Friday 28 March 2014

Tiếp chủ đề bẫy thu nhập trung bình: Sửa lại cho đồng chí GS Trần Thọ Đạt một chút


Tại bài này, đồng chí Đạt nói có mấy cái sai về bẫy thu nhập trung bình ở Việt Nam.
Thứ nhất, đồng chí Đạt nói: “Áp dụng công thức tính toán, chúng tôi tính được rằng để Việt Nam nâng cao thu nhập gấp đôi trong vòng 10 năm thì tăng trưởng phải đạt 7,2%/năm. Nhưng những năm vừa qua kinh tế nước ta chỉ tăng trưởng trung bình 5,5%, đây là mức tăng khá thấp so với tốc độ cần thiết để sau 10 năm gia tăng thu nhập bình quân đầu người lên gấp đôi.

Tính toán trên là tính toán đơn giản (compound annual growth rate, CAGR), có thể dễ dàng thực hiện trên excel bằng một phép tính; và đúng là để cho một đại lượng gì đó tăng lên gấp đôi trong 10 năm thì đại lượng đó cần phải tăng trưởng trung bình mỗi năm gần 7,2%. Rất rõ ràng, không có gì là khó hiểu hoặc ghê gớm ở đây cả.
Điều đáng nói là tính toán trên (và của đồng chí Đạt) chỉ đúng cho trường hợp là GDP của Việt Nam, chứ không phải là GDP/đầu người của Việt Nam. Vì cái thứ 2 còn có thêm đại lượng nữa là tăng trưởng dân số. Ở đây, nếu muốn GDP/đầu người tăng gấp 2 lần (lớn gấp đôi) trong 10 năm thì tăng trưởng GDP còn phải cao hơn 7,2%/năm. Giả sử tốc độ tăng dân số mỗi năm của Việt Nam trong 10 năm tới là 1%/năm thì Việt Nam cần phải đạt tăng trưởng GDP là 8,2%/năm.

Không nói thì cũng biết là 7,2%/năm đã là khó, đến 8,2%/năm thì càng khó hơn, và hầu như chẳng có phép mầu nào để đạt được tốc độ tăng trưởng này liên tục trong vòng 10 năm (dù là tính trung bình). Có thể có đồng chí sẽ lấy ví dụ của Trung Quốc tăng trưởng tới 8%-9%/năm trong suốt 2, 3 thập kỷ qua và ngay cả Việt Nam với tốc độ trên 7%/năm trong thập kỷ trước để phản biện lại. Nhưng tớ thì thấy rằng thời đại tăng trưởng nhanh (mà không đổ vỡ, không trả giá sau này) đã qua rồi. Cũng chẳng có bằng chứng gì thuyết phục cho lắm nhưng cứ hình dung con lợn được thúc lớn bằng thuốc tăng trọng nhanh đến nỗi nhiều khi chân nó bị gẫy vì không chịu nổi sức nặng của bản thân và vì chất lượng xương quá yếu không theo kịp đà lớn về thân xác của nó. Tóm lại là “giục tốc bất đạt”, đơn giản thế thôi.
Có lẽ cũng hiểu được thế nên mấy đồng chí Việt Nam mới thôi mơ mộng hão huyền bằng cách đặt mục tiêu tăng trưởng trong các kế hoạch 5 năm và dài hơn ở mức thấp hơn nhiều, mặc dù cũng những con người đó và các đồng chí của họ vốn có những cái đầu rất bốc, rất lạc quan cách mạng.

Thứ hai, đồng chí Đạt nói: “Nhìn chung hiện nay chúng ta đã bước vào nước thu nhập trung bình thấp, nhưng để thoát khỏi ngưỡng thu nhập trung bình thấp thì phải duy trì tốc độ tăng trưởng cao trên 7,2%/năm, trong điều kiện mức tăng trưởng này kéo dài và bền vững. Nếu không nguy cơ Việt Nam vẫn chỉ ở trong nước thu nhập trung bình thấp là hiện hữu và nguy cơ ấy rất cao.
Đoạn trích trên không nói rõ là Việt Nam cần phải tăng trưởng 7,2%/năm trong bao năm, nhưng kết hợp với đoạn trích đầu tiên thì có thể hiểu là đồng chí Đạt muốn nói đến quãng thời gian 10 năm. Không hiểu tại sao đồng chí Đạt lại đặt ra mục tiêu phải tăng trưởng thu nhập gấp đôi trong vòng 10 năm nữa (hiện đang ở mức gần 2.000 USD/người  lên 4.000). Phải chăng đồng chí muốn nói là khi thu nhập đầu người đạt 4.000 USD, tức mức trung bình cao, sẽ đồng nghĩa là Việt Nam đã thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình vì đã lọt vào nhóm thu nhập trung bình cao?

Nếu đúng thế thì nhầm, cả về khái niệm lẫn kỹ thuật. Về khái niệm, bẫy thu nhập trung bình xảy ra khi một nền kinh tế vốn có tốc độ tăng trưởng cao bị mắc kẹt mãi ở nhóm các nền kinh tế có mức thu nhập trung bình mà không thể (khó) dần tiệm cận đến nhóm nền kinh tế có thu nhập cao hơn được. Tất nhiên khi đó thì tăng trưởng GDP của nước này sẽ bằng hoặc nhỏ hơn tăng trưởng GDP của nhóm nước thu nhập cao, làm cho cự ly cách biệt về thu nhập giữa 2 nhóm không thay đổi hoặc thậm chí còn doãng rộng theo thời gian.
Như vậy, về khái niệm, tăng trưởng ở mức bao nhiêu (ở đây là 7,2% như mong muốn) không quan trọng bằng việc duy trì được tăng trưởng lớn hơn nhóm nước so sánh là đủ để Việt Nam dần tiệm tiến đến nhóm nước có thu nhập cao, tức là không bị vướng vào bẫy thu nhập trung bình. Giả thiết là các nước thuộc nhóm thu nhập cao có tốc độ tăng trưởng là 3%, 4%/năm trong 10 năm tới. Lúc đó thì chỉ cần Việt Nam tăng trưởng với tốc độ như hiện tại, 5%-6%/năm là thừa đủ để xóa dần cự ly về thu nhập với nhóm có thu nhập cao này (còn để xóa hết thì phải mất đến nhiều chục năm, kể cả với tốc độ tăng trưởng cao hơn!).

Về mặt kỹ thuật, cái ngưỡng 4000 hoặc 11000 trong định nghĩa của đồng chí Đạt chỉ đúng với hiện tại, chứ không còn đúng với tương lai. Với sự có mặt của lạm phát của USD thì 4000 hay 11000 USD hiện nay sẽ không bằng chính chúng về giá trị (sức mua) trong 5, 10, 20 năm nữa. Lúc đó, ngưỡng thu nhập trung bình cao phải là, ví dụ, 11000, 14000 và 18000. Như thế, ngay cả khi Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng GDP đầu người 7,2%/năm như đồng chí Đạt mong muốn thì cũng không thể đạt được ngưỡng thu nhập khởi điểm của nhóm trung bình cao trong 10 năm nữa, mà phải là một con số lớn hơn, tỷ như 12 năm.
Nói lằng nhằng thế để tóm lại rằng con số 7,2% và 10 năm mà đồng chí Đạt đưa ra chẳng có ý nghĩa, chẳng ăn nhập gì ở đây cả.

Thứ ba, trong đoạn trích thứ 2 dường như đồng chí Đạt đánh đồng giữa bẫy thu nhập trung bình với (mức) thu nhập trung bình thấp. Nếu đúng vậy thì cũng là một nhầm lẫn. Như đã nói, chừng nào tăng trưởng của Việt Nam vẫn lớn hơn tăng trưởng của nhóm nước thu nhập cao thì Việt Nam vẫn (nên/cần) được cho là không bị vướng vào bẫy thu nhập trung bình (chứ không có khái niệm “bẫy thu nhập trung bình thấp” hay “bẫy thu nhập trung bình cao”). Ngược lại, cho dù có tăng trưởng nhanh chóng (ở mức 7,2% như đồng chí Đạt muốn) để lọt vào nhóm nước có thu nhập trung bình cao và/nhưng sau đó tăng trưởng lại tụt giảm xuống dưới mức của nhóm thu nhập cao thì Việt Nam vẫn cứ bị vướng vào bẫy thu nhập trung bình. Nói cách khác, tăng trưởng bao nhiêu (trong vòng một thời gian nhất định, ở đây là 10 năm như đồng chí Đạt muốn) để thoát khỏi nhóm nước thu nhập trung bình thấp không phải là điều kiện cần/đủ để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình (không có “thấp” hay “cao”).
Còn tất nhiên nếu đạt được tốc độ tăng trưởng đâu đó trên 7%/năm trong thời hạn không xác định (vài chục năm) thì là quá tốt rồi, đủ để Việt Nam thoát khỏi hầu như mọi cái bẫy! Nhưng, lại như đã nêu ở phần đầu, vấn đề là liệu tốc độ tăng trưởng trên 7% sẽ được duy trì trong bao lâu?

Wednesday 26 March 2014

Tác động của tự do hóa nhân dân tệ lên giá hàng hóa toàn cầu (Bài đăng trên TBKTS, ngày 27/3/2014, bản gốc)

Biến động về giá của nhiều loại hàng hóa gần đây, trong đó có sự tụt giảm mạnh của quặng sắt, có thể sẽ tiếp tục trong thời gian tới khi Trung Quốc đang tự do hóa dần dần đồng nhân dân tệ của mình. Mối liên hệ giữa việc tự do hóa nhân dân tệ với xu hướng giảm giá hàng hóa có thể thấy qua việc phân tích tính hấp dẫn của các giao dịch tài trợ thông qua hàng hóa (commodity financing deals, trong bài này ta gọi tắt là CFD).

Hiện đang có chênh lệch khá lớn về lãi suất giữa của nhân dân tệ so với đô la Mỹ. Điều này tạo ra nhu cầu kinh doanh chênh lệch lãi suất ngắn hạn (carry trade) giữa 2 đồng tiền này. Cơ chế carry trade là vay ngoại tệ từ những nơi có lãi suất thấp, đổi ra nhân dân tệ rồi cho vay nội địa để hưởng lãi cao hơn. Đến kỳ thanh toán thì lại chuyển ngược vốn từ nhân dân tệ ra ngoại tệ, chuyển về nơi đi vay để hoàn trả vốn và lãi, và nhà đầu tư được hưởng phần chênh lệch có được từ sự khác biệt lãi suất (với điều kiện  là tỷ giá nhân dân tệ với ngoại tệ đó không thay đổi đáng kể giữa hai thời điểm đi vay và hoàn trả). Tuy nhiên, để thực hiện carry trade ở Trung Quốc thì nhà đầu tư phải có khả năng vay mượn và mua bán dễ dàng đô la Mỹ.
Thế nhưng Trung Quốc hiện đang có các quy định về quản lý ngoại hối nhằm kiểm soát việc vay mượn và kinh doanh ngoại tệ, làm cản trở việc thực hiện carry trade ở Trung Quốc. Để lách những quy định này  nhằm vay mượn hoặc chuyển ngoại tệ vào ra Trung Quốc một cách dễ dàng, các nhà kinh doanh đã tạo ra các CFD có sự tham gia của các hàng hóa cơ bản như đồng, nhôm, các kim loại quý khác như vàng,  và thậm chí là đậu tương hay quặng sắt. Các giao dịch này về bản chất là giao dịch mua bán hàng hóa trên giấy tờ vì hàng hóa chỉ được dịch chuyển từ người bán đến người mua trên giấy tờ; còn hàng hóa thật thì vẫn nằm tại các kho ngoại quan; cái thực chất lưu chuyển vào và ra khỏi Trung Quốc là luồng vốn ngoại tệ.

Tổng giá trị các CFD đã tăng chóng mặt kể từ giữa năm trước bởi sự kết hợp của 3 yếu tố sau, đảm bảo mang lại những khoản lợi nhuận đáng kể cho các nhà kinh doanh carry trade: (1) sự thắt chặt hơn nữa các quy định về cho vay và số tiền được vay ở Trung Quốc, làm cho các nhà đầu tư chuyển mạnh từ việc đi vay nội địa sang vay từ các nguồn ở nước ngoài với điều kiện dễ dãi hơn (và quan trọng là rẻ hơn); (2) chênh lệch lãi suất khá cao giữa đô la Mỹ và nhân dân tệ; và (3) nguồn cung các loại hàng hóa cơ bản đang dồi dào trên thế giới.
Theo ước tính của Goldman Sachs, 31% các khoản cho vay ngoại tệ ngắn hạn và 14% tổng các khoản cho vay ngoại tệ ở Trung Quốc được thế chấp bởi các hàng hóa này trong các CFD. Tổng số dư cho vay ngoại tệ thông qua các CFD ở Trung Quốc được ước tính lên tới khoảng 81 đến 160 tỷ đô la Mỹ.

CFD có ảnh hưởng sâu sắc đến giá cả hàng hóa thế giới. Khi CFD được ký kết, lập tức nhu cầu về các loại hàng hóa nói trên tăng lên trong khi cung chưa (kịp) thay đổi, đẩy giá tăng. Ngược lại, khi CFD hoàn tất, lượng hàng hóa được cầm cố được giải tỏa, làm tăng đột ngột cung trong khi cầu không biến động, đẩy giá cả hàng hóa đi xuống, làm các nhà đầu cơ khác hoảng sợ, buộc họ phải bán tháo hàng hóa của mình, càng đẩy giá hàng hóa đi xuống thêm.
Người ta ước tính có đến 30 triệu tấn quặng sắt được “trói” trong các CFD, trong khi con số tương ứng cho đồng là 630 nghìn tấn, và đậu tương là 5 triệu tấn, đủ để minh họa cho quy mô “khủng” của các CFD và ảnh hưởng của chúng lên giá cả hàng hóa toàn cầu lớn như thế nào.

Tuy rất quan ngại với những hành động lách luật như thông qua CFD nhưng Trung Quốc không muốn mạnh tay xử lý, ngăn ngừa những hành động này trong một sớm một chiều, vì điều đó sẽ dẫn đến việc giải phóng một lượng hàng hóa lớn đang nằm kẹt trong các CFD ra thị trường, làm cho giá cả của chúng sụp đổ, từ đó ảnh hưởng đến giá cả của hàng loạt tài sản như chứng khoán và trái phiếu.
Thay vào đó, Trung Quốc có một lộ trình tự do hóa dần dần đồng nhân dân tệ, cũng như mở cửa hơn nữa nền kinh tế cho các luồng vốn nước ngoài, với mục đích làm cho tỷ giá nhân dân tệ sẽ biến động mạnh hơn chứ không còn được ổn định tương đối như trước đây nữa. Và khi tỷ giá nhân dân tệ biến động mạnh hơn thì chi phí bảo hiểm cho tỷ giá (heding) sẽ phải tăng lên mạnh hơn. Điều này sẽ làm giảm lợi nhuận tiềm năng trong, và do đó là độ hấp dẫn của các CFD. Kết cục, sẽ có thêm một lượng hàng hóa được giải phóng ra thị trường hàng hóa, đẩy giá hàng hóa đi xuống. Quá trình tự do hóa nhân dân tệ càng diễn ra mạnh thì tính hấp dẫn của các CFD càng giảm và áp lực lên giá cả hàng hóa càng lớn thêm.

Đồng chí GS Ohno nói cũng khó tiêu hóa quá!

Không hiểu báo chí đăng tải có bóp méo lời đồng chí GS Ohno này không, chứ tớ đọc phát biểu của đồng chí trên tờ báo này mà thấy không thể tiêu hóa được (nhân tiện tớ cũng nói là tớ đã có lần lên chỗ đồng chí này dạy ở Tokyo để present một bài nghiên cứu đầu tiên của mình, là bài mà đã đăng trên ASEAN Economic Bulletin).

Đồng chí GS Ohno nói: "(...) những biểu hiện của việc Việt Nam vướng bẫy thu nhập trung bình mà ai cũng có thể nhận ra, đó là tăng trưởng chậm lại, năng suất sản xuất mờ nhạt, thiếu hụt của chuyển dịch cơ cấu theo đúng nghĩa, khả năng cạnh tranh trong bảng xếp hạng không có dấu hiệu tăng và xuất hiện các vấn đề do tăng trưởng gây ra."

Tớ thật là tớ không mấy chú tâm đến khái niệm và vấn đề "bẫy thu nhập trung bình", nhưng căn cứ vào cái "định nghĩa" như trên thì tớ thấy nền kinh tế VN cũng chẳng phải là đang vướng vào bẫy thu nhập trung bình. Nói gọn và đơn giản là nền kinh tế VN (hoặc các nền kinh tế khác trong tình trạng tương tự) là nền kinh tế trì trệ, kém hiệu quả, mất phương hướng phát triển hoặc đang lạc lối.

Nhưng tình trạng này, rất tiếc, không phải là ít, thậm chí phải nói là nhiều và rất nhiều. Ngay cả các nước đã phát triển, nếu vận các biểu hiện này vào thì thấy "cực kỳ" phù hợp khi mà tăng trưởng thậm chí là âm, khả năng (và xếp hang) cạnh tranh thậm chí sụt giảm, hay giữ nguyên năm này qua năm khác, thất nghiệp tăng và ở mức kinh khủng vì tăng trưởng chậm, nền kinh tế "vật vờ", thiếu sức sống, buộc NHTW phải bơm tiền ào ạt để vực dậy v.v...

Về tăng trưởng chậm lại, đồng chí GS Ohno chỉ ra rằng: "... tăng trưởng của Việt Nam bắt đầu từ 2001, đạt đỉnh 7,55% trong năm 2005 và trôi xuống từ sau 2006. Nền kinh tế trở nên ảm đạm với các cuộc khủng hoảng bất động sản, nợ xấu, chứng khoán lao dốc và ranh giới giàu nghèo rõ ràng hơn mỗi ngày."

Đồng chí này hơi bị nhầm lẫn (nếu đồng chí phóng viên viết bài này không tường thuật sai) rằng tăng trưởng VN bắt đầu từ 2001. Phải nói cho chính xác là từ trước đó cả 2 thập kỷ đã có tăng trưởng dương (và khá cao) rồi. Đỉnh của tăng trưởng cũng lên tới trên 8%, xấp xỉ 9% rồi, chứ không phải là 7,55% năm 2005. Tất nhiên là đồng chí Ohno này có khả năng sẽ đúng khi số liệu của TCTK (là số liệu mà tớ dùng cho bài nghiên cứu nói trên) là bố láo.

Tiếp đó, đồng chí Ohno cho rằng: “Indonesia cho rằng mức tăng tưởng dưới 6% là không thể chấp nhận được bởi vì đó sẽ gây ra nạn thất nghiệp và các vấn đề xã hội khác. Vậy nên mức tăng trưởng 5-6% cũng cần được Việt Nam xem như một cuộc khủng hoảng xã hội. Nếu để mức tăng trưởng xuống thấp hơn, các bạn phải đối mặt với già hóa, gánh nặng an sinh xã hội và các vấn đề xã hội khác mà không bao giờ có thể có thu nhập cao".

Hehe, đấy là Indonesia cho rằng là không chấp nhận được, chứ không phải tất cả ai cũng cho rằng là như vậy (và cho dù tất cả mọi người đều cho rằng là như vậy, nhưng không có nghĩa điều này là chân lý, nhé!). Từ một quan sát (hay nghe hơi nồi chõ?) cực kỳ vớ vẩn, ấm ớ như vậy mà đồng chí Ohno lại kết luận ngay được rằng tăng trưởng dưới mức 6% là một cuộc khủng hoảng xã hội ở VN thì tớ cũng đến bó tay với đồng chí. 

Tớ đồ rằng phải có đến trên 90% số nền kinh tế trên thế giới là có tốc độ tăng trưởng mấy năm gần đây dưới 6%. Thế thì cứ theo cái logic lòng thòng của đồng chí Ohno nói ở đoạn trên có thể suy được ra rằng thì là trên 90% các nước trên thế giới, gồm có cả nước Nhật của đồng chí nữa, là đang đối mặt với khủng hoảng xã hội à?

À mà trên nghĩa nào đó thì rất có thể thế thật, vì nói cho cùng thì nước nào ở thời nào mà chả phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng xã hội nào đó ở một quy mô nào đó? Nếu đồng ý thế thì VN đâu có nên phiền lòng, bận tâm làm gì vì ai (nước nào) hầu như chẳng thế?

Lại còn nhầm ở điểm này nữa: Tăng trưởng thấp chẳng có liên quan (trực tiếp) gì đến chuyện già hóa cả. Hay nói cách khác, tăng trưởng thấp không đẻ ra nạn già hóa dân số, nếu không muốn nói ngược lại, khi tăng trưởng thấp (trong thời gian dài) dễ gây ra đói nghèo, suy giảm mức sống lại kích thích người ta đẻ nhiều (phần vì để có người nuôi mình trong tương lai, phần vì "nhàn cư vi bất thiện"!!!).

Cả gánh nặng an sinh xã hội cũng vậy, không trực tiếp liên quan đến tăng trưởng thấp, nếu số người mới tham gia vào lực lượng lao động bù đắp được và hơn số người sẽ về hưu, về già, mất sức lao động.

Tóm lại là qua mấy đoạn viết ngắn thôi là đủ để tớ hoặc là nghi ngờ chủ nhân của những ý kiến này không phải là đồng chí Ohno, là người tớ cũng biết rằng không phải tầm thường đến vậy, hoặc là đồng chí này hóa ra đúng thế thật!

---------
Bổ sung: Tớ vừa đọc được bài về đồng chí Ohno trên TBKTSG Online, có nhiều chi tiết hơn và cũng làm cho phát biểu của đồng chí Ohno đỡ xấu hơn trong mắt tớ (và cũng làm tăng tính nghi ngờ về độ chân thực của bài báo mà tớ trích dẫn ở trên, như tớ đã nói). Nhưng nhìn chung thì tớ cũng vẫn thấy các nhận xét của mình là không oan cho đồng chí Ohno lắm nên thấy không cần thiết phải rút lại (ít nhất là khi chưa biết bài báo nào đúng hơn bài báo nào).

TBKTS Online lại còn kinh hơn khi bình luận thế này: "Bài phát biểu của giáo sư Ohno đã không nhận được sự phản biện nào từ các học giả Việt Nam tại hội thảo". Ý chừng là đồng chí Ohno này nói đúng quá nên không đồng chí học giả VN nào cãi lại được??? Tớ thì đồ rằng các đồng chí này bị "khớp" với cái "mác" quá lớn của đồng chí Ohno mà không dám ho he gì, hoặc giả là phần dịch thuật có vấn đề, người nghe nghe mà không hiểu gì mấy (phần lớn các đồng chí này tớ cho rằng không đủ trình độ nghe và nói tiếng Anh trực tiếp với đồng chí Ohno).

Wednesday 19 March 2014

Bỏ trần lãi suất huy động là hợp lý (Bài đăng trên TBKTSG, ngày 20/3/2014, bản gốc)

Bật cười với lời giới thiệu tóm tắt về bài này trên TBKTSG: "Bỏ trần lãi suất huy động là hợp lý - Phan Minh Ngọc: Ngân hàng Nhà nước mới đây đã nói đến chủ trương bãi bỏ trần lãi suất huy động trong thời gian tới. Tuy nhiên, chủ trương này đã bị một số người phản bác; còn tác giả lại đồng tình bằng cách bác bỏ những lập luận phản bác!"

http://www.thesaigontimes.vn/Home/taichinh/nganhang/112151/Bo-tran-lai-suat-huy-dong-la-hop-ly.html
-------------------------------------------------------------------------
Với tình hình lãi suất đang có chiều hướng giảm, Ngân hàng Nhà nước mới đây đã nói đến chủ trương bãi bỏ trần lãi suất huy động trong thời gian tới. Tuy nhiên, chủ trương này đã bị một số người phản bác. Theo họ, việc tái cơ cấu chưa được giải quyết dứt điểm, các ngân hàng yếu kém (chủ yếu là ngân hàng nhỏ) vẫn còn tồn tại, chưa được mua bán sáp nhập, thị trường chưa lập lại cân bằng. Trong bối cảnh đó, nếu những ngân hàng nhỏ, yếu kém này huy động vốn bằng cách nâng lãi suất đầu vào cao hơn mặt bằng sẽ dễ làm tái diễn lại tình trạng cạnh tranh vô lối, giành giật khách hàng gửi tiền, thị trường xáo trộn như trước đây.

Lập luận phản bác chủ trương bỏ trần lãi suất có một số bất ổn.


Trước tiên, theo như lập luận trên thì ta có thể hiểu rằng nếu có trần lãi suất thì cũng sẽ không có/còn tình trạng cạnh tranh vô lối, giành giật khách hàng nữa. Nhưng thực tế đã cho thấy điều này là không đúng. Nhiều người hẳn không còn xa lạ gì với tình trạng lách luật, xé rào của các ngân hàng trong cuộc đua lãi suất ngầm bằng nhiều thủ thuật và biện pháp. Ở quy mô nhỏ thì không cần nói, cuộc đua này còn xảy ra cả trên quy mô lớn trong sự bó tay của các cơ quan thanh tra, giám sát. Vụ Huyền Như với bầu Kiên liên quan đến các khoản tiền gửi hưởng lãi suất cao là một ví dụ điển hình cho cơn sóng ngầm “khủng” ngay bên dưới trần lãi suất huy động.
Nói cách khác, dù có cố gắng duy trì trần lãi suất thêm nữa thì nó cũng sẽ chẳng có tác dụng gì mấy, ngoài việc tạo ra những động thái đối phó lách luật “đầy sáng tạo”, đi kèm với thêm những phí tổn liên quan đến những động thái này.

Thứ hai, nếu đã thừa nhận tái cơ cấu dở dang là (một trong những) nguyên nhân khiến cho các ngân hàng nhỏ yếu phải nâng lãi suất thì cũng có nghĩa là đã thừa nhận rằng trong bối cảnh chưa tái cơ cấu xong/được thì sự tồn tại chênh lệch lãi suất là điều hiển nhiên. Nhưng nếu đã thừa nhận thế mà lại còn "cấm" (không chấp nhận) chênh lệch lãi suất (bằng cách áp trần lãi suất) thì rõ ràng chuyện đòi giữ trần lãi suất là một điều phi lý. Cho nên, việc cho phép các ngân hàng nhỏ cạnh tranh bằng việc nâng lãi suất ít nhất là cho đến tận khi việc tái cơ cấu các ngân hàng (nhỏ) yếu kém được coi là đã hoàn tất cần được coi là bình thường, tất yếu.

Thứ ba, ngân hàng nhỏ (đặc biệt là kèm thêm “yếu kém”) thì thường "thấp cổ bé họng" hơn những ngân hàng lớn trên nhiều mặt. Để cạnh tranh, đương nhiên là chúng phải chào lãi suất tiền gửi cao hơn các ngân hàng lớn – một nguyên tắc cơ bản trong kinh tế thị trường. Vậy nếu vẫn duy trì trần lãi suất thì đâu có khác gì chặn con đường sống của các ngân hàng này? Làm vậy thì thà dùng luôn giải pháp "hữu hiệu” và “căn cơ" hơn nhiều là xóa sổ luôn các ngân hàng nhỏ này để ngân hàng nào còn lại cũng đều tầm tầm khỏe như nhau, khỏi phải lo cạnh tranh lãi suất nữa.


Thứ tư, và liên quan đến điểm thứ ba ở trên, cho dù có thanh lọc các ngân hàng nhỏ, yếu kém (bằng cách tái cơ cấu, cho phá sản, sáp nhập v.v...) để còn lại các ngân hàng khỏe thì tình trạng cạnh tranh huy động vốn bằng lãi suất chỉ có thể dẹp bỏ khi thanh khoản trong hệ thống dồi dào, và các ngân hàng thậm chí còn phải đua nhau hạ lãi suất huy động, như đang xảy ra hiện nay. Ngược lại, khi thanh khoản khan hiếm hơn thì ngay cả các ngân hàng khỏe nhất cũng có lúc vẫn cần phải chủ động tạo ra cuộc đua lãi suất nếu tình trạng thanh khoản của nó đòi hỏi như vậy, cuốn các ngân hàng khác theo cuộc đua. Mà tình trạng thanh khoản khan hiếm không phải là hiện tượng hiếm xảy ra. Điều đó có nghĩa là nâng lãi suất (từ đó gây ra cuộc đua lãi suất) không chỉ là “thủ đoạn” của, không chỉ xảy ra ở các ngân hàng nhỏ, yếu, và, do đó, cho dù có dọn dẹp được hết cả hệ thống ngân hàng để loại ra những ngân hàng nhỏ yếu thì vẫn có khả năng xảy ra những cuộc đua lãi suất mới. Trong bối cảnh không còn lý do chính để duy trì trần lãi suất (là sự tồn tại của các ngân hàng nhỏ yếu) như vậy, nếu cứ khăng khăng giữ trần lãi suất (để hạn chế sự cạnh tranh giữa các ngân hàng to, khỏe) thì đó là hành động can thiệp thô bạo vào thị trường.

Thứ năm, đã là ngân hàng nhỏ thì dù họ có nâng lãi suất huy động cao hơn mặt bằng lãi suất chung thì tác động của việc nâng lãi suất này lên mặt bằng lãi suất chung này là không đáng kể. Nên hành động nâng lãi suất huy động của một số ngân hàng nhỏ khó có thể là ngòi nổ cho cuộc đua lãi suất, nếu các ngân hàng lớn không có vấn đề gì về thanh khoản. Nâng lãi suất của các ngân hàng nhỏ cũng không thể vì thế mà bị quy trách nhiệm làm châm ngòi cho cuộc đua lãi suất.

Tóm lại, có nhiều lý do để thấy việc áp đặt trần lãi suất (nhất là vin vào lý do có sự tồn tại của các ngân hàng nhỏ, yếu) là một động thái vừa sai lầm về lập luận, vừa không có hiệu quả, thậm chí có tác hại làm méo mó sự vận hành của thị trường tiền tệ bởi những nguyên lý thị trường đã bị dẹp bỏ trong sự tồn tại của trần lãi suất.
---------------------------------------
Comments trên TBKTSG

Đừng lập lại lần nữa
Dân Trí
Lập luận trên thể hiện có trần hay không trần cũng không tác dụng. Đúng nguyên tắc phòng ngừa thì tại sao phải bỏ trần khi có bỏ cũng chẳng làmxã hội tốt đẹp lên? Nhớ lại cuộc đua lãi suất trước không phải bắt nguồn từ đại gia hay tiểu gia ngân hàng mà từ "tung hê lãi suất cơ bản". Đừng lập lại lần nữa!
   
saigon
Ở Việt Nam mà bỏ trần lãi suất huy động là thị trường ngân hàng sẽ loạn, lúc đó lại phải tốn nhiều giấy mực để vãn hồi trật tự. Ai yếu kém thì bị loại chứ không thể lúc thế này lúc thế kia. Cách điều hành cải lương như vậy sẽ gây mất niềm tin.


Trả lời
Trả lời bạn đọc "Dân Trí": Lập luận trên có hàm ý là không có trần thì có tác dụng tốt hơn, vì xã hội đỡ đi phí tổn liên quan đến lách luật, mà rốt cuộc thì người vay (gồm cả doanh nghiệp) là người gánh chịu mọi phí tổn này. Hơn nữa, như phần kết luận đã nói, bỏ trần còn tốt hơn vì các nguyên tắc thị trường được vãn hồi. Bỏ lãi suất cơ bản hay không sẽ không tạo ra, không phải là nguyên nhân trực tiếp tạo ra đua lãi suất nếu thanh khoản của hệ thống không có vấn đề. Có vấn đề về thanh khoản mới tạo ra cuộc đua lãi suất và do đó NHNN mới cực chẳng đã phải áp trần lãi suất với hy vọng lập lại trật tự được chút nào hay chút đó.

Trả lời bạn đọc "saigon": Trần lãi suất huy động mới chỉ được áp dụng mấy năm gần đây. Trước đó không có trần lãi suất vẫn không sao, nên không thể kết luận bỏ trần lãi suất thì thị trường sẽ loạn (và như đã nói trong bài, có trần lãi suất thì thị trường vẫn cứ loạn đấy thôi? Vấn đề là thanh khoản của hệ thống!) Muốn loại bỏ ngân hàng yếu kém thì hãy dùng các mệnh lệnh hành chính, các chuẩn mực an toàn của ngành mà loại bỏ thẳng thừng các ngân hàng này đi (cũng giống kiểu ép buộc sáp nhập), chứ việc gì phải lôi thôi mà dùng đến trần lãi suất, vừa mất thời gian, vừa không có tác dụng (vì chúng vẫn lách luật được), vừa làm tổn hại đến các ngân hàng khác, đến người vay tiền (vì phí tổn liên quan đã bị dâng lên cao)?

Lãi suất hạ, “bức tranh kinh tế” sẽ đẹp? (Bài đăng trên Doanh nhân Sài gòn online, bản gốc)

http://www.doanhnhansaigon.vn/online/dien-dan-doanh-nhan/thoi-su/2014/03/1080282/lai-suat-ha-buc-tranh-kinh-te-se-dep/
----------------------------------

Đầu tuần này Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã quyết định hạ lãi suất điều hành cũng như trần lãi suất tiền gửi cho các kỳ hạn dưới 6 tháng. Cùng với động thái này là hàng loạt vấn đề đặt ra như người gửi tiền sẽ bị thiệt như thế nào, dòng vốn chảy vào ngân hàng có bị chững lại không, các doanh nghiệp có được vay với lãi suất thấp hơn không, hoặc cơ cấu của dòng vốn ngân hàng có thay đổi gì không, chẳng hạn như chảy vào chứng khoán hay bất động sản nhiều hơn không v.v...

Có thể nói ngay rằng khi NHNN tuyên bố giảm lãi suất điều hành thì điều đó có nghĩa là NHNN sẽ bơm thanh khoản với lãi suất thấp hơn cho hệ thống ngân hàng (chủ yếu ở các kỳ hạn ngắn, theo ngày, tuần, tháng, ít khi lên đến nửa năm, cả năm). Điều này, kết hợp với trần lãi suất cho tiền gửi có kỳ hạn dưới 6 tháng cũng bị hạ xuống, sẽ giúp cho các ngân hàng chịu bớt áp lực ở đầu vào, ít nhất là cho các khoản vốn ngắn hạn (tiền gửi của dân cư và cho vay từ NHNN), dưới 6 tháng.

Về phía người gửi tiền, đương nhiên là sẽ bị thiệt thòi hơn nếu họ gửi tiền có kỳ hạn dưới 6 tháng, khi lãi suất tiền gửi ngắn hạn hầu hết sẽ bị giảm đi so với trước đây với trần lãi suất mới là 6% so với trần lãi suất cũ là 7%.

Tuy nhiên, có một số điều cần lưu ý ở đây. Thứ nhất, thanh khoản có lẽ thực sự không dư thừa (dồi dào) như người ta nghĩ, và là nguyên nhân của việc hạ lãi suất đợt này. Ngay sau công bố của NHNN, các ngân hàng đã sửa đổi lại các mức lãi suất tiền gửi, nhưng điều đáng chú ý là các mức tiền gửi này đều phần lớn là bằng với mức trần, nếu là kỳ hạn dưới 6 tháng. Điều đó chứng tỏ vẫn có một áp lực nào đó lên tình trạng thanh khoản của nhiều ngân hàng. Có thể không quá khi nói rằng nhiều ngân hàng “miễn cưỡng” phải hạ lãi suất huy động (ngắn hạn) theo mức trần của NHNN.

Thứ hai, NHNN cũng đã không áp trần lãi suất cho các khoản tiền gửi có kỳ hạn 6 tháng trở lên. Chủ ý này tiếp tục tạo ra một kẽ hở cho cả ngân hàng và người gửi tiền có thể gặp được nhau ở những khoản tiền gửi từ 6 tháng. Nếu cần thì các ngân hàng vẫn phải trả cho người gửi tiền với lãi suất không đổi hoặc thậm chí còn cao hơn trước thời điểm NHNN tuyên bố hạ lãi suất điều hành. Nói cách khác, người gửi tiền nếu có thiệt thì chủ yếu là ở những khoản tiền gửi ngắn hạn, dưới 6 tháng.

Thứ ba, về phía ngân hàng, với lãi suất huy động không nhất thiết là thấp đi ở những kỳ hạn từ 6 tháng trở lên thì khó có thể kết luận rằng chi phí vốn của ngân hàng sẽ giảm mạnh tương ứng với mức giảm của trần lãi suất và lãi suất điều hành của NHNN. Đấy là chưa kể với một số ngân hàng vẫn còn khó khăn về thanh khoản thì họ lại buộc phải “đi đêm” với khách gửi tiền bằng cách trả lãi cao hơn nhằm thu hút thêm tiền gửi.

Từ hai phía gửi tiền và huy động tiền như trên có thể thấy mặt bằng lãi suất chung (cả cho vay và huy động) có thể không biến động nhiều theo hướng giảm đi như kỳ vọng. Hàm ý của điều này là việc hạ lãi suất lần này sẽ không nhất thiết dẫn đến giảm lãi suất của các khoản cho vay của các ngân hàng với các doanh nghiệp (nếu các điều kiện cho vay khác không thay đổi), và do đó cũng khó có thể kỳ vọng chắc chắn rằng tăng trưởng tín dụng sẽ được thúc đẩy trong năm nay.

Liên quan đến điều này là chuyện cơ cấu của nguồn vốn chảy ra từ hệ thống ngân hàng vào nền kinh tế (cho khu vực sản xuất thực, hay cho các thị trường tài chính, bất động sản, vàng ...). Với nhận định rằng lãi suất đầu vào và đầu ra có thể sẽ không giảm mạnh như kỳ vọng, cơ cấu của vốn từ ngân hàng chảy vào nền kinh tế sẽ không có thay đổi lớn so với trước đây.

Thêm nữa, do điều hành lãi suất đã được gắn chặt chẽ với diễn biến của lạm phát ở Việt Nam nên chiều hướng suy giảm lãi suất như hiện nay vẫn có thể đảo chiều trong thời gian tới khi lạm phát ở Việt Nam vì một lý do nào đó lại bùng lên, là điều không thể hoàn toàn phủ nhận. Bởi vậy, ở thời điểm này vẫn còn quá sớm để có thể dự đoán một bức tranh “đẹp” với lãi suất giảm, lạm phát thấp và tín dụng tăng trưởng mạnh trong các quý tới của năm nay.

 

Tuesday 18 March 2014

Quá sớm để nói doanh nghiệp sẽ được hưởng lợi (bài trả lời phỏng vấn trên CafeF)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/qua-som-de-noi-doanh-nghiep-se-duoc-huong-loi-201403181529266674ca34.chn

Lãi suất cho vay vẫn tiếp tục được xác định chủ yếu trên sức khỏe và triển vọng của doanh nghiệp chứ không phải bởi sự cắt giảm lãi suất huy động.

Còn quá sớm để nói các doanh nghiệp sẽ được hưởng lợi khi lãi suất huy động giảm đi, Ts Phan Minh Ngọc, hiện đang làm việc tại Ngân hàng Sumitomo Mitsui, chi nhánh Singapore bình luận về quyết định giảm lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước (NHNN).

Theo ông, lãi suất cho vay vẫn tiếp tục được xác định chủ yếu trên sức khỏe và triển vọng của doanh nghiệp chứ không phải bởi sự cắt giảm 1 điểm phần trăm lãi suất huy động.

PV: NHNN vừa giảm một loạt lãi suất điều hành. Quyết định này ảnh hưởng như thế nào tới người gửi tiền, thưa ông?

TS. Phan Minh Ngọc: Khi lãi suất điều hành giảm đi có nghĩa là NHNN sẽ bơm thanh khoản với lãi suất thấp hơn cho hệ thống ngân hàng. Đồng thời với trần lãi suất cho tiền gửi có kỳ hạn dưới 6 tháng cũng hạ xuống, chắc chắn các ngân hàng sẽ có ít áp lực hơn phải huy động với lãi suất cao như trước, ít nhất là cho các kỳ hạn ngắn hạn, dưới 6 tháng.

Người gửi tiền thì đương nhiên là sẽ bị thiệt thòi hơn nếu họ gửi tiền có kỳ hạn dưới 6 tháng, khi lãi suất tiền gửi bị giảm đi 1 điểm phần trăm so với trước đây.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng thanh khoản có lẽ thực sự không được dồi dào như người ta nghĩ, và là nguyên nhân của việc hạ lãi suất đợt này. Bằng chứng là hiện tại, các ngân hàng đã sửa đổi lại các mức lãi suất tiền gửi tương ứng với trần lãi suất mới của NHNN, nhưng các mức tiền gửi này đều phần lớn là bằng với mức trần. Điều đó chứng tỏ thanh khoản vẫn có một áp lực nào đó để lãi suất tiền gửi không thể xuống thấp như người ta mong muốn được.

Thêm nữa, với lãi suất tiền gửi cho các hạn trên 6 tháng vẫn được bỏ ngỏ, cả người gửi lẫn ngân hàng đều vẫn có "room" để tối đa hóa lợi ích và đảm bảo cho cung cầu được gặp nhau. Chẳng hạn, với những người có tiền gửi nhất quyết không chấp nhận mức trần lãi suất cho các kỳ hạn ngắn dưới 6 tháng, và với những ngân hàng có nhu cầu huy động vốn với lãi suất vượt trần thì cả 2 bên đều có thể dễ dàng lách luật bằng cách kéo dài thời hạn tiền gửi ra thêm (một chút) so với mức kỳ hạn dưới 6 tháng.

- Vậy thì bản chất của động thái giảm lãi suất điều hành là gì?

Việc hạ lãi suất điều hành và trần lãi suất tiền gửi ngắn hạn chủ yếu là tác động lên các đối tượng có tiền gửi tạm thời nhàn rỗi dưới 6 tháng, chứ không nhất thiết là có tác dụng làm giảm đáng kể mặt bằng lãi suất tiền gửi và cả cho vay nói chung. Và đối với người tạm thời có tiền nhàn rỗi thì, thường là với tinh thần "vớt vát, được tí nào hay tí đó", việc giảm bớt 1 điểm phần trăm lãi suất tiền gửi tuy là tình thế "cực chẳng đã" nhưng cũng không thực sự mang nhiều ý nghĩa so với người sống bằng các khoản gửi tiết kiệm.

Theo ông, doanh nghiệp liệu có thực sự được hưởng lợi từ đợt điều chỉnh lãi suất này hay không?

Như trên đã nói, việc hạ lãi suất này không nhất thiết làm hạ mặt bằng lãi suất chung (cả huy động và cho vay) nên còn quá sớm để nói các doanh nghiệp sẽ được hưởng lợi khi lãi suất huy động đã bị giảm đi, nhất là với các khoản vay đầu tư dài hạn.

Thêm một bằng chứng cho chuyện này là NHNN vẫn cứ để bỏ ngỏ trần lãi suất cho vay, tức là không khống chế mức cho vay tối đa. Bởi vậy, lãi suất cho vay vẫn tiếp tục được xác định chủ yếu trên sức khỏe và triển vọng của doanh nghiệp chứ không phải bởi sự cắt giảm 1 điểm phần trăm lãi suất huy động.

Khả năng huy động vốn của các tổ chức tín dụng và tăng trưởng tín dụng sẽ diễn biến như thế nào sau quyết định của NHNN?

Còn quá sớm để có thể kết luận lãi suất cho vay doanh nghiệp, nhất là lãi suất cho các khoản đầu tư dài hạn, sẽ giảm đi nên cũng khó nói chắc được rằng tăng trưởng tín dụng sẽ được thúc đẩy và ở mức độ bao nhiêu.

Tuy nhiên, cũng cần thừa nhận rằng với các khoản cho vay ngắn hạn thì có lẽ nhu cầu sẽ tăng lên, do lãi suất huy động ngắn hạn giảm đi, kèm đó là tăng trưởng tín dụng ở phân khúc này cũng sẽ tăng lên.

Theo ông, xu hướng giảm lãi suất có thể được kéo dài trong năm nay hay chỉ mang tính tạm thời?

Việc điều hành lãi suất dựa vào lạm phát như của NHNN hiện nay có cái hay là tạo ra được một chuẩn mực mới trong việc điều chỉnh cung tiền (dựa vào diễn biến của lạm phát, chứ không phải vào nhu cầu kích thích tăng trưởng như trước đây), làm cho mọi việc có vẻ rõ ràng, minh bạch và có tính thuyết phục hơn.

Tuy nhiên, mặt trái của nó là sự phải chạy theo thị trường, ở đây cụ thể là lạm phát, một cách thường xuyên, làm cho chính sách tiền tệ của NHNN mất tính ổn định, mang tính định hướng tương đối cần có.

Giả sử tháng sau và các tháng sau nữa, lạm phát lại tăng mạnh trở lại, lúc đó phải chăng NHNN sẽ buộc phải nâng lãi suất điều hành lên chăng? Mà khả năng này là không thể bị loại trừ hoàn toàn, nên cũng không thể nói rằng xu hướng lãi suất giảm sẽ kéo dài ít nhất hết năm nay.

Các tổ chức ngân hàng đang được cho là ở trong trạng thái thừa tiền. Với quyết định hạ lãi suất của NHNN, dòng tiền sẽ đi đâu?

Như trên đã nói, "thừa tiền" ở đây chỉ là tương đối. Các ngân hàng vẫn chào mời gửi tiền với lãi suất bằng với lãi suất trần cho các kỳ hạn ngắn, còn với kỳ hạn dài trên 6 tháng thì vẫn cứ phải theo thỏa thuận. Như thế có nghĩa là tuy có vẻ như đang "thừa tiền" nhưng trên thực tế chắc là không hoàn toàn đúng vậy, và các ngân hàng vẫn cứ đang phải cạnh tranh nhau để huy động thêm tiền.

Có người sẽ nói rằng các ngân hàng vẫn phải cạnh tranh để giữ chân người gửi tiền. Nhưng cứ cho là đúng thì việc cạnh tranh để giữ chân này không thể kéo dài được khi tiền vẫn vào mà đầu ra thì bí. Mà việc cạnh tranh này xem ra đã kéo dài từ cả năm nay rồi.

Bởi vậy, dòng tiền đi ra từ hệ thống ngân hàng có lẽ sẽ không có khác biệt gì lắm so với thời điểm trước khi hạ lãi suất.

Xin cảm ơn ông!
Tường Vy
Theo Trí Thức Trẻ

Wednesday 12 March 2014

Nghe đồng chí TS Cấn Văn Lực nói mà không thể trôi được

Trong bài này, đồng chí Lực nói: "...đây không phải là thời điểm chín muồi để cởi bỏ trần lãi suất huy động, cho nên cần cân nhắc việc bỏ trần lãi suất nếu không rất dễ tái diễn lại tình trạng cạnh tranh vô lối, giành giật khách hàng gửi tiền, thị trường xáo trộn như trước đây."

Thế nói như đồng chí Lực thì có trần lãi suất là sẽ không có tình trạng cạnh tranh vô lối, giành giật khách hàng à? Đồng chí làm trong ngành thì hẳn không còn xa lạ với những chuyện ngân hàng xé rào lãi suất thế nào rồi chứ? Chẳng nói đâu xa, vụ Huyền Như với bầu Kiên đã hé ra chuyện ngay cả ngân hàng cũng còn đi đêm tìm ngân hàng khác có lãi suất cao để gửi đấy thôi?

Đồng chí Lực nói tiếp: "Hơn nữa, câu chuyện tái cơ cấu cần phải giải quyết dứt điểm càng sớm càng tốt. Chừng nào còn ngân hàng yếu kém, chuyện mua bán sáp nhập chưa xong, thị trường chưa lập lại cân bằng thì vẫn còn tình trạng chênh lệch lãi suất".

Nói như thế thì đồng chí thừa nhận là chênh lệch lãi suất là hệ quả của một nguyên nhân có tính cơ cấu và căn bản hơn - tái cơ cấu chưa xong - phải không? Nói cách khác, trong bối cảnh chưa tái cơ cấu xong/được thì sự tồn tại chênh lệch lãi suất là một chuyện hiển nhiên phải không? Nhưng nếu đã thừa nhận thế mà lại còn "cấm" (không chấp nhận) chênh lệch lãi suất (bằng cách áp trần lãi suất) thì có phải là tự phủ định mình không?

Đồng chí Lực nói: "Điều kiện để bỏ trần lãi suất là khi thị trường ổn định, không có chuyện các ngân hàng vượt rào hay xé rào lãi suất. Thế nhưng, diễn biến trên thị trường cho thấy, vẫn còn một số ngân hàng nhỏ thu hút nguồn vốn huy động bằng cách nâng lãi suất đầu vào cao hơn mặt bằng chung. Nếu như bỏ trần lãi suất huy động thì mặt bằng lãi suất sẽ bị phá vỡ, kéo theo lãi suất cho vay khó giảm 1%-2% trong năm nay như mong muốn của NHNN và Chính phủ".

Ngân hàng nhỏ thì thường "thấp cổ bé họng" hơn những ngân hàng lớn trên nhiều mặt. Để cạnh tranh, đương nhiên là chúng phải chào lãi suất tiền gửi cao hơn các ngân hàng lớn - điều cơ bản trong kinh tế thị trường. Vậy mà định duy trì trần lãi suất, thế thì có khác gì chặn con đường sống của chúng không? Sao không đề xuất giải pháp "hữu hiệu và căn cơ" hơn nhiều là xóa sổ luôn cái bọn ngân hàng nhỏ này để ngân hàng nào còn lại cũng đều xêm xêm nhau, khỏi phải lo cạnh tranh lãi suất nữa?

Quan trọng hơn, đã là ngân hàng nhỏ thì dù chúng có nâng lãi suất huy động cao hơn mặt bằng lãi suất chung thì tác động của chúng lên mặt bằng lãi suất chung này là không đáng kể. Nên hành động nâng lãi suất huy động của một số ngân hàng nhỏ khó có thể là ngòi nổ cho cuộc đua lãi suất, nếu các ngân hàng lớn không có vấn đề gì về thanh khoản. Nâng lãi suất của các ngân hàng nhỏ cũng không thể vì thế mà bị quy trách nhiệm làm châm ngòi cho cuộc đua lãi suất.

Nhưng nói gì thì nói, hiện thực vẫn là hiện thực. Khi cần thì các ngân hàng (nhỏ) vẫn cứ lách trần lãi suất (nếu có) một cách ngon lành, bất chấp các đồng chí kiểu này có sáng suốt tư duy và kiến nghị đến mấy. Nên thôi, cứ để cho đồng chí vui với lập luận và kiến nghị của mình về trần lãi suất.

Bài trả lời phỏng vấn trên CafeF về chuyện ứ đọng 57 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/cang-cham-giai-ngan-thua-lo-cang-lon-2014031212234988010ca34.chn


------------------------
Ứ đọng 57 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ Càng chậm giải ngân, thua lỗ càng lớn

Có kế hoạch không có nghĩa là mọi việc sẽ xảy ra đúng như kế hoạch, và bởi vậy cần phải thay đổi, điều chỉnh lại kế hoạch nếu mọi việc diễn ra theo chiều hướng xấu.

Tại phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng 2/2014, Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình cho biết, trong 2 tháng đầu năm Chính phủ đã huy động được tới gần 57 nghìn tỷ đồng qua phát hành trái phiếu chính phủ (TPCP) - một con số khổng lồ.

Xoay quanh khoản tiền đổ mạnh vào TPCP nói trên, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với Ts Phan Minh Ngọc, hiện đang làm việc tại Ngân hàng Sumitomo Mitsui, chi nhánh Singapore.

Thống đốc NHNN cho biết, 2 tháng đầu năm đã huy động được 57 nghìn tỷ đồng TPCP nhưng chưa giải ngân được và Kho bạc Nhà nước đang đem gửi ngân hàng. Theo ông, thực tế này nói lên điều gì?

Tôi rất hy vọng tình trạng “chưa giải ngân được” này chỉ là tạm thời. Nghĩa là, tiền này đã có kế
hoạch và thời điểm chi tiêu khả thi rồi, chỉ là tạm thời gửi vào ngân hàng trong lúc chờ đến lúc đó để khỏi lãng phí vốn nhàn rỗi. Coi như vớt vát được chút tiền lãi nào hay chút đó, bù đắp một phần lãi phát sinh tính trên lượng TPCP đã phát hành.

Nếu không phải tạm thời thì sao, thưa ông?

Nếu vậy thì đây là một vấn đề trầm trọng. Bởi rất có thể tình trạng dư thừa vốn hoặc bí đầu ra bắt nguồn từ những khả năng xấu.

Ví dụ, có thể kế hoạch giải ngân TPCP “có vấn đề” về tính hiện thực, khả năng thực thi.
Cũng có thể các đối tượng tiềm năng sử dụng tiền huy động từ TPCP hoặc là không có khả năng và điều kiện để được giải ngân TPCP, hoặc là đã bị giải thể hoặc bị làm mất khả năng thực thi các dự án chi tiêu bằng tiền từ TPCP do những lý do như khó khăn kinh tế, vỡ nợ v.v.... Việc thay đổi doanh nghiệp thực thi dự án sử dụng TPCP, nếu có, sẽ cần một thời gian, và trong lúc đó thì đương nhiên là việc giải ngân vốn TPCP phải bị đình lại.

Và, rất có thể tình hình và điều kiện kinh tế, xã hội đã thay đổi lớn trước và sau thời điểm lập kế hoạch phát hành TPCP, làm cho các dự án sử dụng vốn TPCP trở nên bất khả thi, không cần thiết, không có hiệu quả v.v...

Điều gì xảy ra nếu tình trạng “chưa giải ngân được” kéo dài?

Đương nhiên đó là điều không hay chút nào. Vì lãi suất Kho bạc Nhà nước được hưởng từ tiền gửi tại ngân hàng, có khả năng là lãi suất ngắn hạn, chưa chắc đã cao bằng lãi suất TPCP, thường là lãi suất dài hạn, nên thường cao hơn lãi suất tiền gửi ngắn hạn. Do đó, càng kéo dài thì tình trạng thua lỗ càng lớn.

Cho dù nếu lãi suất tiền gửi hiện tại có cao hơn lãi suất TPCP thì vẫn có rủi ro là lãi suất tiền gửi sẽ sụt giảm trong tương lai gần, làm cho Kho bạc Nhà nước vẫn sẽ bị chi nhiều hơn thu từ hình thức “kinh doanh” này. Chưa nói rằng cách “kinh doanh” này, nếu có thể gọi được như vậy, là không được phép, không đúng mục đích của việc phát hành TPCP.

Ngân hàng đổ tiền mua TPCP, rồi Kho bạc Nhà nước lại gửi tiền này vào ngân hàng? Và có thể ngân hàng lại dùng một phần trong số tiền đó để mua TPCP? Vòng luẩn quẩn này lợi, hại cho ai?

Nếu muốn rạch ròi lợi hại thì có thể nói lợi là lợi ngắn hạn, cụ thể là trong những lúc lãi suất tiền gửi cao hơn lãi suất TPCP. Và lợi cho một nhóm nào đó muốn “tay không bắt giặc”, lợi dụng mức tín nhiệm tín dụng của Chính phủ để trục lợi.

Hại thì nhiều hơn, chẳng hạn sẽ phát sinh lỗ khi lãi suất tiền gửi thấp hơn lãi suất TPCP. Lúc đó thì đương nhiên Chính phủ là người phải đứng ra trả nợ.

Hơn nữa, uy tín của Chính phủ sẽ bị sứt mẻ nghiêm trọng vì hành động “trục lợi” này trong mắt người dân và nhà đầu tư (dùng uy tín của mình phát hành TPCP chỉ để đem gửi vào ngân hàng hưởng lãi), chứ không dùng để phát triển kinh tế xã hội.

Với các tổ chức tín dụng thì sao, thưa ông?

Tổ chức tín dụng thực ra chỉ có lợi chứ chẳng bị tổn hại gì từ hành động “kinh doanh” này cả, vì về bản chất họ cũng chỉ là tổ chức trung gian, kinh doanh chênh lệch lãi suất. Chừng nào mà lãi suất tiền gửi, dù của Chính phủ hay của dân, vẫn thấp hơn lãi suất cho vay thì họ vẫn cứ hưởng lợi.
Khi xảy ra hoàn cảnh đảo chiều, thì họ chỉ đơn giản là dừng lại, buộc các chủ thể gửi và vay tiền trong nền kinh tế phải điều chỉnh theo để họ tiếp tục đứng ra làm trung gian cho các luồng vốn trao tay trong nền kinh tế.

Nền kinh tế chịu ảnh hưởng gì từ vòng luẩn quẩn này?

Đối với cả nền kinh tế thì đương nhiên là không có lợi vì hành động “kinh doanh” này là theo kiểu “lộc tôi hưởng, thiệt hại người khác gánh”. Chính xác ra, như trên đã nói, chỉ có một nhóm nào đó trong Chính phủ được hưởng lợi, còn hậu quả thua lỗ sẽ được Chính phủ và tức là toàn dân, toàn nền kinh tế gánh chịu thay.

Sâu xa hơn, hành động phát hành TPCP để gửi tiền vào ngân hàng sẽ làm tăng áp lực lạm phát vì Chính phủ gây sức ép lên Ngân hàng Nhà nước phát hành thêm tiền và hệ thống ngân hàng phải mua TPCP, tức làm tăng cung tiền không vì mục tiêu đầu tư hiệu quả nào cả.

Một số ý kiến cho rằng trong tình hình này Chính phủ nên giãn kế hoạch phát hành trái phiếu, chờ giải ngân số tiền ứ đọng trên sau đó mới tiếp tục. Ngược lại, có ý kiến nói làm như vậy kế hoạch phát hành trái phiếu của Chính phủ cả năm khó hoàn thành. Quan điểm của ông như thế nào?

Ta lại phải đi từ cái gọi là kế hoạch đã. Có kế hoạch không có nghĩa là mọi việc sẽ xảy ra đúng như kế hoạch, và bởi vậy cần phải thay đổi, điều chỉnh lại kế hoạch nếu mọi việc diễn ra theo chiều hướng xấu. Đã xảy ra tình trạng ứ đọng vốn TPCP có nghĩa là đã có trục trặc trong kế hoạch. Trong hoàn cảnh như thế mà vẫn nhắm mắt làm thì khó có thể bình luận gì thêm được nữa.

Bởi vậy, việc cần làm hiện nay là rà soát, đánh giá lại kế hoạch và khả năng hiện thực của nó, để rồi có những điều chỉnh thích hợp. Chẳng hạn, nếu cần thiết và có thể, lấy phần vốn TPCP đã phát hành (mà không thể giải ngân được vì lý do điều kiện đã thay đổi, như đã nói qua ở trên) dùng cho những dự án khác, và do đó, cắt giảm khối lượng và thay đổi thời điểm phát hành TPCP dành cho những dự án còn lại.

Xin cảm ơn ông!
Tường Vy

Theo Trí Thức Trẻ

Wednesday 5 March 2014

Áp trần cho giá sữa – không phải là giải pháp hiệu quả! (Bài đăng trên TBKTSG Online, 5/3/2014, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/Home/diendan/blogdoanhnhan/111454/Ap-tran-cho-gia-sua-%e2%80%93-khong-phai-la-giai-phap-hieu-qua!.html

Giá sữa bột trẻ em đồng loạt tăng gần đây ở Việt Nam bất chấp nó đã được đưa vào trong danh mục hàng bình ổn giá. Lý do tăng giá sữa, theo các hãng sữa, chủ yếu là do giá sữa bột nhập khẩu tăng mạnh. Những lý do khác gồm có giá nhân công và chi phí vận chuyển tăng, hoặc thay đổi công thức sữa...
Trước đòi hỏi của dư luận và cả của một số lãnh đạo cấp cao, Bộ Tài chính, như thường thấy và có thể dự đoán được, lại tiếp tục phản ứng bằng cách ra tuyên bố sẽ lập đoàn thanh tra, phối hợp với Bộ Công thương và các cơ quan có liên quan kiểm tra việc niêm yết, kê khai giá điều chỉnh các sản phẩm sữa, và “đề nghị” các công ty sữa giải trình, không được “tăng giá bất hợp lý”, và sẽ “quyết liệt”, “xử lý nghiêm”, “xử lý theo luật”, “công khai thông tin” nếu phát hiện vi phạm…  Bộ này còn cho biết khả năng sẽ áp giá trần cho sữa cho trẻ em dưới 6 tuổi.

Nói chung, cách dễ nhất để thực hiện việc chế tài một chủ thể nào đó là cấm chủ thể đó được có những hành động vượt quá khuôn khổ mà cơ quan quản lý cho là có thể chấp nhận được. Trong việc kiềm chế giá sữa cho trẻ em tăng lên, dường như Bộ Tài chính cũng tính đến khả năng là những phản ứng chính sách của họ như nói trên không có hiệu quả, không ngăn được các doanh nghiệp tăng giá sữa nếu thực sự họ có lý do chính đáng. Để tránh khả năng bị “đo ván” trong trận chiến quản giá sữa vốn sẽ mang lại tai tiếng không hay về năng lực và trách nhiệm quản lý, thượng sách vẫn là áp giá trần, tức cấm các doanh nghiệp sữa được tăng giá sữa quá một mức nào đó mà cơ quan quản lý cho là hợp lý.
Nhưng vì việc cấm đoán này về bản chất là một hành động chính sách mang tính phi thị trường, được áp dụng bất chấp những yếu tố hình thành nên giá sữa đã và đang biến động ra sao nên khả năng thành công của nó là hầu như bằng 0 trên cả lý thuyết lẫn thực tế đã cho thấy.

Đi sâu thêm vào lý giải việc tăng giá từ các yếu tố mang tính thị trường, đầu tiên hãy xem giá sữa giao ngay trên thế giới đã biến động thế nào. Như Biểu 1 minh họa, có thể thấy giá sữa bột nguyên kem Hà Lan giao ngay đã đột nhiên tăng mạnh và kéo dài suốt từ tháng 4/2013 (lên 371 euro/tấn, tức tăng 28% so với tháng 3/2013), và thậm chí còn đứng ở mức cao hơn như hiện nay (377 euro/tấn cuối tháng 2/2014).

Ngoài yếu tố quan trọng là giá sữa bột nhập khẩu đã tăng mạnh và kéo dài, một yếu tố quan trọng khác nữa là cầu về sữa cũng đã biến động mạnh. Tin tức cho biết nhu cầu nhập khẩu sữa của Trung Quốc đã tăng mạnh do người dân nước này đã mất lòng tin vào sữa nội địa. Quả thật, số liệu Hải quan Trung quốc về nhập khẩu sữa bột và bơ như trong Biểu 2 cho thấy nhập khẩu bơ sữa của nước này đã tăng vọt, đặc biệt từ tháng 10/2013, đạt mức 160 nghìn tấn vào tháng 1/2014 so với mức trung bình 48 nghìn tấn/tháng năm 2012, và 71 nghìn tấn/tháng năm 2013.

 

Ở trong nước, một số hãng đã cho biết chi phí nhân công và vận chuyển cũng đang dưới áp lực tăng. Điều này cũng có thể hiểu được nếu nhìn dưới góc độ lạm phát và giá xăng dầu. Một số chuyên gia thì cho rằng lạm phát không liên quan gì đến tăng giá sữa vì lạm phát tăng là tăng ở các lĩnh vực, nhóm mặt hàng và dịch vụ khác.

Có thể thấy ngay lập luận như thế này là không xác đáng vì, về nguyên tắc, khi lạm phát tăng, tiền lương có xu hướng được điều chỉnh tăng theo (tuy có thể có độ trễ nhất định). Mà tiền lương tăng thì sẽ dẫn đến chi phí của mọi hàng hóa, dịch vụ đều có xu hướng tăng lên. Chưa kể, rõ ràng việc giá xăng dầu tăng lên đương nhiên càng làm tăng áp lực giá trong những ngành như kho vận.

Từ biến động của các yếu tố chi phí trên, trong khi bối cảnh trong nước không hề có dấu hiệu cho thấy nhu cầu thực về sữa đã và đang giảm đi (số trẻ con không giảm đi, mà còn tăng lên), có thể nói các hãng sữa trong nước không đòi tăng giá mới là lạ.

Giả thiết rằng trong hoàn cảnh này, Chính phủ áp dụng giá trần cho sữa ở mức hiện tại. Lúc đó có hai khả năng xảy ra. Khả năng thứ nhất, doanh nghiệp sữa phải cắt bỏ một phần hoặc toàn bộ lợi nhuận của họ (nếu lợi nhuận của họ đủ lớn). Khả năng thứ hai, trường hợp ngược lại, lợi nhuận này không đủ lớn và do đó doanh nghiệp chịu lỗ, càng bán ra nhiều thì lỗ lũy kế càng lớn.

Đối với khả năng thứ nhất, doanh nghiệp sữa vẫn có thể cầm cự được một thời gian, cho đến khi lỗ bắt đầu phát sinh và lớn dần, để rồi rơi vào khả năng thứ hai. Ở khả năng thứ hai, có doanh nghiệp sẽ nhanh chóng phá sản, đóng cửa vì nợ lớn, vốn mỏng, các ngân hàng không cho vay thêm. Các doanh nghiệp khác còn lại thì có thể cố gắng cầm cự chịu lỗ, hy vọng một ngày nào đó tươi sáng hơn khi giá đầu vào giảm đi (còn giá bán thì vẫn không đổi vì bị áp trần!). Nhưng tất cả sẽ phải đóng cửa nếu giá đầu vào vẫn tiếp tục tăng lên. Và cho dù giá sữa bột nhập khẩu có thể giảm đi sau này (mặc dù có ít hy vọng), nhưng chí ít thì chi phí nhân công,  kho vận và các loại chi phí khác khó có thể giảm đi ở vì thiểu phát (CPI âm) hầu như không thể xảy ra ở Việt Nam ít nhất trong ngắn và trung hạn. (Đây cũng chính là một trong những câu trả lời cho lập luận của một số người rằng tại sao khi giá sữa thế giới giảm mà giá trong nước không giảm theo). Cộng với yêu cầu hữu lý của cổ đông, của chủ đầu tư là sản xuất, kinh doanh phải có lợi nhuận (đủ hấp dẫn) thì có thể kết luận rằng sự nén chịu, nếu có, của các doanh nghiệp sữa trong khuôn khổ giá trần chỉ mang tính ngắn hạn.

Trước khi Chính phủ nhận ra điều này và buộc phải điều chỉnh (tăng lên) hoặc bãi bỏ giá trần (hoặc bất cứ một mênh lệnh hành chính nào đó không cho phép doanh nghiệp tăng giá) thì doanh nghiệp sữa hoặc phải đóng cửa, thu hẹp sản xuất, hoặc phải tìm cách lách luật. Nếu doanh nghiệp đóng cửa hoặc thu hẹp sản xuất thì nguồn cung bị thu hẹp làm cho một bộ phần cầu không thể được thỏa mãn. Nói cách khác, giá trần có khả năng dẫn đến có thêm một bộ phận trẻ em không được uống sữa hoặc phải cắt giảm lượng sữa uống hàng ngày. Đương nhiên là sữa luôn có thể được nhập khẩu vào Việt Nam để bổ sung nguồn cung thiếu hụt trong nước, nhưng vấn đề là không nhà phân phối sữa nước ngoài nào muốn bán cho các nhà phân phối sữa trong nước với giá bán bị kiểm soát bởi giá trần của Việt Nam, bất chấp biến động giá thế giới.

Hơn nữa, chuyện chấp nhận bó tay chịu chết của doanh nghiệp sữa khi có giá trần là điều hiếm khi xảy ra. Họ sẽ tìm cách tồn tại (và vẫn có lãi) bằng nhiều biện pháp lách luật. Để thấy tính đa dạng của các biện pháp lách luật rất hữu hiệu (ở cái nghĩa là biết mà không xử lý được), ta có thể liên hệ đến những “chiêu trò” mà các ngân hàng thương mại Việt Nam đã từng áp dụng để lách lãi suất trần áp cho tiền gửi hoặc tỷ giá trần mua bán áp dụng cho đô la Mỹ, cũng như việc cấm mua bán ngoại tệ ngoài hệ thống ngân hàng... để thấy rằng nếu muốn thì luôn có rất nhiều kẽ hở để lách các quy định cấm cản trong sự bó tay của các cơ quan chủ quản.

Nhưng nói như trên không có nghĩa là nhà nước không thể làm gì để can thiệp một cách có hiệu quả và công bằng giữa các bên tham gia thị trường sữa (nhà sản xuất, nhà nhập khẩu, nhà phân phối, và người tiêu dùng, và nhà nước với tư cách là người thu thuế). Việc cần làm trước tiên là khuyến khích hơn nữa sự cạnh tranh giữa các chủ thể tham gia thị trường nhằm đảm bảo nguồn cung dồi dào với giá cả phản ánh sát thực cung và cầu thật trên thị trường. Cạnh tranh hơn cũng có nghĩa là giảm thiểu những tiêu cực của thị trường như cùng bắt tay liên kết lũng đoạn thị trường giữa các nhà cung cấp lớn, một khả năng mà các cơ quan chủ quản đang đau đầu khám phá. Để giảm đà tăng của giá sữa và/hoặc bảo vệ một số đối tượng dễ tổn thương (trẻ em con nhà nghèo), có thể áp dụng một số biện pháp khác như giảm thuế, trợ giá (có chọn lọc về đối tượng), và tăng tính minh bạch của thị trường sữa...

Cũng cần nói thêm là người tiêu dùng luôn muốn được mua hàng hóa với giá rẻ hơn nên có thể hiểu và thông cảm được với sự “bức xúc” của họ khi phải trả nhiều tiền hơn. Nhưng mọi sự “bức xúc” không phải luôn hợp lý và Chính phủ luôn phải chạy theo, xuôi theo những “bức xúc” này để rồi có những hành động làm hài lòng người tiêu dùng (trên bề nổi) nhưng đi ngược với những nguyên tắc của thị trường để rồi mọi việc đâu lại vào đó.

Tóm lại, giá sữa đang chịu áp lực tăng giá là điều có thật và hợp lý, và việc doanh nghiệp sữa đòi tăng giá cũng là điều hợp lý. Để hạn chế phần nào áp lực và hậu quả tăng giá, Chính phủ cần nghĩ đến những giải pháp khác như nói ở trên thay vì nhấn mạnh đến “theo dõi”, “thanh tra”,  và áp giá trần. Chính phủ cũng cần thiết phải giải trình rõ hơn cho người tiêu dùng biết điều gì đang xảy ra trên thị trường để họ chấp nhận thực tế và có sự điều chỉnh trong hành vi tiêu dùng của mình, thay vì đòi hỏi nhà nước phải làm một cái gì đó mà thực ra là lợi bất cập hại.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).