Wednesday 5 March 2014

Áp trần cho giá sữa – không phải là giải pháp hiệu quả! (Bài đăng trên TBKTSG Online, 5/3/2014, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/Home/diendan/blogdoanhnhan/111454/Ap-tran-cho-gia-sua-%e2%80%93-khong-phai-la-giai-phap-hieu-qua!.html

Giá sữa bột trẻ em đồng loạt tăng gần đây ở Việt Nam bất chấp nó đã được đưa vào trong danh mục hàng bình ổn giá. Lý do tăng giá sữa, theo các hãng sữa, chủ yếu là do giá sữa bột nhập khẩu tăng mạnh. Những lý do khác gồm có giá nhân công và chi phí vận chuyển tăng, hoặc thay đổi công thức sữa...
Trước đòi hỏi của dư luận và cả của một số lãnh đạo cấp cao, Bộ Tài chính, như thường thấy và có thể dự đoán được, lại tiếp tục phản ứng bằng cách ra tuyên bố sẽ lập đoàn thanh tra, phối hợp với Bộ Công thương và các cơ quan có liên quan kiểm tra việc niêm yết, kê khai giá điều chỉnh các sản phẩm sữa, và “đề nghị” các công ty sữa giải trình, không được “tăng giá bất hợp lý”, và sẽ “quyết liệt”, “xử lý nghiêm”, “xử lý theo luật”, “công khai thông tin” nếu phát hiện vi phạm…  Bộ này còn cho biết khả năng sẽ áp giá trần cho sữa cho trẻ em dưới 6 tuổi.

Nói chung, cách dễ nhất để thực hiện việc chế tài một chủ thể nào đó là cấm chủ thể đó được có những hành động vượt quá khuôn khổ mà cơ quan quản lý cho là có thể chấp nhận được. Trong việc kiềm chế giá sữa cho trẻ em tăng lên, dường như Bộ Tài chính cũng tính đến khả năng là những phản ứng chính sách của họ như nói trên không có hiệu quả, không ngăn được các doanh nghiệp tăng giá sữa nếu thực sự họ có lý do chính đáng. Để tránh khả năng bị “đo ván” trong trận chiến quản giá sữa vốn sẽ mang lại tai tiếng không hay về năng lực và trách nhiệm quản lý, thượng sách vẫn là áp giá trần, tức cấm các doanh nghiệp sữa được tăng giá sữa quá một mức nào đó mà cơ quan quản lý cho là hợp lý.
Nhưng vì việc cấm đoán này về bản chất là một hành động chính sách mang tính phi thị trường, được áp dụng bất chấp những yếu tố hình thành nên giá sữa đã và đang biến động ra sao nên khả năng thành công của nó là hầu như bằng 0 trên cả lý thuyết lẫn thực tế đã cho thấy.

Đi sâu thêm vào lý giải việc tăng giá từ các yếu tố mang tính thị trường, đầu tiên hãy xem giá sữa giao ngay trên thế giới đã biến động thế nào. Như Biểu 1 minh họa, có thể thấy giá sữa bột nguyên kem Hà Lan giao ngay đã đột nhiên tăng mạnh và kéo dài suốt từ tháng 4/2013 (lên 371 euro/tấn, tức tăng 28% so với tháng 3/2013), và thậm chí còn đứng ở mức cao hơn như hiện nay (377 euro/tấn cuối tháng 2/2014).

Ngoài yếu tố quan trọng là giá sữa bột nhập khẩu đã tăng mạnh và kéo dài, một yếu tố quan trọng khác nữa là cầu về sữa cũng đã biến động mạnh. Tin tức cho biết nhu cầu nhập khẩu sữa của Trung Quốc đã tăng mạnh do người dân nước này đã mất lòng tin vào sữa nội địa. Quả thật, số liệu Hải quan Trung quốc về nhập khẩu sữa bột và bơ như trong Biểu 2 cho thấy nhập khẩu bơ sữa của nước này đã tăng vọt, đặc biệt từ tháng 10/2013, đạt mức 160 nghìn tấn vào tháng 1/2014 so với mức trung bình 48 nghìn tấn/tháng năm 2012, và 71 nghìn tấn/tháng năm 2013.

 

Ở trong nước, một số hãng đã cho biết chi phí nhân công và vận chuyển cũng đang dưới áp lực tăng. Điều này cũng có thể hiểu được nếu nhìn dưới góc độ lạm phát và giá xăng dầu. Một số chuyên gia thì cho rằng lạm phát không liên quan gì đến tăng giá sữa vì lạm phát tăng là tăng ở các lĩnh vực, nhóm mặt hàng và dịch vụ khác.

Có thể thấy ngay lập luận như thế này là không xác đáng vì, về nguyên tắc, khi lạm phát tăng, tiền lương có xu hướng được điều chỉnh tăng theo (tuy có thể có độ trễ nhất định). Mà tiền lương tăng thì sẽ dẫn đến chi phí của mọi hàng hóa, dịch vụ đều có xu hướng tăng lên. Chưa kể, rõ ràng việc giá xăng dầu tăng lên đương nhiên càng làm tăng áp lực giá trong những ngành như kho vận.

Từ biến động của các yếu tố chi phí trên, trong khi bối cảnh trong nước không hề có dấu hiệu cho thấy nhu cầu thực về sữa đã và đang giảm đi (số trẻ con không giảm đi, mà còn tăng lên), có thể nói các hãng sữa trong nước không đòi tăng giá mới là lạ.

Giả thiết rằng trong hoàn cảnh này, Chính phủ áp dụng giá trần cho sữa ở mức hiện tại. Lúc đó có hai khả năng xảy ra. Khả năng thứ nhất, doanh nghiệp sữa phải cắt bỏ một phần hoặc toàn bộ lợi nhuận của họ (nếu lợi nhuận của họ đủ lớn). Khả năng thứ hai, trường hợp ngược lại, lợi nhuận này không đủ lớn và do đó doanh nghiệp chịu lỗ, càng bán ra nhiều thì lỗ lũy kế càng lớn.

Đối với khả năng thứ nhất, doanh nghiệp sữa vẫn có thể cầm cự được một thời gian, cho đến khi lỗ bắt đầu phát sinh và lớn dần, để rồi rơi vào khả năng thứ hai. Ở khả năng thứ hai, có doanh nghiệp sẽ nhanh chóng phá sản, đóng cửa vì nợ lớn, vốn mỏng, các ngân hàng không cho vay thêm. Các doanh nghiệp khác còn lại thì có thể cố gắng cầm cự chịu lỗ, hy vọng một ngày nào đó tươi sáng hơn khi giá đầu vào giảm đi (còn giá bán thì vẫn không đổi vì bị áp trần!). Nhưng tất cả sẽ phải đóng cửa nếu giá đầu vào vẫn tiếp tục tăng lên. Và cho dù giá sữa bột nhập khẩu có thể giảm đi sau này (mặc dù có ít hy vọng), nhưng chí ít thì chi phí nhân công,  kho vận và các loại chi phí khác khó có thể giảm đi ở vì thiểu phát (CPI âm) hầu như không thể xảy ra ở Việt Nam ít nhất trong ngắn và trung hạn. (Đây cũng chính là một trong những câu trả lời cho lập luận của một số người rằng tại sao khi giá sữa thế giới giảm mà giá trong nước không giảm theo). Cộng với yêu cầu hữu lý của cổ đông, của chủ đầu tư là sản xuất, kinh doanh phải có lợi nhuận (đủ hấp dẫn) thì có thể kết luận rằng sự nén chịu, nếu có, của các doanh nghiệp sữa trong khuôn khổ giá trần chỉ mang tính ngắn hạn.

Trước khi Chính phủ nhận ra điều này và buộc phải điều chỉnh (tăng lên) hoặc bãi bỏ giá trần (hoặc bất cứ một mênh lệnh hành chính nào đó không cho phép doanh nghiệp tăng giá) thì doanh nghiệp sữa hoặc phải đóng cửa, thu hẹp sản xuất, hoặc phải tìm cách lách luật. Nếu doanh nghiệp đóng cửa hoặc thu hẹp sản xuất thì nguồn cung bị thu hẹp làm cho một bộ phần cầu không thể được thỏa mãn. Nói cách khác, giá trần có khả năng dẫn đến có thêm một bộ phận trẻ em không được uống sữa hoặc phải cắt giảm lượng sữa uống hàng ngày. Đương nhiên là sữa luôn có thể được nhập khẩu vào Việt Nam để bổ sung nguồn cung thiếu hụt trong nước, nhưng vấn đề là không nhà phân phối sữa nước ngoài nào muốn bán cho các nhà phân phối sữa trong nước với giá bán bị kiểm soát bởi giá trần của Việt Nam, bất chấp biến động giá thế giới.

Hơn nữa, chuyện chấp nhận bó tay chịu chết của doanh nghiệp sữa khi có giá trần là điều hiếm khi xảy ra. Họ sẽ tìm cách tồn tại (và vẫn có lãi) bằng nhiều biện pháp lách luật. Để thấy tính đa dạng của các biện pháp lách luật rất hữu hiệu (ở cái nghĩa là biết mà không xử lý được), ta có thể liên hệ đến những “chiêu trò” mà các ngân hàng thương mại Việt Nam đã từng áp dụng để lách lãi suất trần áp cho tiền gửi hoặc tỷ giá trần mua bán áp dụng cho đô la Mỹ, cũng như việc cấm mua bán ngoại tệ ngoài hệ thống ngân hàng... để thấy rằng nếu muốn thì luôn có rất nhiều kẽ hở để lách các quy định cấm cản trong sự bó tay của các cơ quan chủ quản.

Nhưng nói như trên không có nghĩa là nhà nước không thể làm gì để can thiệp một cách có hiệu quả và công bằng giữa các bên tham gia thị trường sữa (nhà sản xuất, nhà nhập khẩu, nhà phân phối, và người tiêu dùng, và nhà nước với tư cách là người thu thuế). Việc cần làm trước tiên là khuyến khích hơn nữa sự cạnh tranh giữa các chủ thể tham gia thị trường nhằm đảm bảo nguồn cung dồi dào với giá cả phản ánh sát thực cung và cầu thật trên thị trường. Cạnh tranh hơn cũng có nghĩa là giảm thiểu những tiêu cực của thị trường như cùng bắt tay liên kết lũng đoạn thị trường giữa các nhà cung cấp lớn, một khả năng mà các cơ quan chủ quản đang đau đầu khám phá. Để giảm đà tăng của giá sữa và/hoặc bảo vệ một số đối tượng dễ tổn thương (trẻ em con nhà nghèo), có thể áp dụng một số biện pháp khác như giảm thuế, trợ giá (có chọn lọc về đối tượng), và tăng tính minh bạch của thị trường sữa...

Cũng cần nói thêm là người tiêu dùng luôn muốn được mua hàng hóa với giá rẻ hơn nên có thể hiểu và thông cảm được với sự “bức xúc” của họ khi phải trả nhiều tiền hơn. Nhưng mọi sự “bức xúc” không phải luôn hợp lý và Chính phủ luôn phải chạy theo, xuôi theo những “bức xúc” này để rồi có những hành động làm hài lòng người tiêu dùng (trên bề nổi) nhưng đi ngược với những nguyên tắc của thị trường để rồi mọi việc đâu lại vào đó.

Tóm lại, giá sữa đang chịu áp lực tăng giá là điều có thật và hợp lý, và việc doanh nghiệp sữa đòi tăng giá cũng là điều hợp lý. Để hạn chế phần nào áp lực và hậu quả tăng giá, Chính phủ cần nghĩ đến những giải pháp khác như nói ở trên thay vì nhấn mạnh đến “theo dõi”, “thanh tra”,  và áp giá trần. Chính phủ cũng cần thiết phải giải trình rõ hơn cho người tiêu dùng biết điều gì đang xảy ra trên thị trường để họ chấp nhận thực tế và có sự điều chỉnh trong hành vi tiêu dùng của mình, thay vì đòi hỏi nhà nước phải làm một cái gì đó mà thực ra là lợi bất cập hại.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).