Wednesday 26 March 2014

Tác động của tự do hóa nhân dân tệ lên giá hàng hóa toàn cầu (Bài đăng trên TBKTS, ngày 27/3/2014, bản gốc)

Biến động về giá của nhiều loại hàng hóa gần đây, trong đó có sự tụt giảm mạnh của quặng sắt, có thể sẽ tiếp tục trong thời gian tới khi Trung Quốc đang tự do hóa dần dần đồng nhân dân tệ của mình. Mối liên hệ giữa việc tự do hóa nhân dân tệ với xu hướng giảm giá hàng hóa có thể thấy qua việc phân tích tính hấp dẫn của các giao dịch tài trợ thông qua hàng hóa (commodity financing deals, trong bài này ta gọi tắt là CFD).

Hiện đang có chênh lệch khá lớn về lãi suất giữa của nhân dân tệ so với đô la Mỹ. Điều này tạo ra nhu cầu kinh doanh chênh lệch lãi suất ngắn hạn (carry trade) giữa 2 đồng tiền này. Cơ chế carry trade là vay ngoại tệ từ những nơi có lãi suất thấp, đổi ra nhân dân tệ rồi cho vay nội địa để hưởng lãi cao hơn. Đến kỳ thanh toán thì lại chuyển ngược vốn từ nhân dân tệ ra ngoại tệ, chuyển về nơi đi vay để hoàn trả vốn và lãi, và nhà đầu tư được hưởng phần chênh lệch có được từ sự khác biệt lãi suất (với điều kiện  là tỷ giá nhân dân tệ với ngoại tệ đó không thay đổi đáng kể giữa hai thời điểm đi vay và hoàn trả). Tuy nhiên, để thực hiện carry trade ở Trung Quốc thì nhà đầu tư phải có khả năng vay mượn và mua bán dễ dàng đô la Mỹ.
Thế nhưng Trung Quốc hiện đang có các quy định về quản lý ngoại hối nhằm kiểm soát việc vay mượn và kinh doanh ngoại tệ, làm cản trở việc thực hiện carry trade ở Trung Quốc. Để lách những quy định này  nhằm vay mượn hoặc chuyển ngoại tệ vào ra Trung Quốc một cách dễ dàng, các nhà kinh doanh đã tạo ra các CFD có sự tham gia của các hàng hóa cơ bản như đồng, nhôm, các kim loại quý khác như vàng,  và thậm chí là đậu tương hay quặng sắt. Các giao dịch này về bản chất là giao dịch mua bán hàng hóa trên giấy tờ vì hàng hóa chỉ được dịch chuyển từ người bán đến người mua trên giấy tờ; còn hàng hóa thật thì vẫn nằm tại các kho ngoại quan; cái thực chất lưu chuyển vào và ra khỏi Trung Quốc là luồng vốn ngoại tệ.

Tổng giá trị các CFD đã tăng chóng mặt kể từ giữa năm trước bởi sự kết hợp của 3 yếu tố sau, đảm bảo mang lại những khoản lợi nhuận đáng kể cho các nhà kinh doanh carry trade: (1) sự thắt chặt hơn nữa các quy định về cho vay và số tiền được vay ở Trung Quốc, làm cho các nhà đầu tư chuyển mạnh từ việc đi vay nội địa sang vay từ các nguồn ở nước ngoài với điều kiện dễ dãi hơn (và quan trọng là rẻ hơn); (2) chênh lệch lãi suất khá cao giữa đô la Mỹ và nhân dân tệ; và (3) nguồn cung các loại hàng hóa cơ bản đang dồi dào trên thế giới.
Theo ước tính của Goldman Sachs, 31% các khoản cho vay ngoại tệ ngắn hạn và 14% tổng các khoản cho vay ngoại tệ ở Trung Quốc được thế chấp bởi các hàng hóa này trong các CFD. Tổng số dư cho vay ngoại tệ thông qua các CFD ở Trung Quốc được ước tính lên tới khoảng 81 đến 160 tỷ đô la Mỹ.

CFD có ảnh hưởng sâu sắc đến giá cả hàng hóa thế giới. Khi CFD được ký kết, lập tức nhu cầu về các loại hàng hóa nói trên tăng lên trong khi cung chưa (kịp) thay đổi, đẩy giá tăng. Ngược lại, khi CFD hoàn tất, lượng hàng hóa được cầm cố được giải tỏa, làm tăng đột ngột cung trong khi cầu không biến động, đẩy giá cả hàng hóa đi xuống, làm các nhà đầu cơ khác hoảng sợ, buộc họ phải bán tháo hàng hóa của mình, càng đẩy giá hàng hóa đi xuống thêm.
Người ta ước tính có đến 30 triệu tấn quặng sắt được “trói” trong các CFD, trong khi con số tương ứng cho đồng là 630 nghìn tấn, và đậu tương là 5 triệu tấn, đủ để minh họa cho quy mô “khủng” của các CFD và ảnh hưởng của chúng lên giá cả hàng hóa toàn cầu lớn như thế nào.

Tuy rất quan ngại với những hành động lách luật như thông qua CFD nhưng Trung Quốc không muốn mạnh tay xử lý, ngăn ngừa những hành động này trong một sớm một chiều, vì điều đó sẽ dẫn đến việc giải phóng một lượng hàng hóa lớn đang nằm kẹt trong các CFD ra thị trường, làm cho giá cả của chúng sụp đổ, từ đó ảnh hưởng đến giá cả của hàng loạt tài sản như chứng khoán và trái phiếu.
Thay vào đó, Trung Quốc có một lộ trình tự do hóa dần dần đồng nhân dân tệ, cũng như mở cửa hơn nữa nền kinh tế cho các luồng vốn nước ngoài, với mục đích làm cho tỷ giá nhân dân tệ sẽ biến động mạnh hơn chứ không còn được ổn định tương đối như trước đây nữa. Và khi tỷ giá nhân dân tệ biến động mạnh hơn thì chi phí bảo hiểm cho tỷ giá (heding) sẽ phải tăng lên mạnh hơn. Điều này sẽ làm giảm lợi nhuận tiềm năng trong, và do đó là độ hấp dẫn của các CFD. Kết cục, sẽ có thêm một lượng hàng hóa được giải phóng ra thị trường hàng hóa, đẩy giá hàng hóa đi xuống. Quá trình tự do hóa nhân dân tệ càng diễn ra mạnh thì tính hấp dẫn của các CFD càng giảm và áp lực lên giá cả hàng hóa càng lớn thêm.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).