thời điểm hiện tại, VAMC đang có kế hoạch xây dựng được một danh mục tài sản và giới thiệu danh mục tài sản (nợ xấu cần thanh lý) đối với các nhà đầu tư trong nước và quốc tế. Họ cho biết khi hoạt động mua bán nợ bắt đầu sôi nổi thì sẽ đề nghị cơ chế để hình thành thị trường mua bán nợ. Về điểm này, có thể thấy ngay được sự bế tắc và mâu thuẫn trong định hướng này. Việc xây dựng và giới thiệu danh mục tài sản là điều cần thiết và đương nhiên phải làm với mọi tổ chức có nợ xấu. Nhưng do chưa có thị trường mua bán nợ xấu và chưa có (đầy đủ) những quy định pháp lý về mua bán, sở hữu tài sản nợ xấu, nhất là với nhà đầu tư nước ngoài, thì hoạt động mua bán không thể nào kỳ vọng sẽ bắt đầu, và “sôi nổi” được cả.

Ngoài ra, VAMC cho biết trong thời gian tới, họ sẽ chủ động xây dựng kế hoạch mua bán nợ theo cơ chế thị trường để nó hòa đồng vào cùng với việc mua bán nợ bằng trái phiếu đặc biệt, dẫn đến hình thành dần thị trường mua bán nợ.

Về điểm này, trước hết lại có thể thấy ngay sự không cần thiết của VAMC khi nó được thiết kế ra chỉ để mua bán nợ theo giá trị sổ sách (còn lại sau khi trừ đi chi phí dự phòng) và bằng trái phiếu đặc biệt, là một “sáng kiến” riêng của Việt Nam, là “điểm cộng” trong việc biện minh cho sự ra đời và tồn tại của tổ chức này. Nay nếu vì thấy chức năng chính này của VAMC không hữu hiệu trên thực tế mà buộc phải rót thêm tiền từ ngân sách cho nó hoạt động lấn sân sang việc mua nợ xấu bằng “tiền tươi thóc thật” để sự tồn tại của VAMC có ý nghĩa hơn, thì việc này chỉ là một hành động mang tính “chữa cháy”, không phù hợp và xác đáng, vì không cần đến VAMC (và tiền của ngân sách rót vào đó), các tổ chức tín dụng và các công ty quản lý tài sản của họ (AMC) vẫn đã, đang và sẽ tiếp tục mua bán nợ xấu bằng tiền, theo giá thị trường. Vậy thì hãy khuyến khích sự ra đời và tích cực hoạt động hơn nữa của các AMC, các tổ chức và cá nhân mua bán nợ xấu, bên cạnh VAMC (với chức năng đúng như thiết kế ban đầu, và không tốn một đồng ngân sách nào), trên một thị trường mua bán nợ xấu có tổ chức.

Việc biến hóa chức năng VAMC thêm nữa sao cho sự tồn tại và hoạt động của nó có ý nghĩa hơn cũng sẽ chỉ làm phát sinh thêm những rủi ro khác bắt nguồn từ việc VAMC có quyền quyết định mua nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt theo giá sổ sách, hoặc bằng tiền theo giá thị trường. Việc được phép thực hiện đồng thời 2 chức năng này nếu không được giám sát chặt chẽ (là điều hầu như chắc chắn trên thực tế) sẽ tạo rủi ro thất thoát, tham nhũng lớn.

Monday 22 December 2014

Lợi, hại của đồng ruble mất giá với nền kinh tế Nga (Bài đăng trên CafeF, 23/12)

http://cafef.vn/tai-chinh-quoc-te/loi-hai-cua-dong-ruble-mat-gia-voi-nen-kinh-te-nga-201412230703449671ca32.chn

Đồng ruble Nga mất giá nặng nề đã gây không ít khó khăn cho người dân thường Nga. Với khoảng 30-40% rổ hàng hóa tiêu dùng ở Nga được cho là hàng hóa có nguồn gốc nhập khẩu nên khi đồng ruble mất giá, giá hàng hóa tiêu dùng, nhất là thực phẩm chắc chắn sẽ tăng mạnh.

Hồi tháng 10, khi đồng ruble mới chỉ mất giá khoảng 20% so với USD, một chuyên gia Nga đã ước tính sự mất giá 20% của đồng ruble sẽ làm cho giá thực phẩm ở Nga tăng khoảng 30%. Bởi vậy, khi đồng ruble mất giá thì đối tượng bị thiệt hại trước tiên và nhiều nhất sẽ là người dân thường có thu nhập thấp và cố định khi những hàng hóa tiêu dùng thiết yếu hàng ngày trở nên đắt đỏ hơn rất nhiều.

Điều nghịch lý là lạm phát (đặc biệt là với thực phẩm) lại bị chính chính phủ Nga hun nóng thêm khi họ quyết định trả đũa trừng phạt của phương Tây hồi tháng 9 bằng cách cấm nhập khẩu thực phẩm từ EU và Mỹ. Với nhiều mặt hàng thực phẩm, việc trả đũa này đã ngay lập tực đẩy giá cả của những thực phẩm này lên cao ở Nga trong những tháng qua (ví dụ, theo Cục phòng chống độc quyền liên bang, giá thịt và gia cầm đã tăng lên từ 20% đến 40%, tùy từng loại, trong 2 tuần sau khi Nga cấm nhập khẩu các mặt hàng này), mà chưa cần đợi đến khi đồng ruble mất giá nặng nề như hiện tại.

Đáng lo ngại hơn, đồng ruble mất giá còn gây ra sự hoảng loạn của dân chúng vì lo ngại lạm phát tăng, và điều này lại càng xui khiến người dân mua vét USD để phòng ngừa tài sản của mình bốc hơi và/hoặc kỳ vọng tỷ giá tiếp tục tăng để bán đi kiếm lời. Để dập tắt được cơn chảy máu ngoại tệ này, chính phủ Nga (Bộ tài chính và Ngân hàng Trung ương) buộc phải can thiệp bán USD ra từ các quỹ (dự trữ) ngoại hối của mình, đồng thời nâng mạnh lãi suất tiền gửi đồng ruble, để ổn định lại tỷ giá và tâm lý người dân.

Sự mất niềm tin vào đồng ruble càng kéo dài thì thiệt hại lên dự trữ ngoại hối nói riêng, và cả nền kinh tế nói chung do lãi suất bị đẩy lên cao, càng nặng nề, nên câu hỏi ở đây là liệu chính phủ Nga có thể cầm cự được bao lâu? Nếu không có một giải pháp hữu hiệu để giải quyết tận gốc việc đồng ruble bị mất đi những lực đỡ vốn có (giá dầu thô và sự vững vàng của nền kinh tế Nga) thì cho dù được cho rằng có hơn 400 tỷ USD dự trữ ngoại hối, nước Nga sẽ chỉ có thể đủ khả năng để ngăn không cho đồng ruble rơi tự do (và đi kèm đó là sự suy kiệt quỹ dự trữ), chứ không thể vực nó trở lại được ngưỡng trên 30 ruble/USD như hồi đầu năm nay.

Như vậy, có thể thấy tác động tiêu cực lớn nhất của đồng ruble mất giá mạnh là dẫn đến lạm phát cao, lãi suất cao dẫn đến suy thoái kinh tế, và sự bốc hơi của các quỹ dự trữ ngoại hối của nước này.

Tuy vậy, sự mất giá mạnh của đồng ruble lại làm lợi cho một số chủ thể kinh tế khác. Đồng ruble mất giá mạnh sẽ tác động tích cực tới ngân sách chính phủ Nga, bù đắp cho sự thất thu lớn từ giá dầu thô tụt giảm (đóng góp từ xuất khẩu dầu thô chiếm hơn 50% nguồn thu chính phủ Nga), cũng như cho các nhà sản xuất và xuất khẩu dầu thô của Nga.

Cũng hồi tháng 10 khi cả đồng ruble và giá dầu thô đều đã tụt giảm đáng kể, Bộ trưởng tài chính Nga Anton Siluanov đã được trích dẫn khi cho biết nếu giá dầu thô giảm 1 USD thì dẫn đến một khoản thất thu lên tới 70 tỷ ruble cho ngân sách Nga. Nhưng đồng thời, khi tỷ giá ruble/USD giảm đi 1 ruble thì thu ngân sách Nga lại được hưởng lợi tới 200 tỷ ruble.
Tính toán trên sẽ dễ hiểu hơn nhìn thuần túy vấn đề từ quan hệ giữa phá giá và kích thích xuất khẩu. Khi đồng bản tệ bị phá giá, giá trị xuất khẩu một đơn vị sản lượng tính bằng bản tệ sẽ tăng lên tương ứng với mức độ bị phá giá, giả thiết rằng giá đơn vị xuất khẩu tính bằng USD không thay đổi. Hiện tượng người Việt tranh thủ mua vét hàng điện tử ở Nga, hay trước đó, trong cơn khủng hoảng tài chính ở khu vực năm 1997, người ta đổ xô đi mua hàng hiệu ở Thái Lan, vì giá của nhiều mặt hàng niêm yết bằng bản tệ nhưng trở nên rẻ bất ngờ nếu quy ra USD, là một minh họa cho việc hàng hóa (sản xuất tại) nội địa sẽ trở nên cạnh tranh hơn nhiều so với hàng hóa tương ứng ở các thị trường nước ngoài khác khi đồng bản tệ bị phá giá.

Trở lại với mặt hàng dầu thô, Với mức độ mất giá của đồng ruble Nga lên tới hơn 50% so với USD tính từ đầu năm như gần đây thì biên độ giảm giá này thừa bù trừ cho mức độ suy giảm giá dầu thô xuất khẩu tính bằng USD trên thị trường thế giới hiện nay (khoảng 40%). Nói cách khác, trừ khi nhà sản xuất và xuất khẩu dầu thô của Nga cắt giảm sản lượng khai thác và xuất khẩu, thu nhập của họ bằng đồng ruble thậm chí lại còn tăng lên nhờ đồng ruble bị mất giá mạnh hơn mức mất giá của dầu thô.

Mối lợi tương tự cũng sẽ được gặt hái bởi nhà sản xuất và xuất khẩu dầu thô của Nga, vì giá thành khai thác và xuất khẩu dầu của họ được tính bằng đồng ruble trong khi giá xuất khẩu được tính bằng USD. Khi mức độ phá giá đồng ruble lớn hơn mức độ sụt giảm giá dầu thô xuất khẩu thì nhà sản xuất và xuất khẩu dầu thô của Nga vẫn thu về được nhiều hơn ruble so với khi mọi thứ ổn định. Cho dù sau này, tỷ giá đồng ruble có được ổn định, nhưng vẫn đứng ở mức thấp hơn so với trước đây, thì sự thiệt hại của nhà sản xuất và xuất khẩu dầu thô của Nga từ việc giá dầu thô suy giảm vẫn được giảm thiểu nhờ nguồn thu tính theo ruble vẫn tăng lên đáng kể.

Tóm lại, việc đồng ruble mất giá mạnh đã và sẽ còn gây ra tình cảnh kẻ khóc người cười, nhưng nhìn chung là điều “lành ít, dữ nhiều” nên, cũng giống như với mọi trường hợp khủng hoảng tiền tệ trên thế giới, có thể kỳ vọng rằng sau cơn bĩ cực này nước Nga sẽ có những cải cách kinh tế và chính trị căn bản để giảm mức độ phụ thuộc của nền kinh tế của họ vào biến động giá dầu bằng cách thúc đẩy các ngành kinh tế phi dầu mỏ, và duy trì một quan hệ nồng ấm hơn với phương Tây.

Friday 19 December 2014

Năm tới nhập siêu hay xuất siêu? (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân, 20/12)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=336332

Mới đây, Bộ Công thương dự đoán, trong năm 2014 Việt Nam có thể xuất siêu kỷ lục vào khoảng 1,5 tỷ USD so với các năm gần đây. Tuy nhiên, Bộ Công thương nhận định năm 2015 có khả năng nước ta sẽ quay trở lại với mức nhập siêu 6 - 8 tỷ USD. Có 6 nguyên nhân Bộ Công thương đưa ra để giải thích cho nhận định này.
 
Thứ nhất, trong thời gian qua, cán cân thương mại với xuất siêu chủ yếu từ các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nhưng thời gian tới, việc xuất siêu từ khối này sẽ tăng trưởng chậm lại, tiếp nối đà suy giảm từ những năm trước (kim ngạch xuất khẩu tăng 31% năm 2012, 22% năm 2013, và 12% trong 10 tháng năm 2014), khi các doanh nghiệp FDI đã đạt được công suất nhất định, bảo đảm được lợi nhuận đã đề ra, trong khi các doanh nghiệp trong nước từ trước đến nay vẫn đang tiến hành nhập siêu.
 
Khó có thể thiết lập một xu hướng tuyến tính theo chiều đi xuống của xuất khẩu của khu vực FDI một cách đơn giản như vậy. Chừng nào luồng vốn FDI vào Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng, tình hình kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi, tỷ giá VNĐ/USD được điều chỉnh (phá giá) linh hoạt hơn v.v... thì chừng đó vẫn có thể kỳ vọng sự tăng trưởng khả quan trong xuất khẩu của khu vực FDI. Nói cách khác, để dự đoán xuất khẩu của khu vực FDI tiếp tục suy giảm trong năm tới thì cần phải loại bỏ/phủ nhận được một cách chắc chắn, có căn cứ, các yếu tố tích cực kích thích xuất khẩu của khu vực FDI như thế này.
 
Thứ hai, năm 2015 sẽ mở ra nhiều cơ hội thuận lợi cho phát triển về xuất, nhập khẩu. Tuy nhiên trong giai đoạn đầu năm, xuất khẩu ở Việt Nam thường chưa có khả năng tăng cao về lượng do nguồn hàng trong nước chưa đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng để thâm nhập vào các thị trường. Hơn nữa, từ năm 2011 đến nay, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu có xu hướng giảm dần do giá trị tuyệt đối đang ở mức cao.
 
Có thể nói ngay nguyên nhân này là khá yếu ớt. Tuy có thể đúng rằng đầu năm sẽ là giai đoạn bỡ ngỡ của các doanh nghiệp Việt Nam để thâm nhập các thị trường (mới). Nhưng điều này không có nghĩa là xuất khẩu ở các thị trường hiện tại, ở đà tăng hiện tại không được tiếp tục vì các doanh nghiệp vẫn đang có sự tiếp cận và thâm nhập (tốt) các thị trường và khách hàng truyền thống. Bởi vậy, chỉ cần các doanh nghiệp tiếp tục tận dụng và khai thác tốt các thị trường, ngành, mặt hàng và khách hàng quen thuộc (vẫn sẽ tiếp tục tăng trưởng theo đà tăng trưởng chung của kinh tế thế giới) thì xuất khẩu của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng cả về tốc độ lẫn giá trị tuyệt đối, và còn tăng mạnh hơn nữa vào giai đoạn về cuối năm khi các doanh nghiệp bắt nhịp tốt ở các thị trường và sản phẩm mới.
 
Thứ ba, kinh tế thế giới năm 2015 được dự báo tăng trưởng tốt hơn, triển vọng thu hút đầu tư từ các hiệp định thương mại tự do sắp được ký kết, trong bối cảnh đó nguồn lực đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam để đón bắt cơ hội từ các hiệp định sắp được ký kết sẽ gia tăng. Điều này sẽ làm gia tăng giá trị nhập siêu, bởi các doanh nghiệp sẽ tập trung nhập khẩu nhiều máy móc thiết bị.
 
Về nguyên nhân này, như đã nói ở trên, khi kinh tế thế giới phục hồi mạnh hơn sẽ kéo theo nhu cầu tiêu thụ hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cao hơn. Bởi vậy, một mặt, có thể đúng như Bộ Công thương lập luận, các doanh nghiệp sẽ tập trung nhập khẩu nhiều máy móc. Nhưng mặt khác, sẽ có nhiều doanh nghiệp đẩy mạnh được xuất khẩu của mình nhờ nhu cầu nhập khẩu của thế giới tăng lên. Nói cách khác, không thể suy diễn được rằng nhập siêu sẽ gia tăng khi cầu thế giới gia tăng, nếu không muốn nói rằng điều ngược lại rất có thể sẽ xảy ra.
 
Thứ tư, từ bất ổn chính trị trong quan hệ với Trung Quốc thời gian qua đã khiến việc Việt Nam phải mở rộng, đa dạng hóa thị trường nhập khẩu để không quá phụ thuộc vào một thị trường. Việc phải nhập khẩu ở nhiều quốc gia khác với chất lượng hàng hóa tốt hơn đồng nghĩa với giá thành cao hơn sẽ dẫn tới tổng kim ngạch nhập khẩu tăng, điều này cũng sẽ dẫn đến việc tăng nhập siêu.
 
Nguyên nhân này của Bộ Công thương là phiến diện vì nó đã bỏ qua một số khía cạnh liên quan. Ví dụ, với chất lượng đầu vào nhập khẩu tốt hơn có nghĩa là chất lượng sản phẩm đầu ra của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ cao hơn, ở phân khúc thị trường và sản phẩm cao cấp hơn. Bởi vậy, đành rằng chi phí nhập khẩu sẽ cao hơn nhưng giá bán sản phẩm cũng sẽ cao hơn, và nhà xuất khẩu hoàn toàn có khả năng chuyển được giá thành cao hơn này sang tay người nhập khẩu, tiêu dùng cuối cùng. Thêm nữa, sự chuyển hướng nhập khẩu này còn có tác dụng làm hàng hóa Trung Quốc khan hiếm hơn, hoặc bị e ngại hơn ở thị trường trong nước. Song song với đó, nhập khẩu tăng lên từ các thị trường ngoài Trung Quốc để thay thế hàng Trung Quốc cũng có nghĩa là mặt bằng giá cả của hàng hóa nhập khẩu tăng lên so với giá hàng hóa sản xuất nội địa. Những yếu tố này đến lượt chúng sẽ khuyến khích sản xuất nội địa thay thế nhập khẩu, và tức là có tác dụng tích cực đến giảm nhập siêu.
 
Thứ năm, trong thời gian tới, đặc biệt là từ năm 2015, một số nhà máy nhiệt điện sẽ đi vào hoạt động, Việt Nam phải nhập khẩu than vì nguồn cung than trong nước chưa đáp ứng đủ.
 
Nguyên nhân này cũng bỏ qua một yếu tố tích cực đi kèm với gia tăng công suất phát điện trong nước. Tuy nhập khẩu than sẽ tăng lên nhưng ngược lại, gia tăng nguồn cung điện trong nước cũng sẽ cắt giảm hoàn toàn hoặc hạn chế nhập khẩu điện từ Trung Quốc và Lào, vốn chiếm đến vài phần trăm trong tổng lượng điện năng tiêu thụ trong nước (và quan trọng hơn, với giá cao). Đó là chưa kể đến tác động tích cực của việc tăng công suất phát điện sẽ thúc đẩy sự phát triển thêm nữa của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, và do đó, xuất khẩu của ngành này.
 
Thứ sáu, trong lĩnh vực dầu khí, mặc dù Nhà máy lọc dầu Dung Quất hiện nay đã đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu xăng dầu trong nước, nhưng trong thời gian tới, ngoài việc giảm lượng xuất khẩu dầu thô để chế biến xăng dầu, Việt Nam vẫn phải nhập khẩu dầu thô để chế biến xăng dầu thay cho việc nhập khẩu trực tiếp.
 
Dễ thấy nguyên nhân này không thuyết phục vì tuy kim ngạch xuất khẩu có thể giảm đáng kể do giảm xuất khẩu dầu thô, và ngược lại kim ngạch nhập khẩu dầu thô sẽ tăng vì nhập khẩu dầu thô cho chế biến xăng dầu trong nước, nhưng ở chiều ngược lại, nhập khẩu xăng dầu (có giá trị đơn vị cao hơn dầu thô) sẽ giảm mạnh. Nên khó có thể nói tăng nhập khẩu dầu thô sẽ làm tăng nhập siêu, trừ khi có một tính toán cụ thể bao nhiêu tấn dầu thô, bao nhiêu tấn xăng dầu sẽ được xuất đi, nhập về với giá cả bao nhiêu...
 
Tóm lại, 6 nguyên nhân trên không thể là cơ sở để Bộ Công thương đưa ra dự báo nhập siêu sẽ ở trong khoảng 6 - 8 tỷ USD trong năm 2015. Trên hết, tính bất trắc và đa diện của các vấn đề nêu trong bài này cho thấy rất khó dự đoán.

Thursday 18 December 2014

Tỷ giá sẽ khó tăng mạnh! (Bài đăng trên CafeF, 19/12)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/ty-gia-se-kho-tang-manh-201412190821058903ca34.chn

Tỷ giá năm 2015 sẽ khó tăng trên 2%! Điều này có thể khẳng định ngay được, đơn giản vì đó là định hướng của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNNN) Nguyễn Văn Bình, người từng nói “tôi nói là làm” khi nói về công tác điều hành tỷ giá của họ!
 
Để hậu thuẫn cho định hướng chính sách của mình, ông Bình đã nêu ra một căn cứ quan trọng là cán cân tổng thể được dự báo sẽ tiếp tục ở mức thặng dư lớn, chừng 8 tỷ USD (thặng dư năm 2014, tính đến tháng 11, là hơn 10 tỷ USD). Ngay từ đầu năm 2014 này ông Bình cũng đã tuyên bố nếu có điều chỉnh thì tỷ giá cũng chỉ tăng không quá 2%. Và thực tế là cho đến nay tỷ giá (niêm yết trong hệ thống ngân hàng) vẫn chưa vượt quá mức này.

Đến thời điểm này, có lẽ thị trường không còn dám nghi ngờ quyết tâm “nói đi đôi với làm” của ông Bình nữa, và nếu đúng như ông Bình dự đoán về thặng dư cán cân tổng thể thì có lẽ việc ép biến động tỷ giá không quá 2% là chuyện rõ ràng trong tầm tay của NHNN.
 
Nhưng, điều cần nói ở đây là tại sao với cán cân tổng thể thặng dư lớn như năm nay mà NHNN vẫn phải điều chỉnh tỷ giá, dù chỉ là mức chưa đến ngưỡng 2% như họ đặt ra?

Câu trả lời đương nhiên là do áp lực phá giá (“điều chỉnh tỷ giá”) đến từ việc VND lên giá thực so với USD do lạm phát ở Việt Nam đã cao hơn nhiều so với Mỹ trong đôi ba năm qua trong khi tỷ giá danh nghĩa ít biến động. Kết cục là xuất khẩu chắc chắn đã bị ảnh hưởng tiêu cực từ sự lên giá thực này, là điều mà chính ông Bình sau này cũng phải thừa nhận, để rồi buộc phải “điều chỉnh tỷ giá để hỗ trợ xuất khẩu”.
 
Từ góc độ lạm phát này, có thể thấy NHNN đã rất may mắn khi trải qua gần hết một năm nay mà lạm phát ở Việt Nam lần đầu tiên trong nhiều năm đã đứng ở mức thấp, dự tính trên 2% một chút (và một phần lớn là nhờ giá dầu thô và hàng hóa trên thế giới tụt giảm). Khi lạm phát ở Việt Nam giảm xuống mức thấp như hiện nay, chênh lệch lạm phát giữa Việt Nam và Mỹ có thể đã thu hẹp đến mức không đáng kể, từ đó làm giảm đáng kể áp lực phá giá VND trong năm nay để cải thiện sức cạnh tranh của xuất khẩu của Việt Nam. Trong bối cảnh khá thuận lợi như vậy trong năm nay, dễ hiểu tại sao NHNN lại khá thành công trong việc ổn định tỷ giá mà không gây ra mấy biến động vĩ mô lớn.
 
Và cũng từ góc độ lạm phát này, nhìn sang năm 2015, với mục tiêu lạm phát được đặt ở mức cao hơn, khoảng 4%-5%, rõ ràng có thể thấy “room” để NHNN kiểm soát tỷ giá không còn được “xông xênh” như năm nay nữa, khi VND sẽ lại bị chịu thêm áp lực phá giá, nếu không muốn tiếp tục làm suy giảm sức cạnh tranh của xuất khẩu Việt Nam.
 
Bởi vậy, tuy người ta có thể không còn mấy nghi ngờ khả năng bình ổn tỷ giá của NHNN, và NHNN cũng hoàn toàn có thể có đủ nguồn lực (dự trữ ngoại hối được củng cố nhờ thặng dư cán cân tổng thể) để bình ổn tỷ giá trong năm 2015, nhưng vấn đề rõ ràng là nếu NHNN vẫn cứ cứng nhắc mục tiêu ổn định tỷ giá nói trên để khẳng định thêm uy tín chính sách của mình thì không chỉ xuất khẩu của Việt Nam nói riêng, và do đó, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam nói chung sẽ bị ảnh hưởng lớn hơn trong năm tới, mà nguồn lực của NHNN (cụ thể là dự trữ ngoại hối) sẽ bị hao hụt đáng kể, tính bằng hàng tỷ USD, để can thiệp nhằm bình ổn tỷ giá, như đã chứng kiến trong thời gian qua. Liệu cái giá phải trả này là quá nhỏ để NHNN bỏ qua và tiếp tục cuộc chơi như đã định?
 
Do đó, bài học chính sách rút ra ở đây là NHNN cần uyển chuyển hơn về lập trường chính sách tỷ giá của mình, cân nhắc và đặt nó trong bối cảnh chung có sự hiện diện của các biến vĩ mô khác như lạm phát, lãi suất, và tăng trưởng GDP. NHNN cần tránh để mình bị mắc kẹt vào những cam kết quá sớm (ngay từ thời điểm này cho năm sau) của chính mình trong khi bức tranh kinh tế trong và ngoài nước thay đổi hàng ngày, hàng giờ mà không ai có thể dự đoán, biết trước được, như những gì đã và đang xảy ra dồn dập chỉ trong một hai tháng qua.
 
Nếu bị kẹt vào trong tình trạng thực tế không như những gì đã nghĩ, đã tuyên bố, thì NHNN, nếu không muốn trả một cái giá quá đắt để bình ổn tỷ giá như cam kết, có thể sẽ lại buộc phải phá vỡ lời cam kết của chính mình, để rồi lòng tin chính sách mong manh của công chúng vừa gây dựng được lại một lần nữa tan thành mây khói.

Đột biến tăng trưởng tín dụng: Mừng hay lo? (Bài đăng trên CafeF, 19/12)

 
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới đây đã cho biết con số tăng trưởng tín dụng đưa ra đã có sự đột biến. Cụ thể, tăng trưởng tín dụng đến 27/11 đã tăng 10,22% so với cuối năm 2013. Trước đó, tính đến ngày 24/10, tăng trưởng tín dụng mới chỉ ở mức 7,85%. Như vậy, một lần nữa diễn biến tăng trưởng tín dụng dồn vào cuối năm lặp lại. Và với tốc độ có trong tháng 11, nhiều khả năng NHNN sẽ thực hiện đúng như định hướng đưa ra đầu năm, cả năm tăng trưởng từ khoảng 12-14%.
 
Nguyên nhân tín dụng tăng trưởng mạnh có thể xuất phát từ quyết tâm thực hiện cho được mục tiêu tăng trưởng của NHNN nhằm ghi điểm với quốc dân theo tinh thần của Thống đốc NHNN đã từng phát biểu về tỷ giá rằng “tôi nói là làm”. Với quyết tâm này, NHNN đã không ngừng tăng cung tiền, thể hiện ở tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán đã đạt đến 13,28% vào cuối tháng 11 năm nay so với cuối năm 2013, trên nền của lạm phát đứng ở mức thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây (chủ yếu nhờ yếu tố khách quan, đến từ bên ngoài, như giá dầu thô và giá cả hàng hóa trên thế giới sụt giảm).
 
Tổng phương tiện thanh toán tăng lên liên tục ở mức khá cao đã cải thiện thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, chính xác hơn là dẫn đến tình trạng dư thừa thanh khoản trong hệ thống, thể hiện qua việc NHNN phải liên tục tung tín phiếu NHNN ra để hút bớt thanh khoản từ hệ thống. Thanh khoản dư thừa đương nhiên tạo điều kiện và/hoặc ép buộc các ngân hàng hạ lãi suất cho vay, tìm mọi cách để tăng cho vay theo định hướng tăng tốc độ tăng trưởng tín dụng của NHNN hoàn thành mục tiêu tăng trưởng tín dụng vào thời điểm cuối năm.
 
Nếu như cho vay doanh nghiệp vẫn còn chật vật thì các ngân hàng thương mại và công ty tài chính gần đây đã đẩy mạnh cho vay cá nhân, tiêu dùng, với các gói cho vay khuyến mại với lãi suất ưu đãi để tiêu dùng, mua/sửa nhà, ô tô... Mặt khác, NHNN và các cơ quan liên đới của chính phủ cũng đã tiến hành nhiều động thái nới lỏng về mặt chính sách, thủ tục và điều kiện để thúc đẩy tín dụng ở mảng này, chẳng hạn như trong các gói cho vay mua nhà 30.000 tỷ, gói cho vay đóng tàu sắt theo Nghị định 67 v.v...
 
Đánh giá một cách khách quan, việc “thúc” tăng trưởng tín dụng như thế này không hẳn là điều tích cực, đúng như câu: “giục tốc bất đạt”. Ở một khía cạnh nào đó thì có thể nói tăng trưởng GDP có liên quan đến tăng trưởng tín dụng. Nhưng lưu ý rằng quan hệ này không nhất thiết là quan hệ tỷ lệ thuận, tuyến tính, theo kiểu để tăng GDP thêm x điểm phần trăm thì phải tăng tín dụng thêm y điểm phần trăm.
 
Trở lại với thực tế ở Việt Nam trong năm nay, nếu như nửa đầu năm nền kinh tế vẫn tăng trưởng ở mức trên 5,5% với tín dụng tăng trưởng ở mức “lẹt đẹt” thì trong nửa cuối năm, tốc độ tăng trưởng GDP có nhích lên chút ít nhưng với tín dụng đã tăng mạnh hơn nhiều. Hay tình hình cũng tương tự như vậy hồi năm 2013, với tốc độ tăng trưởng GDP quanh quẩn ở mức trên trong khi tốc độ tăng trưởng tín dụng thấp hơn nhiều so với mức hiện tại của năm nay. Điều này chứng tỏ tăng trưởng GDP có những ngưỡng giới hạn và tín dụng chỉ là một trong nhiều động lực cho tăng trưởng. Nói cách khác, với những điều kiện khác không thay đổi, khi tăng trưởng GDP đạt đến ngưỡng giới hạn, việc đổ thêm tiền (tín dụng) vào nền kinh tế chỉ làm nền kinh tế nóng thêm lên với nguy cơ bùng nổ lạm phát.
 
Ở ngưỡng giới hạn của tăng trưởng GDP, nguồn tín dụng mới đổ vào nền kinh tế có xu hướng không đổ vào nền kinh tế thực (khu vực sản xuất) mà chảy đến những thị trường tài chính và tài sản như bất động sản, đồng thời làm tăng nhu cầu tiêu dùng các hàng nhập khẩu. Hậu quả của xu hướng này là tình trạng lạm phát ở các thị trường tài sản trên, đi kèm với tình trạng nhập siêu tăng lên, gây sức ép lên VND.
 
Những dấu hiệu này hiện đã xuất hiện ở Việt Nam, với giá bất động sản đang có chiều hướng hồi phục và tăng lên, còn nhập siêu đã quay trở lại trong vài tháng qua từ trạng thái xuất siêu trước đó, kết hợp với một số yếu tố khác đã buộc NHNN phải can thiệp để ổn định tỷ giá VND.
 
Như vậy, điều rút ra ở đây là cần phải hiểu được và tìm được điểm giới hạn của tăng trưởng GDP (GDP tiềm năng) trong điều kiện hiện tại để thi hành một chính sách tiền tệ mềm dẻo và thích hợp đặt trong mối tương tác với lạm phát mục tiêu, mà không nhất thiết phải đặt ra một con số “cứng” như mục tiêu tăng trưởng tín dụng (đặt ra ngay từ cuối năm trước), để rồi bằng mọi cách phải thực hiện cho bằng được để “giữ uy tín” hay “giữ niềm tin” mà đôi khi phải đánh đổi bằng cái giá đắt.
 
Còn nếu muốn cải thiện hơn nữa tốc độ tăng trưởng GDP thì điều cần làm không phải là chăm chăm vào mục tiêu tăng trưởng tín dụng phải là bao nhiêu phần trăm, mà là cải cách, tái cơ cấu nền kinh tế để tạo đà tăng trưởng cao và bền vững trong dài hạn, là điều đã được nói đến quá nhiều (và chưa làm được bao nhiêu).

Wednesday 17 December 2014

Đồng ruble Nga mất giá sẽ ảnh hưởng thế nào đến kinh tế Việt Nam? (Bài đăng trên CafeF, 18/12)

http://cafef.vn/kinh-te-vi-mo-dau-tu/dong-ruble-nga-mat-gia-se-anh-huong-the-nao-den-kinh-te-viet-nam-201412180718389036ca33.chn

Đồng ruble Nga đã mất hơn 50% giá trị so với USD từ đầu năm đến nay, chủ yếu do các biện pháp trừng phạt kinh tế của EU và Mỹ, kết hợp với sự suy sụp của giá dầu thô – nguồn thu ngoại tệ chính của Nga.

Sự mất giá của đồng ruble chắc chắn sẽ có ảnh hưởng ở mức độ nào đó lên nền kinh tế Việt Nam thông qua kênh ngoại thương.
 
Đầu tiên phải kể đến xuất khẩu của Việt Nam vào Nga. Trên báo chí gần đây có đăng những câu chuyện về người Việt kinh doanh ở Nga gặp khó khăn thế nào khi hàng hóa nhập về từ Việt Nam được tính giá bằng USD trong khi bán ở Nga thì chỉ thu được ruble, vốn đang mất giá mạnh từng ngày nên giá cả hàng hóa thành ra quá tầm với của nhiều người tiêu dùng Nga, buộc họ phải thắt lưng buộc bụng. Điều này cũng có nghĩa là người kinh doanh Việt Nam không bán được nhiều hàng, và đương nhiên cũng không thể nhập được nhiều hàng từ Việt Nam sang nữa. Đây là một minh họa thực tế và sống động cho tình cảnh đang và sẽ phải đối mặt của doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam có khách hàng nhập khẩu từ Nga.
 
Hiện tại, Việt Nam xuất khẩu sang Nga ngót nghét 2 tỷ USD (1,44 tỷ USD trong 10 tháng đầu năm nay, giảm 10,6% so với cùng kỳ năm 2013). Trong cơ cấu xuất khẩu, các mặt hàng chính là điện thoại và linh kiện (chiếm hơn 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu sang Nga), hàng dệt may và cà phê (đều có kim ngạch trên 100 triệu USD), theo sau là thủy sản, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, giày dép (đều có kim ngạch trên 50 triệu USD) và các loại nông sản khác v.v...
 
Khi đồng ruble trở nên rẻ hơn so với USD (và tức là so với VND), đương nhiên những mặt hàng xuất khẩu chính trên trở nên xa xỉ với nhiều người tiêu dùng Nga, buộc họ phải cắt giảm mua sắm những mặt hàng này. Bởi vậy, những doanh nghiệp và ngành sản xuất những mặt hàng trên sẽ là nạn nhân trước tiên của việc đồng ruble mất giá.
 
Tất nhiên là có những mặt hàng cơ bản không thể không tiêu dùng được, nhưng người Nga sẽ không nhất thiết phải cắn răng móc túi để mua những thứ hàng hóa nhập khẩu đắt đỏ này. Cũng những câu chuyện về người Việt Nam ở Nga trên báo chí cho thấy đã có một số người tính đến chuyện chuyển nghề sang nuôi trồng, sản xuất ngay trên đất Nga để giảm giá thành sản phẩm. Và như thế có nghĩa là sự mất giá của đồng ruble một mặt làm hại cho doanh nghiệp nước ngoài (trong đó có Việt Nam) xuất khẩu vào thị trường Nga, mặt khác lại có tác động tích cực đến nền kinh tế nội địa nước này.
 
Về mặt nhập khẩu, Việt Nam nhập khẩu từ Nga ít hơn là xuất khẩu vào thị trường này (10 tháng đầu năm nay nhập khẩu 768 triệu USD). Tuy vậy, không có nghĩa là Việt Nam không bị hại gì, hoặc bị hại không đáng kể với con số nhập khẩu khá khiêm tốn này. Khi đồng ruble mất giá tới hơn 50% so với USD và cả với VND, hàng hóa xuất khẩu của Nga ra thế giới nói chung và vào thị trường Việt Nam nói riêng trở nên rẻ một cách bất ngờ, “chấp” tất cả các loại hàng rào thuế quan bảo hộ mậu dịch mà Việt Nam đã dựng lên với hàng hóa của Nga. Bởi vậy, kim ngạch nhập khẩu từ Nga chắc chắn sẽ không dừng lại ở con số vài trăm triệu USD như trên nữa mà có khả năng tăng lên mạnh.
 
Xem xét cơ cấu hàng nhập khẩu, có thể thấy những ngành sản xuất trong nước như xăng dầu, phân bón, sắt thép và sản phẩm từ sắt thép, khoáng sản (quặng và than đá) v.v... có khả năng là những ngành bị ảnh hưởng nặng nề nhất do đây là những mặt hàng xuất khẩu chính của Nga vào Việt Nam trong mấy năm qua. Một ví dụ thực tế khác là ngay cả thời đồng ruble đang ổn định, các doanh nghiệp thép Việt Nam đã phải than trời về sự cạnh tranh của sắt thép từ Nga. Nay đồng ruble mất giá mạnh đã tạo thêm khả năng cạnh tranh lớn hơn nhiều cho sắt thép của Nga ở trên thị trường Việt Nam.
 
Chưa dừng lại ở những tác động trực tiếp này, sự mất giá của đồng ruble còn tạo ra những tác động tiêu cực khác cho Việt Nam, cũng qua kênh thương mại, mà hầu như không ai ngờ đến. Đó là sự mất giá “ăn theo” của nhiều đồng tiền của những quốc gia lân bang chí cốt và/hoặc có liên minh, có quan hệ thương mại chặt chẽ với Nga như Kyrgyzstan, Tajikistan, Uzbekistan, Turkmenistan, Kazakhstan, Armenia, và Belarus. Mới tính đến thời điểm tháng 10 là thời điểm đồng ruble mới chỉ bị mất giá khoảng 20% mà đồng bản tệ của các nước này cũng đã mất giá từ 5% đến gần 20% so với USD.
 
Điều đáng nói là một số nước này lại là thành viên của Liên minh hải quan có hiệu lực từ 1/1/2015 gồm 3 nước khởi xướng là Nga, Belarus, và Kazakhstan, và sau này kết nạp thêm Kyrgyzstan và Armenia. Với kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam với chỉ riêng 3 nước khởi xướng ước tính đã lên đến khoảng 4 tỷ USD trong năm 2014 thì rõ ràng tác động bất lợi của việc đồng ruble mất giá kéo theo sự mất giá của đồng tiền các quốc gia này cho Việt Nam qua kênh thương mại như phân tích ở trên sẽ được nhân lên đáng kể.
 
Đáng kể hơn nữa là Việt Nam vừa hoàn tất ký hiệp định mậu dịch tự do (FTA) với Liên minh này, cũng có hiệu lực từ tháng 1 năm sau. Bởi thế, FTA mà Việt Nam ký với khối này lại mở toang cửa cho hàng hóa của họ thâm nhập sâu rộng hơn nữa thị trường nội địa Việt Nam, trong khi thị trường của khối này lại được rào chắn một cách chắc chắn (và không cố ý!) với doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam nhờ sự mất giá mạnh của đồng ruble và các đồng bản tệ trong khối này, tương đương với việc họ áp thuế suất nhập khẩu hàng chục phần trăm, ngoài những rào cản phi thuế quan khác vốn đã làm nản lòng không ít doanh nghiệp Việt Nam.
 
Tóm lại, chừng nào mà đồng ruble và các đồng bản tệ có liên quan còn ở mức yếu và tiếp tục mất giá thì chừng đó Việt Nam tiếp tục bị ảnh hưởng đến mức đáng kể.

Friday 12 December 2014

Tạo đà cất cánh (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân, 13/12)

 
Nền kinh tế đã sắp đi hết một năm với những bất ngờ lớn. Với một bệ phóng vĩ mô được củng cố vững chắc hơn trong năm nay, chúng ta hoàn toàn có thể kỳ vọng nền kinh tế năm 2015 sẽ cất cánh mạnh hơn nữa.
Đầu tiên phải kể đến lạm phát đã có diễn biến bất thường, giảm xuống mức thấp dưới 3% năm nay, là điều từ lâu chưa thấy ở Việt Nam, và nằm ngoài dự kiến của nhiều người.
 
Bất thường này là một nguyên nhân chính khiến cho nhiều người vội vã quy cho là dấu hiệu của tổng cầu yếu. Tất nhiên, khi đã quan niệm rằng tổng cầu yếu thì người ta ắt sẽ liên tục kêu gọi Chính phủ kích cầu bằng cách nới lỏng chính sách tiền tệ và tài khóa để hạ lãi suất, tăng chi tiêu và đầu tư của nhà nước, doanh nghiệp và cá nhân. Để hậu thuẫn cho luận điểm của mình, họ đã đưa ra những số liệu tiêu cực như con số doanh nghiệp phá sản, ngừng hoạt động, giải thể lên đến hàng chục nghìn, mức tăng trưởng bán lẻ không tăng mạnh (so với mức của năm trước), tăng trưởng tín dụng thấp, chỉ số tồn kho cao và chỉ số sản xuất công nghiệp ở mức thấp v.v...
 
Tuy nhiên, bất chấp những bất thường và diễn biến tiêu cực này, tăng trưởng kinh tế năm nay lại gây ra một bất ngờ khác khi nó có khả năng cán đích ở mức 5,8 - 5,9%, là mức cao hơn đáng kể so với 2 - 3 năm trở lại đây. Ở mức này thì đương nhiên luận điểm tổng cầu yếu đã mất chỗ đứng. Nguyên nhân không chỉ đơn giản vì những số liệu tiêu cực trên chỉ được nhìn nhận một chiều (chẳng hạn, con số doanh nghiệp giải thể phá sản tuy có lớn nhưng vẫn thấp hơn nhiều con số doanh nghiệp thành lập mới; chỉ số tồn kho cao có thể vì do cung ở một số ngành tăng quá mạnh v.v...), mà có thể còn do các chính sách vĩ mô của Chính phủ đã mang tính thận trọng hơn, phù hợp hơn, mà điển hình là chính sách tiền tệ được nới lỏng có chừng mực, theo lạm phát mục tiêu; và nền kinh tế đã có tự điều chỉnh về cơ cấu và phân bổ nguồn lực mang tính tích cực hơn. Ngoài ra, cũng cần phải kể đến một yếu tố mang tính thiên thời, địa lợi là giá dầu thô thế giới giảm mạnh, tác động tích cực đến mặt bằng giá cả trong nước, và là yếu tố quan trọng đằng sau sự sụt giảm của chỉ số giá tiêu dùng (CPI) gần đây.
 
Với một bệ phóng vĩ mô được củng cố vững chắc hơn trong năm nay chúng ta hoàn toàn có thể kỳ vọng nền kinh tế năm 2015 sẽ cất cánh mạnh hơn nữa.
 
Ở trong nước, khi lạm phát giảm và ổn định ở mức thấp như hiện nay tạo hậu thuẫn cho các tính toán hiệu quả đầu tư có tính chắc chắn hơn, trong bối cảnh triển vọng tăng trưởng kinh tế sáng sủa, các chủ thể kinh tế sẽ có thêm động lực để tăng cường đầu tư, mở rộng sản xuất, kinh doanh hơn.
 
Với lạm phát thấp và ổn định, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có thêm room để nới lỏng hơn nữa chính sách tiền tệ, tạo điều kiện cho mặt bằng lãi suất trong nước giảm thêm, càng có tác dụng khuyến khích đầu tư và tiêu dùng trong nước.
 
Lạm phát thấp còn tác động tích cực đến tỷ giá VNĐ/USD, tạo được sự ổn định tỷ giá mà không cần NHNN phải can thiệp bằng cách bán USD từ dự trữ ngoại hối quốc gia. Lạm phát thấp ở Việt Nam cũng là một điều kiện cần để tỷ giá VNĐ/USD danh nghĩa ổn định mà không phải đánh đổi lấy sự lên giá thực của VNĐ so với USD, vốn là yếu tố tiêu cực đến tính cạnh tranh xuất khẩu của hàng Việt Nam ra thị trường thế giới cũng như làm hình thành tâm lý kỳ vọng VNĐ bị phá giá trong tương lai để khôi phục lại sức cạnh tranh của xuất khẩu. Đến lượt mình, tỷ giá ổn định và hợp lý (VNĐ không bị lên giá thực mạnh so với USD để rồi dẫn đến kỳ vọng VNĐ sẽ bị phá giá trong tương lai) sẽ tác động tích cực đến sự khôi phục lòng tin của nhà đầu tư nước ngoài, dẫn đến gia tăng các luồng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp vào Việt Nam trong các năm tới.
 
Trong khi đó, với tác động tích cực từ giá dầu mỏ liên tục suy giảm, có thể kỳ vọng một triển vọng phục hồi mạnh mẽ hơn của kinh tế thế giới nhờ gia tăng tiêu dùng do người tiêu dùng thế giới được lợi lớn từ việc tiết kiệm ngân sách gia đình dành cho chi phí nhiên liệu và năng lượng. Sự phục hồi mạnh mẽ hơn của nền kinh tế thế giới được kỳ vọng làm tăng nhu cầu của hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam, dẫn đến sự tăng trưởng mạnh hơn của các ngành sản xuất hướng xuất khẩu.
 
Không chỉ có vậy, giá dầu giảm dẫn đến giá xăng dầu và năng lượng trong nước cũng suy giảm (tuy ở mức ít hơn, vì lý do nói thêm ở dưới đây), nên người tiêu dùng trong nước cũng được hưởng lợi. Bởi thế, với bối cảnh vĩ mô ổn định (không có lạm phát cao cũng như suy thoái) và chi phí dành cho năng lượng và nhiên liệu giảm đi, người tiêu dùng Việt Nam chắc chắn sẽ đẩy mạnh chi tiêu hơn, từ đó tạo tác động tích cực đến các ngành sản xuất và dịch vụ hướng thị trường trong nước.
 
Tuy vậy, cần phải cảnh báo trước 2 xu hướng chính không mấy tích cực có khả năng diễn ra trong thời gian tới. Thứ nhất, đó là sự lạm dụng chính sách, thông qua nới lỏng các chính sách vĩ mô như chính sách tiền tệ và tài khóa quá mức, với lý do là lạm phát đang thấp. Sự nới lỏng quá mức các chính sách này có nguy cơ làm bùng nổ tiêu dùng và tín dụng ngoài tầm kiểm soát, và đẩy nền kinh tế vào một vòng xoáy bất ổn vĩ mô và tăng trưởng thấp khác. Thứ hai, với lo ngại rằng thâm hụt ngân sách sẽ tăng mạnh do thu ngân sách từ xuất khẩu dầu thô và các loại thuế phí lên nhập khẩu xăng dầu bị sụt giảm khi giá dầu tiếp tục đứng ở mức thấp, Chính phủ sẽ tăng mạnh thuế nhập khẩu xăng dầu. Nếu vậy thì tổng cầu sẽ gián tiếp bị ảnh hưởng, trong khi thực ra thì Chính phủ không nhất thiết phải tăng thuế nhập khẩu xăng dầu vì thu ngân sách sẽ được hưởng lợi từ việc gia tăng các hoạt động kinh tế nhờ giá nhiên liệu và năng lượng giảm đi.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).