Thursday 23 January 2014

Thế kẹt (Bài đăng trên TBKTS Online, 23/1/2014, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/Home/taichinh/tiente/109342/The-ket.html
--------------------------------------

Chính phủ đã giao cho Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong năm 2014 này chuẩn bị các điều kiện kỹ thuật và pháp lý để huy động vàng trong dân, ước tính lên đến nhiều trăm tấn, nhằm phục vụ phát triển kinh tế.
Về phương pháp huy động, NHNN đã khẳng định không huy động bằng hình thức truyền thống là thu hút dân gửi vàng lấy lãi tại các ngân hàng, vì nó sẽ làm trầm trọng thêm nạn vàng hóa, vì người dân sẽ có xu hướng chuyển sang đầu tư vào vàng rồi gửi vào hệ thống ngân hàng, vừa có lãi lại vừa bảo toàn được giá trị tài sản của mình trước biến động của lạm phát. Thay vào đó, NHNN chủ trương sẽ mua vàng từ trong dân.

Tuy tỏ ra là một chủ trương đúng đắn và hợp lý, việc mua vàng trong dân của NHNN đang và sẽ nằm ở thế kẹt. Một mặt, NHNN cho biết là họ vẫn chủ trương trong năm 2014 “tiếp tục bình ổn thị trường vàng bằng cách tiếp tục bán vàng qua đấu thầu”. Nếu “bình ổn” bằng cách bán vàng, tức là tăng cung, thì, về nguyên tắc, giá vàng (trong nước) sẽ chịu xu hướng đi xuống hoặc không tăng (mạnh). Thêm nữa, lưu ý rằng NHNN đã từng nhiều lần phủ định mục tiêu của bán vàng qua đấu thầu là để “bình ổn giá vàng”, hoặc để giảm chênh lệch giữa giá vàng trong nước với giá vàng thế giới. Phối hợp 2 chuyện này, có thể thấy mục tiêu của sự “bình ổn thị trường vàng” của NHNN chính là giữ cho giá vàng trong nước đi xuống hoặc không tăng (mạnh).
Mặt khác, nếu NHNN tiến hành mua vàng từ trong dân của (giả sử sẽ bắt đầu trong năm nay), thì hành động này lại đi ngược với mục tiêu bình ổn thị trường vàng của chính NHNN như nói ở trên. Vì việc mua vàng của NHNN (với quy mô đáng kể) sẽ làm tăng cầu về vàng trong nước, và sẽ đẩy giá vàng lên theo. Như thế, tác động của việc bán vàng qua đấu thầu của NHNN để “bình ổn thị trường vàng”, nếu có, sẽ bị triệt tiêu hoàn toàn hoặc một phần bởi việc mua vàng trong dân của NHNN.

Tùy theo quy mô mua vàng so với quy mô bán vàng qua đấu thầu, cung cầu vàng, và giá vàng, có thể trồi sụt bất thường nhiều hay ít. Nếu quy mô mua vàng từ dân không nhiều thì sự thiếu cung (tương đối so với cầu về vàng đã tăng lên) sẽ không trầm trọng, và giá vàng trong nước sẽ chịu ít áp lực tăng hơn. Nhưng như thế thì NHNN lại không hoàn thành tốt nhiệm vụ huy động vàng trong dân do Chính phủ giao, vì lượng vàng mua được là không đáng kể so với quy mô có thể huy động.
Ngược lại, nếu quy mô mua vàng của NHNN mà đáng kể, ví dụ vài chục hoặc hàng trăm tấn, thì chắc chắn việc này sẽ châm ngòi cho một đợt tăng giá phi mã của giá vàng trong nước, đẩy thị trường vàng trong nước vào tình trạng hỗn loạn, đầu cơ tái phát v.v... là những điều “kỵ” trong chính sách quản lý vàng hiện nay của NHNN, khi nhấn mạnh đến hai chữ “bình ổn”.

Không chỉ kẹt về mục đích, NHNN còn đang ở thế kẹt về giá mua và bán vàng. Theo NHNN cho biết trên báo chí, hiện giờ với mức giá chênh lệch vàng trong nước và thế giới vẫn ở mức tương đối cao, trên dưới 3 triệu đồng/lượng, thì khả năng NHNN mua vàng vào là rất khó khả thi. Do đó, NHNN sẽ tiếp tục chiều bán ra qua kênh đấu thầu để bình ổn thị trường vàng.
Qua thông điệp trên, có thể hiểu NHNN muốn bình ổn thị trường vàng ở cái nghĩa là thu hẹp chênh lệch giá vàng trong và ngoài nước để tạo điều kiện cho NHNN mua vàng từ dân chúng. Nếu đúng vậy thì ta lại có thể thấy sự lúng túng, mâu thuẫn về mục tiêu bán vàng đấu thầu của NHNN, lúc thì phủ nhận bán vàng để bình ổn giá, thu hẹp chênh lệch giá trong và ngoài nước, lúc thì (gián tiếp) thừa nhận là để thu hẹp chênh lệch giá trong và ngoài nước.

Ngoài chuyện bộc lộ rõ sự lúng túng, mâu thuẫn về mục tiêu bán vàng qua đấu thầu như công bố, giả sử việc tiếp tục bán vàng ra qua đấu thầu của NHNN đúng là sẽ thu hẹp được chênh lệch giá vàng trong và ngoài nước như ý đồ của NHNN. Nhưng lúc đó, việc NHNN mua lại vàng từ dân chúng là chuyện hoàn toàn khác, vì việc mua lại vàng này của NHNN chỉ có ý nghĩa khi giá mua thấp hơn giá lúc họ bán ra qua đấu thầu (vì nếu ngược lại thì có nghĩa là NHNN bị lỗ từ việc mua bán vàng).
Còn đối với dân chúng, họ sẽ lấy giá vàng trúng thầu để làm giá tham khảo, và thường sẽ không muốn bán thấp hơn giá mức giá này, đặc biệt là với những người đã mua vàng qua đấu thầu (thông qua các tổ chức tài chính tham gia đấu thầu vàng). Mà như thế thì giá mà NHNN muốn và sẵn lòng mua sẽ không phải là giá mà người dân có vàng muốn bán cho NHNN (tất nhiên là cũng thông qua các tổ chức tài chính), và, do đó, việc mua lại vàng từ dân chúng của NHNN chắc chắn sẽ rất khó khăn.

Tóm lại, có thể thấy trước được tình trạng bất khả thi khi phải đáp ứng và giải quyết được những mục tiêu và vấn đề mâu thuẫn trong cơ chế quản lý (và huy động) vàng như hiện tại của NHNN. Giải pháp duy nhất là phải bỏ đi một (số) mục tiêu hoặc gác lại một (số) vấn đề nào đó khi muốn thực hiện và giải quyết (các) mục tiêu và vấn đề khác.

Wednesday 22 January 2014

Đôi điều về PPP ở Việt Nam (Bài đăng trên TBKTSG số ra ngày 23/1/2014, bản gốc)

Bài này tớ tưởng được đăng từ tháng trước nên đã post lên. Nhưng hóa ra là bị hoãn lại nên tớ phải rút xuống. Nay post lại.

------------------------------------
Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB) thì đến năm 2012, GDP trên đầu người ở Việt Nam là 1.596 USD, tăng 2,2 lần so với năm 2006 (dòng 8, bảng dưới đây). Còn nếu tính theo sức mua ngang giá (PPP), quy đổi ra USD giá hiện tại thì GDP đầu người sẽ là 3.635 USD vào năm 2012, chỉ tăng 1,5 lần so với năm 2006 (dòng 10). Vì cả 2 chỉ tiêu này đều được đo bằng USD danh nghĩa (giá hiện tại) hoặc USD theo PPP nên đều có thể dùng để so sánh mức thu nhập đầu người của Việt Nam với quốc tế.
Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao mức tăng GDP đầu người quy ra USD theo PPP lại nhỏ hơn nhiều so với GDP đầu người quy ra USD theo giá hiện tại (tương ứng là 1,5 lần so với 2,2 lần)?

Lý do cho chuyện này nằm ở tỷ giá VND/USD và chênh lệch lạm phát giữa Việt Nam và Mỹ. Tỷ giá trong giai đoạn 2006-2012 tăng 1,3 lần (dòng 12). Trong cùng kỳ này, lạm phát đã tăng gấp đôi ở Việt Nam (dòng 13), so với mức tăng 1,1 lần ở Mỹ (dòng 14).
 Tỷ giá tuy có tăng nhưng tốc độ tăng khá chậm (1,3 lần) so với tốc độ tăng của GDP đầu người tính theo  VND giá hiện tại (2,8 lần, dòng 6), vì thế mức tăng GDP đầu người tính theo USD giá hiện tại trong thời kỳ 2006-12 tuy có nhỏ hơn mức tăng tính theo VND giá hiện tại nhưng vẫn ở mức lớn, 2,2 lần (dòng 8).

Bên cạnh đó, lạm phát cao ở Việt Nam và chênh lệch lạm phát lớn giữa Việt Nam và Mỹ làm cho VND lên giá thực so với USD, làm cho hàng hóa ở Việt Nam ngày càng trở nên đắt đỏ một cách tương đối so với Mỹ. Cùng một ổ bánh mì trước đây ở Việt Nam có giá là 15.000 VND, tương đương 1 USD (tỷ giá là 15.000 đồng/1 USD) thì nay cùng 1 ổ bánh này nhưng do lạm phát cao ở Việt Nam (so với Mỹ) trong khi tỷ giá thay đổi ít hơn làm người mua phải trả số tiền là 30.000 VND, tương đương 1,5 USD (tỷ giá là 19.500 VND/1 USD). Nói cách khác, tuy mức thu nhập danh nghĩa của người Việt Nam có tăng gấp đôi nếu tính theo VND (từ 15.000 lên 30.000), hoặc tăng gấp rưỡi nếu tính theo USD (từ 1 USD lên 1,5 USD), nhưng sức mua thực của 2 mức thu nhập này không thay đổi so với trước đây.
Trong khi đó, GDP đầu người tính bằng USD theo PPP (dòng 10) được tính dựa trên nguyên tắc quy đổi sức mua cho cùng một rổ hàng hóa như trong ví dụ đơn giản trên.  Vì thế,  tuy GDP đầu người của người Việt Nam tính theo USD danh nghĩa có tăng khá mạnh, nhưng khi điều chỉnh theo PPP thì lại trở nên nhỏ đi vì cùng số tiền USD đó nay chỉ mua được một lượng hàng hóa ít hơn so với trước đây. Điều này lý giải tại sao GDP đầu người quy ra USD giá hiện tại tăng 2,2 lần nhưng theo PPP chỉ tăng 1,5 lần trong giai đoạn 2006-12.
Nói cách khác, chính tỷ giá danh nghĩa tăng chậm (phá giá ít) và lạm phát tăng nhanh ở Việt Nam đã tạo ra ảo giác rằng thu nhập của người Việt Nam đã tăng nhanh trong những năm qua.

Tuesday 21 January 2014

Đồng chí Tây này phát biểu đúng nhưng... hơi muộn!

Đọc bài này và liên hệ với bài về động lực tăng trưởng tớ viết hôm trước mới thấy tớ lại... đúng, thế mới chán :)

http://bizlive.vn/kinh-te-dau-tu/ts-andrew-burns-fdi-khong-phai-la-lieu-thuoc-tien-78171.html

Đặc biệt lưu ý đoạn này:
"Chính sách của Chính phủ Việt Nam có thể tác động đến những động lực tăng trưởng dài hạn như đầu tư, nhân tố sản xuất và lực lượng lao động."

Và đoạn này:
"Ông Sandeep Mahajan, chuyên gia kinh tế hàng đầu của WB chia sẻ thêm: “Về giáo dục, hiện Việt Nam đã làm khá tốt nhưng cần có thêm những cải cách trong giáo dục đại học. Đồng thời, hiện Việt Nam là nước xuất khẩu nông sản lớn nhưng để đạt được tăng trưởng, giá trị gia tăng cao hơn thì cần phải hiện đại hóa hoạt động nông nghiệp hơn nữa”.

Hình như mấy ông Tây này phủ định ý kiến của nhóm Fulbright thì phải.

Tuy nhiên, cái chuyện nói rằng FDI không phải là thuốc vạn năng thì tớ đã nói đến cách đây đúng 5 năm rồi; lâu quá rồi nên phải cố nhớ xem viết trên báo nào. Sau một hồi lục lọi thì thấy nó ở đây, trên báo Đại biểu Nhân dân

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=59801

Các đồng chí chuyên gia với làm chính sách cứ chịu khó lục tìm các trước tác của tớ, thế nào cũng thấy ánh sáng soi đường sáng lòe, khỏi mất công đi tìm chân lý nữa!!!

Sunday 19 January 2014

Động lực tăng trưởng: Rõ khái niệm để đúng phương hướng (Bài đăng trên Doanh nhân Sài Gòn, 19/1/2014)

http://www.doanhnhansaigon.vn/online/dien-dan-doanh-nhan/thoi-su/2014/01/1079259/dong-luc-tang-truong-ro-khai-niem-de-dung-phuong-huong/

Gần đây, khi nhận xét về nền kinh tế Việt Nam năm qua, một số tác giả cho rằng trong 4 động cơ tăng trưởng (kinh tế) thì có tới 3 động cơ “nội” (gồm khu vực kinh tế nhà nước, khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước và nông nghiệp) đang trục trặc; chỉ có một động cơ “ngoại” (khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - FDI) đang chạy tốt.

Một số tác giả khác thì kể thêm cả yếu tố tài nguyên như là một động lực tăng trưởng khác nữa, ngoài yếu tố vốn, lao động, và công nghệ.

Một số khác nữa thì chỉ ra năng suất nhân tố tổng hợp như là một động lực tăng trưởng.

Thực ra, ngoài vốn, lao động, những cái gọi là “động lực tăng trưởng” như trên không phải là động lực tăng trưởng kinh tế theo đúng nghĩa của nó, theo người viết.

Đối với một cơ thể con người thì nguồn động lực để con người tồn tại và lớn lên chính là năng lượng mang lại từ sự kết hợp giữa thức ăn, nước uống và không khí, chứ không phải là cách/kênh để nạp những năng lượng này vào cơ thể con người.

Cũng tương tự như vậy, năng lượng cho một nền kinh tế tồn tại và vận hành, tăng trưởng được (tức lớn lên được) đến từ sự kết hợp của 3 yếu tố vốn, nhân lực và công nghệ/chat xám.

Nhân lực - một trong 3 yếu tố góp phần làm tồn tại và tạo ra tăng trưởng kinh tế

Đất đai và tài nguyên tuy có quan trọng nhưng chỉ với tư cách là công cụ để giúp kết hợp 3 yếu tố này với nhau, hoặc là đối tượng của việc sử dụng 3 yếu tố này.

Đất đai và tài nguyên sẽ là không có giá trị nếu không có bàn tay con người tác động vào (khai thác, sử dụng). Nói cách khác, không có nhân lực và vốn cùng với công nghệ tác động đến thì đất đai và tài nguyên mãi vẫn chỉ là đất đai và tài nguyên, vẫn nằm nguyên đó, không đóng góp gì vào quá trình tạo ra sản phẩm và dịch vụ, và do đó làm gia tăng tổng sản lượng nền kinh tế.

Minh chứng thêm nữa, có những quốc gia nghèo kiệt về đất đai và tài nguyên nhưng vẫn tăng trưởng, vẫn giàu có, khi nền kinh tế của họ không dựa vào những ngành công nghiệp “đào bới”. Trong khi có những quốc gia khác ngồi trên đống tài nguyên với đất đai mênh mông mà nghèo vẫn hoàn nghèo, lạc hậu.

Xét từng vùng, từng quốc gia riêng biệt thì vốn, nhân lực và chất xám là đủ để họ có trong tay mọi yếu tố sản xuất và dịch vụ; những gì thiếu/không có thì có thể mua hoặc thuê.

Còn nói về những cái gọi là “động lực tăng trưởng” như FDI, khu vực kinh tế nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân và nông nghiệp, e rằng càng có sự nhầm lẫn về khái niệm. Những cái này chẳng qua chỉ là công cụ, hình thức, hoặc kênh dẫn để phối hợp vốn, lao động và công nghệ với nhau tạo ra sản phẩm và dịch vụ cho nền kinh tế.

Cũng giống một cơ thể con người, nạp năng lượng vào người có thể qua đường miệng, đường mũi hoặc đường máu v.v…, nhưng dù nạp bằng cách nào thì chúng cũng chỉ là một cách/kênh đưa năng lượng (thực phẩm, nước, oxy) vào người để cơ thể hoạt động được, chứ bản thân những cách/kênh nạp này không phải là nguồn năng lượng, động lực của con người.

Đối với cái gọi là “năng suất nhân tố tổng hợp” (tiếng Anh là “total factor productivity”, viết tắt là TFP), thực ra, về khái niệm, nó là một “dư số” trong một hàm số mà vế trái là sản lượng kinh tế (Y), còn vế phải là vốn (K) và lao động (L).

Ở hàm số này, khi K và/hoặc L tăng lên thì Y cũng tăng lên, nhưng thường thường là không tăng tương ứng, và vì thế yếu tố TFP được đưa vào để phản ánh phần Y tăng lên không do K và hoặc L tăng lên.

Như thế có thể thấy TFP bao hàm nhiều thứ không đo đếm được; nó có thể là tiến bộ công nghệ hoặc vốn chất xám của người lao động (nhờ đó làm Y tăng hơn mức mang lại từ việc tăng K và/hoặc L), hoặc cũng có thể đơn thuần chỉ là sai số thống kê.

Do đó, việc kiến nghị phải làm tăng TFP xem ra là quá mông lung, thay vì nói cụ thể là, ví dụ, phải cải thiện tiến bộ công nghệ, hay vốn chất xám, hay hiệu quả (sử dụng các nguồn lực) của nền kinh tế, các thành phần kinh tế v.v…

Một khi đã xác định rõ được như trên rằng động lực cho tăng trưởng kinh tế vẫn luôn chỉ là vốn, lao động và công nghệ/chất xám, thì cũng sẽ thấy rõ hơn phương hướng cho việc hoạch định chính sách để thúc đẩy tăng trưởng của Việt Nam nói riêng trong những năm tới.

Cụ thể là phải làm thế nào đó để cả 3 yếu tố này – vốn, lao động và, đặc biệt là, công nghệ/chất xám – tăng trưởng mạnh hơn nữa.

Trong vô số những việc phải làm theo phương hướng này, chắc chắn sẽ có việc là, nói một cách văn hoa, giải phóng hơn nữa năng lực sản xuất và sức sáng tạo của toàn xã hội. Mà để làm được vậy thì tất nhiên phải cải cách tư duy và thể chế hơn nữa để các động lực kinh tế, đặc biệt từ các kênh phi nhà nước (tư nhân, FDI), không bị chèn lấn, nhường chỗ cho kênh nhà nước.

Cải cách cũng là để bản thân kênh nhà nước có hiệu quả sử dụng vốn và lao động cao hơn, nhờ thế tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ hơn từ cùng một lượng vốn và lao động.

Ngoài ra, tái cơ cấu kinh tế cũng là một biện pháp quan trọng phải thực hiện để đem lại một sự phối hợp tốt nhất giữa 3 động lực tăng trưởng nói trên tùy theo đặc điểm của mỗi vùng, ngành nói riêng và cả nền kinh tế nói chung, trong từng giai đoạn phát triển.

Wednesday 15 January 2014

Bệnh “nghiện tăng trưởng” (Bài đăng trên TBKTSG số ngày 16/1/2014, bản gốc)


Những bất ổn kinh tế vĩ mô suốt 2, 3 qua đã dẫn đến sự thay đổI quan trọng về tư duy phát triển kinh tế của Chính phủ, từ chạy theo tăng trưởng GDP bằng mọi giá sang ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy vậy, dường như chính quyền các địa phương vẫn còn “nghiện tăng trưởng”, và việc theo đuổI tăng trưởng GDP vẫn cứ là ưu tiên hàng đầu trong chương trình nghị sự của họ.
Bệnh “nghiện tăng trưởng” có lẽ bắt nguồn từ tư duy rằng tốc độ tăng trưởng cao hơn sẽ giúp địa phương (và quốc gia) tạo ra thêm công ăn việc làm để giảm tỷ lệ thất nghiệp, nghèo đói vớI tốc độ nhanh hơn. Nếu google vớI cụm từ khóa “phấn đấu tăng trưởng GDP” thì sẽ ra cả hàng trăm nghìn kết quả vớI nguyên cụm từ này đi sau tên các tỉnh, thành phố trên cả nước. Bằng tinh thần “phấn đấu” ở quy mô cả nước này, xem ra việc đạt được tốc độ tăng trưởng GDP cao trong địa bàn tình, thành mớI là điều quan trọng, có ý nghĩa sống còn, hơn là mục tiêu phát triển lành mạnh, có tính bền vững của địa phương đó. Điều lạ nữa, mà thật ra cũng không còn lạ lẫm gì nữa, là các mục tiêu “phấn đấu” tăng trưởng GDP của chính quyền các tỉnh thành này đều thường là ở (gần) mức 2 con số trong vài 2, 3 năm nay, trong khi mức “phấn đấu” cho tăng trưởng GDP của cả Việt Nam chỉ là dướI 6-7%.

Mong muốn cho dân giàu hơn là mong muốn chính đáng, nhưng đây không phảI là mong muốn không kèm theo phí tổn. Phí tổn nhãn tiền chính là nợ công của chính quyền trung ương và địa phương đã và đang tăng nhanh chóng. Nếu tiếp tục google vớI cụm từ “phát hàng trái phiếu địa phương” chẳng hạn, thì sẽ thấy một bức tranh hết sức đáng lo ngạI là không chỉ trái phiếu của Chính phủ mà còn trái phiếu của chính quyền các tỉnh thành đang có xu hướng tăng mạnh, vớI nhiều nghìn tỷ đồng ở mỗI tỉnh, thành đã, đang và sẽ được phát hành. Phí tổn này, nếu không kiểm soát được, sẽ làm mất ổn định hệ thống tài chính của Việt Nam.
Không biết đích xác được tổng số nợ của các chính quyền địa phương Việt Nam là bao nhiêu, nhưng cứ nhìn sang Trung Quốc, một trong số ít quốc gia còn lạI trên thế giớI, cùng với Việt Nam, vẫn duy trì việc đặt ra và theo đuổI mục tiêu tăng trưởng hàng năm – một sản phẩm đặc trưng của nền kinh tế kế hoạch thời Stalin – thì có thể thấy mức nguy hạI của vấn đề. Cũng vớI sự “phấn đấu tăng trưởng” như ở các địa phương Việt Nam, tổng số nợ của các địa phương ở Trung Quốc đã tăng vọt từ 1,7 nghìn tỷ đô la hồi cuối năm 2011 lên 2,9 nghìn tỷ đô la tính đến tháng 6/2013 (tương đương vớI 33% GDP của nước này).

Nợ công (cả trung ương và địa phương) tăng lên sẽ buộc chính quyền các cấp phảI tiếp tục “vay nợ để nuôi nợ”, hoặc từ nguồn vay tín dụng ngân hàng thương mạI, hoặc từ phát hành trái phiếu mớI. Cứ tiếp tục như vậy, việc vay nợ này sẽ đẩy lãi suất trong nước lên cao, gây khủng hoảng thanh khoản và đổ vỡ trên các thị trường như bất động sản và chứng khoán, rồI lan đến hệ thống ngân hàng. Để can thiệp, ngân hàng trung ương phảI bơm tiền vào hệ thống và cứu trợ một số ngân hàng mất thanh khoản, gây áp lực lên lạm phát và sự ổn định của cả nền kinh tế.
Chưa kể, tư duy tăng trưởng nhanh để tạo thêm nhiều công ăn việc làm, đồng thời rút ngắn khoảng cách thu nhập đầu người so với các nước láng giềng có thể đúng và có ý nghĩa với những nền kinh tế có dân số trẻ, tỷ lệ tăng trưởng dân số cao, thất nghiệp lớn nhưng tỏ ra không phù hợp hoàn toàn với hoàn cảnh ở Việt Nam hiện nay nữa. Tốc độ tăng dân số của Việt Nam đã liên tục giảm mạnh, từ trên 2,5%/năm vào những năm cuối của thập kỷ 80 xuống còn khoảng 1%/năm trong mấy năm qua. Bởi vậy, tuy tốc độ tăng trưởng GDP có giảm đi 1 hoặc 2 điểm phần trăm gần đây so với thập kỷ trước nhưng tốc độ tăng thu nhập đầu người vẫn không hề suy giảm, do tốc độ tăng dân số đã chậm lại so với trước. Trong khi đó, tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam, theo con số công bố chính thức, lại đang ở mức rất thấp (đến mức bị nghi ngờ về tính chính xác), và từ lâu đã xuất hiện dấu hiệu của khan hiếm lao động, kể cả lao động phổ thông, ở nhiều nơi, nhiều vùng, thậm chí ngay cả trong những năm kinh tế đi xuống như những năm qua.

Hệ lụy nữa của việc chạy theo tốc độ tăng trưởng là sự tàn phá môi trường. Đất nông nghiệp, đất rừng đã được ưu tiên dành cho những dự án công nghiệp, trung tâm công nghiệp tập trung. Tuy có sức tăng trưởng nhanh hơn, mang lạI nhiều công ăn việc làm hơn nhưng những dự án, trung tâm công nghiệp này lại tàn phá môi trường ghê gớm, thể hiện ở sự nhiễm độc nặng nề đất đai, không khí, và nguồn nước, cùng với sự biến mất mầu xanh của rừng ở nhiều địa phương trong cả nước.
Nợ công tăng nhanh và sự xuống cấp của môi trường đến mức nguy hiểm đã làm thức tỉnh nhiều người. Ở Trung Quốc, con bệnh điển hình của “nghiệ tăng trưởng”, nhiều chuyên gia kinh tế đã đề xuất nước này bỏ hẳn việc xây dựng và công bố mục tiêu tăng trưởng GDP, để tạo hậu thuẫn cho việc chuyển hướng của Chính phủ từ việc theo đuổi mô hình tăng trưởng đặt ưu tiên lên tốc độ tăng trưởng bằng mọi giá sang mô hình tăng trưởng nhấn mạnh đến tính cân bằng và bền vững. Thực tế, Đảng Cộng sản Trung Quốc hồI tháng 12/2013 phảI tuyên bố một chương trình đánh giá thành tích các cán bộ ở cấp địa phương dựa vào chất lượng của tăng trưởng, bao gồm cả yếu tố môi trường.

Tiếc là, một tinh thần đổi mới tư duy và chương trình hành động như vậy vẫn còn là điều thiếu vắng ở Việt Nam, một láng giềng có nhiều tương đồng, cho đến tận thờI điểm này, được minh chứng rõ hơn, như đã nói, ở việc chính quyền các địa phương vẫn đặt ra các mục tiêu tăng trưởng đầy tham vọng, bất chấp hậu quả tiêu cực lên sự ổn định vĩ mô và chất lượng môi trường. Và ở đâu đó, ta vẫn nghe thấy những phát biểu từ một vài quan chức về việc phải đẩy cái nọ, tăng cái kia lên để “phấn đấu” đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP cao hơn năm qua và cao hơn nữa trong những năm tới, bất chấp những nghị quyết với văn kiện nhấn mạnh đến chất lượng tăng trưởng từ những cấp cao nhất.

Thư của bạn đọc gửi liên quan đến đồng chí Huyền Chíp

Hôm trước, có đồng chí gửi tớ link đến thư của đồng chí ấy gửi cho đồng chí Huyền Chíp trên facebook, nhưng tớ không có nên đồng chí ấy gửi bằng email cho tớ. Nội dung của thư có một số chi tiết đáng suy ngẫm nên tớ post lại ở đây để các đồng chí có them cái để đọc. Tớ chỉ post ở đây thôi chứ không có ý định comment gì hết.

-----------------------------------------------------------

Tớ chỉ là 1 anh quèn a dua facebook cho kịp với thời đại chứ cũng ko biết gì về IT cả, nhìn thấy những đóng góp học thuật của Phan tiên sinh bên dưới, tớ hãi quá, xin Phan tiên sinh lượng thứ! 
Blog ko cho up quá 4096 ký tự do vậy tớ đành gửi mail, nếu muốn a Phan có thể up lên blog như là 1 cmt của bạn đọc!
Đây là toàn văn bức thư tớ gủi Chip hôi, để Chip thêm dũng khí vượt qua khó khăn... Tớ chả có tí liên quan nào đến em đó cả, nhưng cũng là thằng đàn ông Viêt nên thấy có nhóc con tinh tướng với Chị Em cũng thấy xấu mặt thay!
 
TẢN MẠN CHUYỆN CHIP, LAN MAN CHUYỆN ĐỜI
Chào em, HuyềnChip,
 
Đọc sách em xong đã mấy hôm rồi, và anh cũng hay theo dõi những phản hồi của dư luận xung quanh cuốn sách vừa ra mắt cùng chút thông tin cần hỏi, hôm nay anh tranh thủ gửi đến em đôi lời. Anh là Thắng, một độc giả dự họp báo và đã xin thông tin của em hôm ở L’espace tháng trước.
Anh tình cờ tìm thấy tập 1 Xách ba lô lên và đi trong thư viện Hà Nội cách đây không lâu, và đã tò mò đọc hết cuốn sách dù không có nhiều thời gian bởi anh cũng là một người đã và cũng rất thích đi du lịch, tìm hiểu các nền văn hóa. Thú thật, lúc đầu anh hơi choáng và rồi khâm phục khi biết tác giả của nó là một cô gái mới chỉ 19, đôi mươi!
Đã lâu rồi mới xuất hiện một sự kiện văn hóa đặc sắc trong giới trẻ, và nó hoàn toàn khác với những vụ ồn ào, khoe thân khoe “bị” kiểu hãnh tiến, trọc phú đang diễn ra như nấm sau mưa trong xã hội Việt Nam hiện nay... Những sự kiện tích cực đã ít, sự kiện về sách lại càng ít hơn, mà lại là chuyện thật, li kỳ kiểu “Papillon” của Henri Charrière nên lại càng trở nên bom tấn giữa rừng sách sáng tác.
Trong cơ man những thông tin, hình ảnh khoe khoang sự hoành tráng, phong phú của cơ ngơi các Sao Việt, có lẽ có một chi tiết mà ít người Việt Nam trong nước để ý, phát hiện! Đó là: Anh chưa bao giờ nhìn thấy phòng đọc sách, thư viện gia đình hay thậm chí chỉ 1 tủ sách của họ, thay vào đó là những xe cộ, nội thất, túi xách, quần áo, giày dép v.v., ngồn ngộn tầm thường… Vậy nó nói lên điều gì? Chính là sự thiếu vắng, nghèo nàn đến thảm hại về tri thức, dân trí, của đời sống tinh thần của một bộ phận tầng lớp mới giàu lên, vốn được coi là những thần tượng ở Việt Nam. Thế nên cũng chẳng có gì lạ khi thống kê cho biết người Việt đọc sách thuộc loại ít nhất thế giới. Không phải ngẫu nhiên sự thịnh vượng của 1 đất nước luôn tỉ lệ thuận với tầm cỡ ngành xuất bản.
Nhìn ra các xứ phát triển, tầng lớp trung, thượng lưu của họ thường là những người có tầm, yêu văn hóa, trọng tri thức, họ luôn dành một nơi trang trọng, yên tĩnh làm một thư viện nhỏ, cũng là để hướng văn hóa đọc cho con cái. Các vua chúa châu Âu cũng như chính quyền kế tiếp thì khỏi nói, đã xây dựng cho xã hội những thư viện không thể hoành tráng hơn, không thể trang trọng hơn với những bộ sưu tập sách đồ sộ… A. Einstein từng bàn về giáo dục, đại ý: Cần phải hướng con người tới những giá trị nhân bản, nếu không anh ta, với kiến thức chuyên môn hoá sẽ giống như một con chó được huấn luyện tốt, chỉ tôn thờ sự thành công hám lợi như một sự chuẩn bị cho sự nghiệp tương lai, thay vì phục vụ xã hội một cách cao cả (đúng là hiện trạng chúng ta). Nhà văn quen thuộc Nguyễn Nhật Ánh cũng viết: Đồng tiền mang khuôn mặt của người cầm (dùng) nó...
Trở lại chuyện Chip, chiều hôm 18/9 tình cờ đọc được tin trên mạng thông báo Huyền Chíp sẽ tổ chức họp báo và ra sách tập 2 Xách ba lô lên và đi, anh đã quyết định đến. Lần đầu tiên nhìn thấy nhân vật chính, anh hơi ngạc nhiên khi thấy Chip không có cái vẻ “bụi bặm”, “phượt thủ prồ” mà anh đã từng gặp ở giới trẻ nước ngoài, trái lại là một cô gái trông cũng “hay hay”, dễ mến, có vẻ ít quan tâm đến ngoại hình, giản dị, tóc dày tự nhiên, lại có vẻ dịu dàng nữa, điều đó khác nhiều với những cô cùng trang lứa trong nước tuy táo tợn trong ăn mặc, hành xử (nhiều người gọi không đúng lắm là Tây hóa) nhưng có khi lại “sọc dưa”, khóc nhè nếu chẳng may lỡ chuyến xe cuối cùng trong đêm vắng... Liệu đây có phải là một lý do mà nhiều độc giả đã sinh nghi ngờ về tính chân thực của câu chuyện?
Nhân đây anh cũng nói qua về mình, anh là dân 7x, từng du học và làm việc tai Tiệp Khắc cũ (nay là Cộng hòa Séc), rồi qua Đức, Pháp, Bỉ,... lang thang cũng cỡ chục nước Châu Âu. Vì thế, anh cũng đã từng nếm trải những màn ngủ vạ, ăn uống thất thường thiếu chất, hay vượt biên, trốn vé, v.v... Nên rất thông cảm và hiểu những gì em đã kể lại trong sách, dù châu Âu có khác đi chăng nữa nhưng cũng đủ các vấn đề, và mùa đông rất lạnh; Chip’s story không phải là chuyến dạo chơi lãng mạn dành cho kẻ nhút nhát, yếu đuối, đó là chuyến đi bão táp, là bài thực hành tốt nghiệp đại học kỹ năng sinh tồn, đó như là cuộc “thập tự chinh-hành hương” trở về với bản ngã, đến với đam mê...
Dù em ít kể những chi tiết vặt, nhưng là người cũng đã từng tự lập khá lâu, anh biết luôn có những phiền toái mọi lúc mọi nơi mà ta phải tự tìm cách giải quyết. Như đang đi chỗ đông người, bất tiện lại rất cần nhà vệ sinh, hay cuốc bộ nhiều quá đến nỗi đêm về buốt tận óc, tê dại hết 2 chân không tài nào ngủ được, hay nhầm đường sau khi đã hăm hở một quãng dài, rồi mất nọ mất kia, giày phồng chân hay đơn giản là cả tuần chưa tắm, da kém cảm giác với quần áo bết nhớp khó chịu… và lại còn đống hành lí ăn bám sau lưng nữa chứ.
Trước nay, người Việt nam ta chỉ loanh quanh với “giặc ngọai xâm”, “cơm áo”, “bằng cấp...” mà quên đi những trải nghiệm “sống” khác. Khái niệm đi du lịch hay xuất ngoại cũng chỉ mới xuất hiện trong dân cỡ 20 năm nay, thế nên con người rất ít được mục sở thị bên ngoài, nhiều người cứ nghĩ nước nào cũng như ta!? Thêm vào đó, ảnh hưởng nặng của văn hóa Khổng Giáo ưa an nhàn, nhu thuận, an toàn, ngại dư luận, bề trên luôn đúng v.v, thế nên cả dân tộc Việt như tự giam hãm chính mình... Chả thế mà dù chúng ta tự hào là thông minh, khéo tay, nhưng đến nay cũng chẳng làm nổi một chiếc đồng hồ! Chả thế mà dù có hàng ngàn km bờ biển, nhưng ngàn năm ta vẫn sống như một dân tộc lục địa, chả dám vươn ra biển lớn khám phá, đến muối ăn có lúc còn thiếu và đắt, chứ đừng nói đi chinh phạt bờ cõi khác... Chả thế mà Nguyễn Trường Tộ đã suýt bị vua Tự Đức xử trảm sau khi ông đi sứ Pháp về ca ngợi nền văn minh công nghiệp với cái đèn treo ngược (bóng điện) vì tội “vọng ngữ khi quân” (dối vua)... Và cũng bởi ít được giao lưu với thế giới, nên dân Việt tới giờ vẫn thích ôn cố, hay nhắc về những chiến thắng quân sự để tự hào (ăn mày dĩ vãng - Chu Lai), dù chính đáng nhưng sao vẫn thấy buồn lòng chua xót, trong khi các dân tộc văn minh khác đã tiến xa và thích tự hào, tôn vinh các giá trị tri thức thay vì say sưa trong vinh quang xương máu…
Có một câu chuyện không biết thật hay vui, là có lần báo chí phương Tây phỏng vấn một cụ bà đắc thọ Bách niên ở Việt Nam (anh không nhớ tên): “Cụ đã đi đâu bao giờ khỏi quê mình chưa?”. Cụ bảo: “Từ nhỏ đến giờ tui chỉ mò cua bắt cá, vui sống với con cháu ở làng thôi!”, thế là họ kết luận: “Thế thì Cụ chưa bao giờ SỐNG cả!” .
Các dân tộc phương Tây, cụ thể Đế quốc Anh thế kỷ 17 dù chỉ có vài triệu dân nhưng đã thống trị khắp thế giới, hay Bồ Đào Nha, Hà Lan bé tí teo nhưng đô hộ tận Macao, Indonesia..., và cũng cần biết, nhiều khám phá, phát minh lớn lại không phải là kết quả từ những nỗ lực kiểu chính quy, bài bản, của những con người được đào tạo đúng chuyên môn, mà đến từ sự tình cờ, ngẫu nhiên, phi quy luật, hay những quyết tâm, đam mê cháy bỏng ngoài ngành. Ví dụ, phát minh ra máy bay là của anh em nhà Wright vốn chỉ là nhà sản xuất xe đạp, trong khi đó Chính phủ Mỹ đầu tư cho cả một đội ngũ khoa học để tìm cách phát minh ra cỗ máy nặng hơn không khí mà bay được thì hết thất bại này đến thất bại khác, rồi Edison, Honda cùng bị trường lớp chính quy coi là đồ bỏ,… hay gần gũi hơn như thày giáo dạy sử Võ Nguyên Giáp...
Tất cả những lùm xùm quanh cuốn Xách ba lô lên và đi gần đây đã phần nào tố cáo chủ nhân của chúng đích thị là con cháu của dân tộc vẫn “say sưa dưới chiến hào”. Nếu cuốn sách phát hành ở một quốc gia khác, văn hóa khác, chắc chắn sự đón nhận của độc giả cũng rất khác, có thể được ca ngợi hay quên lãng vì cũng không có gì mới (phương Tây chẳng hạn), hay thậm chí còn bị “Ném đá” mạnh hơn cả Việt Nam (hồi giáo chẳng hạn).
Dù anh biết có một số chi tiết trong sách không hoàn toàn chính xác, nhưng nó không nghiêm trọng, bởi sự việc được mô tả bởi một cô gái trẻ, và nói chung, Nữ thể hiện chắc chắn khác Nam. Đọc sách Chip, anh thấy nhiều đoạn về văn hóa, con người bản địa khá tinh tế, sâu sắc và nhân bản, điều mà nhiều cô gái sống ở Việt Nam ngày ngày chỉ quen với gia đình, con cái, giá son giá váy bon chen, hay tác giả nam... không bao giờ có thể có được! Sự nhạy cảm nữ tính và tình yêu, sự hồn nhiên tươi trẻ rất teen, duy tình chứ không duy lý, đó chính là thế mạnh và cái đẹp của cuốn sách. Nhưng nó lại ít các yếu tố định lượng định tính, mang tính kỹ thuật như thời tiết, nhiệt độ, thủ tục, những con số chính xác, không gian v.v. khô khan lạnh lùng, cái mà nam giới lại mạnh, thế nên câu chuyện không thể đánh giá theo kiểu cẩm nang du lịch. Anh cũng biết em từng là học sinh chuyên cua ĐH Khoa học Tự nhiên và khỏi phải nghi ngờ về sự thông minh trừu tượng của Chip ở đây, nhưng trong văn chương, nữ vẫn luôn có cách biểu đạt riêng!
Anh đã gặp nhiều dân phượt, lang thang ở châu Âu, đủ các thể loại, phải công nhận người Tây phương rất năng động, hướng ngoại, thích khám phá di chuyển, dù không phải ai cũng có tiền, thế nên không tiền thì đi kiểu không tiền, có sao đâu! Với họ, đợi đủ tiền để đi là một sai lầm lớn. Họ chỉ có một lợi thế duy nhất so với ta là mang hộ chiếu của các nước phát triển, hay còn gọi là thế giới thứ nhất (ta, các nước châu Phi v.v. là thế giới thứ ba) nên xin visa khá dễ dàng, yêu cầu ít, nhưng cũng không được làm việc nếu không có giấy phép. Có cô người Australia có vài ngón ảo thuật, thế là đi đến đâu gặp quảng trường (các thành phố châu Âu đều có khá nhiều không gian công cộng để dân vui chơi, tụ tập) là cô ấy cũng biểu diễn rồi chìa cái mũ xuống hè để ai thích thì cho. Hay nhiều anh Tây lang thang kéo đàn, vẽ chân dung cho khách, hay dân da đen thường có trò tết tóc kiểu Phi 5-10$/cái, v.v… (cái này em biết rồi). Điều muốn nói ở đây chính là bản lĩnh tự lập, không dựa dẫm của họ, khác xa cái văn hóa bao bọc của dân Việt mình (nếu an phận ngồi nhà, thì các nước phương Tây luôn có chế độ an sinh xã hội, trợ cấp tối thiểu hàng tháng cho họ).
Còn nói về sự chân thực, có lẽ xã hội ta đang có quá nhiều giả dối trong mọi lĩnh vực nên người dân rất nhạy cảm chăng, ít có sắc dân nào luôn phải căng mình ra để đối phó, cảnh giác trong đời sống như dân Việt... Ai mà biết được có bao nhiêu thanh niên đã hy sinh bởi ảnh hưởng từ bài thơ “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” của Tố Hữu, người khi viết còn chưa bao giờ đặt chân đến đó. Ai mà biết được có bao nhiêu thiếu niên đã bỏ mạng vì học theo gương Kim Đồng, Lê Văn Tám, những “con người” chưa bao giờ tồn tại trên cõi đời này… nhưng lại ngự đàng hoàng trong nhiều cuốn sách và còn không ít ví dụ dân đen không muốn kể vì nhạy cảm… Thế nên cái xứ Việt mình còn mệt, thấy con mèo trộm con cá nhép thì đánh trối chết, còn thấy ông Ba mươi tha cả con lợn của hợp tác thì cũng đành im cho lành... Chúng ta đang chịu hệ lụy không nhỏ của một hệ thống ngược: Có uy tín vì có quyền thay vì uy tín tạo ra quyền lực; Giỏi vì có bằng cấp thay vì có nhiều cống hiến cho xã hội; Có lẽ phải vì là lãnh đạo thay vì trở thành lãnh đạo vì mình đúng đắn... (Thẳng Thắn Thật Thà Thường Thua Thiệt, Lọc Lừa Lươn Lẹo Lại Lên Lon). Nếu ai đó muốn nổi tiếng, hay trả lại “sự thật, công lý” trong các ấn bản phẩm thì tôi thấy có nhiều đề tài tầm cỡ, xứng đáng hơn nhiều. Sao không tìm “sự thật” trong văn thơ bốc thơm, trơ trẽn của TH, trong nhật ký của bác Trần Dân Tiên, trong đời tư còn đầy bí ẩn, li kì của Chủ tịch vĩ đại, hay trong vô số sách lịch sử đã bị xào xáo cho phù hợp khẩu vị một số người... Hay có lẽ cũng biết rõ không nên phản biện với cái còng, nổi tiếng trong nhà đá thì chẳng có ai tung hô... nên rỉa róc chuyện rong chơi của một con nhóc là dễ và an toàn nhất... Một quan chức Công an ta từng nói: Phản biện hả, Phản biện là phản động, chúng tôi có đủ cách đối phó không hề thua kém ai... Ts. Hà Huy Khoái, nguyên Viện trưởng Viện Toán học từng nhận xét chí lí: "Việt Nam làm gì có Khoa học xã hội, tất cả đã bị gói gọn bởi tư tưởng Mác-Lênin"... Ai đó mà tài giỏi phán xử được những người có trách nhiệm hay lành mạnh, trong sạch hóa cỗ máy thông tin, tuyên truyền thì dân Việt hưởng đại phúc.
Nói về tấm gương, tính âm dương, hai mặt tốt xấu luôn thường trực trong mọi phạm trù, tùy người nhìn nhận, khai thác nó. Anh ca ngợi Bill Gates, tôi bảo xấu vì ông ấy bỏ học, khó tính, hay chê bai người khác. Steve Jobs: bỏ học, tuần tắm 1 lần, rất lập dị, cũng xấu! v.v. Sự ồn ào, khoe khoang của một số người Việt, một mặt thỏa mãn cái tôi, động lực phấn đấu cho nhiều người, nhưng mặt khác đã cổ xúy, đề cao, lan truyền lối sống vật chất, phù phiếm, bề ngoài giả tạo, nông cạn, thói sĩ diện, “nổ”, đang là căn bệnh mãn tính của người Việt Nam. Stephen Hawking, khoa học gia lỗi lạc về vũ trụ thiên văn, đã đúc kết: Đừng tìm kiếm sự hoàn hảo, bởi đơn giản là nó không tồn tại!
Ta vẫn thấy có những hiện tượng, nhân vật xuất chúng trong nhiều lĩnh vực nhưng khởi đầu, tuổi thơ lại chẳng có gì ấn tượng! Hay học cái này nhưng sau lại tỏa sáng ở cái khác chả liên quan gì! Ở đây, nếu ta cứ cố gắng phân tích, suy luận kiểu lý trí để tìm lời giải đáp thì thường đi vào ngõ cụt, mọi lý lẽ đều có vẻ không ổn. Ví dụ, sao cái ông B. Gates, Honda bằng cấp chẳng có mà lại giỏi thế? Sao thày giáo dạy sử Võ Nguyên Giáp lại có thể trở thành thiên tài quân sự? Sao cái cô Chip đang học giỏi, có tương lai thế, hay đang làm công việc ngon thế, bao người mơ chẳng được tự dưng lại bỏ ngang lang thang?! Trông như cái kẹo ấy mà đòi chu du! Tôi đầy tiền, chơi tennis, thể hình, bồi dưỡng các kiểu, chỉ loanh quanh ở đây, thế mà có thoát được ốm đau đâu. Chắc có đại gia, đại điên nào đó chu cấp thì ai mà chả làm được... Điên!? Hỏng!? Phét! PR? hay độc miệng hơn (kiểu VN): Nhà vô phúc!
Nhưng phương Đông có cách lí giải tuy siêu hình, thần bí nhưng thỏa đáng: Đó là ĐỊNH MỆNH của người đó là vậy! Vâng, Thuyết Định mệnh. Dù thế nào thì tất cả vẫn cảm thấy có tồn tại một sức mạnh siêu nhiên nào đó chi phối cuộc đời chúng ta. Vì thế, cùng khả năng, nhưng có người làm được những việc lớn lao, có người chỉ ngồi nhà gặm nhấm những giấc mơ và tin rằng, mình không làm được thì không ai làm được, vì “nó” có hơn gì mình đâu. Đơn giản là làm theo tiếng gọi của đam mê, tiếng gọi của Định mệnh, cứ xốc tới... và điều kỳ diệu, phi thường xuất hiện. Khát khao, say mê, sức sáng tạo hay gì đó thuộc về tinh thần, đều là sức mạnh mà Đấng Tạo hóa ban tặng cho ai Ngài thấy thích hợp. Nó không nhân bản, copy được, không mua bán, học theo được, không mượn được…
Nếu sau này em thích, anh thấy em hoàn toàn có thể mở dịch vụ tổ chức tour du lich chuyên khám phá thiên nhiên hoang dã châu Phi (Safari - loại hình này còn mới lạ nhưng chắc sẽ đầy hấp dẫn với dân ta).
Thư cũng đã dài, nên để kết thúc anh dành chỗ xin hỏi em một chút. Anh luôn ao ước đi thăm một chuyến Ân Độ, Nepal tầm 1 tháng gì đó, anh không thích tour mà định xin visa để tự đi. Tiền bạc, ăn ở trọ không lo. Nếu em có thời gian thì cung cấp cho anh một số thông tin về thủ tục Visa cho khách lẻ, nên đi theo lộ trình thế nào, nên thăm những đâu, các phương thức thanh toán, đổi tiền, các trở ngại v.v... vì anh biết Ấn Độ rất mênh mông...
Và để kết thúc, anh có lời khuyên là sau này có đi dài ngày nữa, nên chuẩn bị hành trang chuyên nghiệp hơn. Vì theo như trong sách, hình như không thấy Chip nói đến bao giờ các đồ dùng mà dân Tây ai cũng mang: túi ngủ, thuốc men, đồ sơ cứu, chống muỗi, thiết bị (device) an ninh như bình xịt cay (cái này có kể), báo động phát tiếng kêu lớn, v.v. Qủa thật, cuốn sách một phần hấp dẫn cũng là bởi người ta muốn biết làm thế nào một cô bé không chút kinh nghiệm bên ngoài, tài chính eo hẹp, chuẩn bị sơ xài lại có thể đi qua hàng chục quốc gia, trong đó có quốc gia được coi là nguy hiểm khi du lịch, trở về bình an. Nếu một lính Mỹ hay một nhà thám hiểm thâm niên, trang bị tận răng thì chắc không ai để ý. Đó chính là tinh thần “Xẻ dọc Trường Sơn”, dám thực hiện ước mơ, phá vỡ sự tẻ nhạt, quy luật nhàm chán của đời người. Danh họa Bùi Xuân Phái hay nói: “Sư tử chỉ đi một mình”. Bản lĩnh, tháo vát, đồng ý, nhưng nhìn ở góc độ nhân văn, chuyên nghiệp, thì điều đó rất nguy hiểm cho bản thân, bởi có thể hóa thành nỗi đau cho gia đình, bạn bè…
Phần lớn những nơi em qua đều là các nước đang phát triển, nghèo, luật pháp lỏng, tình người chan hòa (Africa vẫn được người Âu gọi là châu lục của Tuyệt vọng-The Desperate Continent). Nhưng châu Âu thì lại là một câu chuyện khác. Chặt chẽ, nguyên tắc, dân nhập cư bất hợp pháp Á, Phi rất nhiều, phức tạp, nếu không có giấy tờ hợp lệ mà bị cảnh sát hỏi là bị giữ (đôi khi gặp may cũng xin được) để trục xuất (Đức, Bỉ vài tháng, Pháp thì tối đa 2 tuần, nếu không trục được họ lại thả, nhiều trường hợp bắt, thả cả chục lần), nhưng lại có nhiều tổ chức từ thiện, phi chính phủ trợ giúp… Tây Âu rất tôn trọng quyền con người, luật pháp thế, nhưng trước cổng hay trong các nơi do các tổ chức từ thiện quản lý đầy dân nhập lậu, không bao giờ họ hỏi…
Cuối thư, anh chúc em sớm đạt được những kế hoạch tiếp theo, và luôn là Chip tóc xù như trong câu chuyện còn đang dang dở./.
 
Trịnh Quang Thắng
(thangtrinhquang@yahoo.com)

Thursday 9 January 2014

Thử lý giải việc tiếp tục bình ổn vàng của Ngân hàng Nhà nước (Bài đăng trên TBKTSG số ngày 9/1/2014, bản gốc)


Bất chấp giá vàng thế giới tụt giảm liên tục xuống những kỷ lục mới trong suốt phần lớn năm 2013, kéo theo giá vàng trong nước cũng nhu cầu về vàng của thị trường trong nước cũng đứng ở mức thấp, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vẫn tiếp tục tung vàng ra đấu thầu như hiện nay. Thoạt đầu, việc đấu thầu vàng bắt đầu từ cuối tháng 3 năm 2013 được làm cho hiểu là một hành động giúp hệ thống ngân hàng tất toán vàng vay mượn từ dân chúng. Tuy vậy, sau thời điểm đến hạn tất toán hồi tháng 6, NHNN vẫn tiếp tục cho đấu thầu vàng với mục đích, theo tuyên bố của họ, là để bình ổn thị trường vàng.
Đáng chú ý là trong suốt nửa năm sau 2013, thị trường vàng đã hầu như vắng bóng các cơn sốt vàng đi kèm với giá vàng trong và ngoài nước có xu hướng suy yếu (mặc dù chênh lệch giá vàng trong và ngoài nước thì hầu như không được thu hẹp, nếu không muốn nói ngược lại). Trong bối cảnh này, rõ ràng việc “bình ổn” của NHNN trở nên hoàn toàn không cần thiết. Bởi vậy, một câu hỏi được đặt ra là tại sao NHNN lại vẫn tiếp tục cho đấu thầu vàng cho đến tận bây giờ (và rất có thể sẽ còn kéo dài sang những tháng tới)?
Có thể nói ngay, việc NHNN liên tục đi nhập khẩu vàng về để đấu thầu chắc chắn có liên quan đến luồng ngoại tệ dồi dào đã và đang chảy vào Việt Nam. Theo các báo cáo của các cơ quan chủ quản, cán cân vãng lai và thanh toán của Việt Nam đang và sẽ ở mức thặng dư lớn, hàng tỷ đô la, có được nhờ nguồn kiều hối và FDI ở mức cao so với các năm trước, trong khi xuất khẩu tăng trưởng mạnh hơn nhập khẩu, chưa kể các các nguồn vay nợ và viện trợ vẫn đang chảy vào nền kinh tế. Nếu không có nguồn ngoại tệ lớn này, NHNN chắc chắn sẽ không có đủ tiềm lực để duy trì nhập khẩu và đấu thầu vàng ở quy mô lớn và thời gian kéo dài như vậy, nếu không muốn làm suy kiệt quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia.

Thông thường, khi nguồn ngoại tệ chảy mạnh vào nền kinh tế của một quốc gia, nước đó sẽ phải mua vào ngoại tệ, tung bản tệ ra để ngăn không cho bản tệ lên giá, ảnh hưởng đến xuất khẩu. Việt Nam cũng đã phải theo con đường này trong năm nay, với tuyên bố của NHNN đã mua vào ngoại tệ làm tăng mạnh quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia, trong khi, không như mọi năm, tỷ giá rất ổn định, thậm chí có nhiều thời điểm còn giảm đi (tiền đồng lên giá). Việc này có một hiệu ứng không mong muốn là làm tăng áp lực lạm phát do cung tiền đã tăng lên. Để khắc phục tác động tiêu cực này, NHNN phải tung tín phiếu ra để hút bớt tiền về (ngoài việc nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, một công cụ ít khi được sử dụng).
Nhưng năm 2013 là năm khá đặc biệt, với hiện tượng vàng không còn là một tài sản được ưa thích nhiều trên thế giới và cả ở Việt Nam nữa. Tuy vậy, do NHNN đang nắm độc quyền nhập khẩu vàng và, do đó, trở thành nguồn cung độc quyền vàng ra thị trường trong nước, giá vàng trong nước và thế giới vẫn đã và đang có một khoảng cách lớn, lên tới vài triệu đồng/lượng. Trong bối cảnh như vậy, NHNN rất có thể đã biết lợi dụng cơ chế đặc biệt này để phục vụ mục đích chính sách tiền tệ của mình một cách có lợi nhất, theo kiểu một mũi tên trúng nhiều đích.

Cụ thể, có thể NHNN đã tính rằng, việc tung tín phiếu ra để hút tiền đồng về vừa không phải là không tốn kém vì phải trả lãi, vừa không phải là đơn giản, vì nếu lãi suất tín phiếu quá thấp, không hấp dẫn được các ngân hàng thương mại thì NHNN, nếu không muốn dùng đến mệnh lệnh hành chính bắt buộc các ngân hàng thương mại phải mua tín phiếu, phải nâng lãi suất tín phiếu lên, làm cho chi phí từ kênh chính sách này càng lớn, trong khi hiệu ứng phụ của nó là làm tăng lãi suất trong nền kinh tế, đồng thời lại cạnh tranh với trái phiếu Chính phủ v.v...
Trong khi đó, nếu dùng một phần ngoại tệ đã mua được để nhập khẩu vàng về, bán lại trong nước với giá (quy đổi) cao hơn giá nhập khẩu, NHNN một mặt vẫn đạt được mục tiêu là hút bớt tiền đồng về, mặt khác, không những không phải trả lãi một đồng nào như đối với trường hợp can thiệp thông qua kênh tín phiếu, mà còn thu lãi lớn qua kênh nhập khẩu và đấu thầu vàng do chênh lệch lớn giữa giá vàng trong nước với giá quốc tế.

Ngoài lợi ích về chi phí, đấu thầu vàng của NHNN còn có một số tác dụng không nhỏ, chủ yếu ở mặt tâm lý, khi chứng tỏ cho thị trường thấy thái độ cứng rắn của NHNN, theo kiểu nói là làm và sẽ làm được, để từ nay về sau thị trường đừng có dại mà không tin vào tuyên bố và lập trường của NHNN. Giới đầu cơ vàng chắc sẽ còn lâu mới có thể gượng dậy được khi thị trường vàng liên tục bị đánh xuống với các đợt đấu thầu, và giá vàng thì, có phần trùng hợp, cũng liên tục đi xuống, chẳng còn thấy đâu cơ hội để mà đầu cơ chờ giá lên nữa, đúng như ý đồ của NHNN muốn “dẹp” thị trường vàng như một kênh gây bất ổn kinh tế vĩ mô trong nhiều năm qua.
Nếu lý giải trên là đúng thì ta sẽ có ngay câu trả lời cho câu hỏi tiếp theo được đặt ra là, bao giờ NHNN sẽ ngừng đấu thầu vàng? Cho dù có muốn tiếp tục thì NHNN cũng sẽ phải ngừng đấu thầu vàng khi nguồn ngoại tệ đổ vào không còn dồi dào nữa (có thể xảy ra với việc chấm dứt các gói nới lỏng định lượng của các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới, nhất là của Mỹ). Hoặc việc này sẽ xảy ra khi các hoạt động trong nền kinh tế thực được tăng tốc, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, và, do đó, lôi cuốn nguồn tiền đồng dư thừa trước đó. Khả năng khác, không phải là khả năng cuối cùng, là khi NHNN thực sự muốn bình ổn thị trường vàng, và đây là mục đích chính, nhưng nhận ra rằng thực ra hành động đấu thầu vàng không có tác dụng bình ổn gì cả, ngoài cơ may là thị trường vàng xuống dốc như vừa qua (chứ không phải bình ổn như chủ ý của NHNN) hoàn toàn nhờ yếu tố bên ngoài, chứ không phải nhờ hành động đấu thầu vàng của NHNN. Nếu giá vàng thế giới mà đảo ngược và duy trì như vậy trong một thời gian tới, đặc biệt nếu đi kèm với dấu hiệu căng thẳng ngoại tệ, chắc chắn NHNN sẽ phải cân nhắc lại hai lần trước khi tiếp tục duy trì đấu thầu vàng.

 

 

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).