Thursday 29 May 2014

Triển vọng xếp hạng tín dụng của VN vẫn ổn định (Bài đăng trên TBKTSG Online, 30/5/2014)

http://www.thesaigontimes.vn/115641/

(TBKTSG Online) - Trước tình hình xung đột với Trung Quốc trên Biển Đông có khả năng leo thang và tình trạng mất an ninh ngắn hạn ở một số khu vực của Việt Nam vừa qua, nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã e ngại về triển vọng xấu đi của môi trường đầu tư ở Việt Nam. Họ băn khoăn liệu các hãng xếp hạng tín dụng quốc tế có điều chỉnh lại triển vọng xếp hạng hoặc tệ hơn là đánh tụt hạng tín dụng của Việt Nam.

Trao đổi trực tiếp với hai tổ chức xếp hạng chủ chốt là Standards and Poor’s (S&P) và Moody’s tại Singapore, nơi tiến hành xếp hạng tín dụng quốc gia Việt Nam, cộng tác viên của TBKTSG Online đã nhận được câu trả lời rõ ràng.
 
Với Moody’s, cuộc xung đột với Trung Quốc ở vùng biển của Việt Nam hiện nay không ảnh hưởng đến triển vọng xếp hạng của Việt Nam.
 
Còn với S&P, câu trả lời cũng tương tự, với lý giải rằng thứ nhất, việc Trung Quốc mang giàn khoan xâm phạm vùng biển chủ quyền của Việt Nam chỉ là một sự kiện có tính ngắn hạn trong một chuỗi sự kiện có tính dài hạn tương ứng với chiến lược thôn tính dần dần Biển Đông của Trung Quốc.
 
S&P bình luận rằng sự việc hiện nay được đẩy đi bao xa và đến mức độ nào là điều không ai có thể biết chắc được, mặc dù họ tin rằng và hy vọng hai chính phủ đều kiềm chế để sự việc không leo thang thành xung đột quân sự.

Thứ hai, về tình trạng mất an ninh do các cuộc biểu tình mang tính bạo loạn ở một số nơi như vừa qua, S&P cho rằng đó chỉ là những phản ứng tức thời của một bộ phận người dân quá khích trước hành động bạo ngược của Trung Quốc. S&P cũng nhìn nhận những nỗ lực kiểm soát tình hình và ngăn chặn những vụ việc tương tự nổ ra của Chính phủ Việt Nam để chúng không còn là mối đe dọa đến an ninh cho các nhà đầu tư ở Việt Nam nữa.
 
Liên quan đến những phản ứng tiêu cực của thị trường chứng khoán, giá vàng và tỷ giá ngoại tệ, liệu có phải đây là dấu hiệu tháo chạy của nhà đầu tư hay không, S&P bình luận rằng trước bất cứ một biến cố nào, thông thường bao giờ cũng có những phản ứng tiêu cực như vậy, và S&P không lo ngại về chuyện này ở Việt Nam hiện nay.
 
Thậm chí S&P còn cho rằng tác động của xung đột trên Biển Đông với Trung Quốc hiện nay và hậu quả của nó lên triển vọng xếp hạng của Việt Nam không lớn bằng tác động của, chẳng hạn, sự giảm tốc trong tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc, vốn sẽ trực tiếp và gián tiếp làm chậm lại đà tăng trưởng GDP và xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới. Và đây mới là một trong những căn cứ chính để S&P xem xét điều chỉnh xếp hạng tín dụng quốc gia của Việt Nam.
 
Như vậy, nhà đầu tư trong và ngoài nước bước đầu có thể yên tâm vào triển vọng xếp hạng ổn định của Việt Nam. Nhưng cần phải lưu ý rằng nhận định trên của S&P và Moody’s được đưa ra trên cơ sở giả định rằng cuộc xung đột không leo thang nguy hiểm kéo theo những rủi ro lớn khác cho Việt Nam.

Bài này có một số ý nghĩa thực tiễn

Đọc bài này tớ thấy nó có một số ý nghĩa về chính sách khá quan trọng. Tuy nhiên, ở đây tớ không xét đến tính đúng đắn về mặt kỹ thuật (chẳng hạn chất lượng và vấn đề kỹ thuật của chuỗi thời gian các số liệu, quan hệ qua lại giữa các biến giải thích v.v...) mà không rõ các tác giả đã xử lý thế nào.

1. Như tớ đã phang các đồng chí nhiều lần rằng, ít nhất ở Việt Nam, lạm phát là cái có trước, gây ảnh hưởng lên tỷ giá (nhiều và trước), chứ không phải ngược lại. Bởi vậy, để ổn định tỷ giá thì phải ổn định/hạ thấp lạm phát trước đã, chứ không phải làm ngược lại là để chống lạm phát thì phải tập trung ổn định tỷ giá. Rất nhiều đồng chí to có, nhỏ có, đều một mực khẳng định phải ổn định tỷ giá để ổn định vĩ mô (tức lạm phát) làm tớ uất quá mà nói lại không xuể.

Trong bài này, các tác giả cũng đã đặt vấn đề một cách đúng đắn rằng: "Trong nhiều nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng, cần ổn định tỷ giá để kiểm soát lạm phát. Tuy nhiên, một số trong các nhân tố ảnh hưởng lớn đến tỷ giá hối đoái lại chính là lạm phát. Ví dụ, khi nguy cơ lạm phát tăng cao niềm tin vào đồng nội tệ giảm, người dân sẽ chuyển sang dự trữ vàng và ngoại tệ mạnh, khi đó nhu cầu bán nội tệ và mua ngoại tệ tăng cao làm cho tỷ giá biến động, trong trường hợp này cho thấy lạm phát là nguyên nhân và biến động tỷ giá là kết quả. Trong một số trường hợp, các quốc gia áp dụng cùng một chính sách tỷ giá hối đoái nhưng lại cho ra mức lạm phát khác nhau. Hoặc tại một số quốc gia, chính sách tỷ giá thay đổi nhưng mức lạm phát vẫn tăng cao."

Kết quả tính toán của các tác giả cũng cho thấy nhân tố tác động mạnh nhất đến tỷ giá là lạm phát (nhưng phải thừa nhận ở đây rằng không thấy các tác giả nêu rằng họ có tính toán được biến nào là nguyên nhân của biến nào - lạm phát gây ra phá/mất giá VND hay ngược lại?).

2. Các tác giả tính ra rằng dự trữ ngoại tệ có quan hệ ngược với tỷ giá. Điều này là hoàn toàn hợp lý, đúng như các tác giả đã đặt vấn đề ban đầu. Ý nghĩa của điều này là việc mua vào ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối thực ra đang là một cách thức để NHNN phá giá VND (so với việc để tỷ giá danh nghĩa giảm đi - VND lên giá danh nghĩa) trong bối cảnh luồng ngoại tệ (may mắn) đã và đang đổ vào VN nhiều hơn mức bình thường trong 2 năm qua. Nói cách khác cho dễ hiểu hơn là nếu NHNN không can thiệp như vừa qua (mua ngoại tệ, bán VND) thì tỷ giá có thể đã giảm đi, ví dụ, còn 18-19000 VND/USD so với mức >21000VND/USD như hiện nay. Cho nên, về mặt này, nếu cứ phát biểu rằng VN kiên quyết không phá giá là một phát biểu của "trí thức 1/2 mùa" (Lưu ý tớ giành bản quyền cho câu nói này đấy nhé, các đồng chí có dùng thì phải.xin phép tớ đấy nhé!).

Một hàm ý khác của điều này là thực ra việc tăng dự trữ ngoại hối như vừa qua không phải là thành công của NHNN, mà chỉ là sự kết hợp thuần túy, đương nhiên của 2 yếu tố (một khách quan, một chủ quan): vốn ngoại tệ đổ mạnh vào VN, và chính sách giữ cho VND (ít nhất là) không lên giá (danh nghĩa) với USD để hạn chế tác động tiêu cực lên cán cân thương mại. Cho nên, quỹ dự trữ ngoại hối phình to lên như hiện nay chỉ là sản phẩm tất yếu của sự kết hợp này, chứ không cho thấy bất cứ một thành công hay tài giỏi gì của NHNN cả.

3. Nhưng nói gì thì nói, tớ cực kỳ thất vọng với phần khuyến nghị của bài nghiên cứu này. Tớ vừa chẳng hiểu các tác giả muốn nói gì, vừa buồn cười vì các tác giả lại bê nguyên những chủ trương với khuyến nghị chung chung/tù mù của bản thân NHNN cũng như của nhiều người khác. Tại sao không đưa ra những khuyến nghị đơn giản/dễ hiểu có liên quan trực tiếp đến chủ đề của bài, chẳng hạn như để ổn định tỷ giá thì phải ổn định/hạ lạm phát?

Dù sao thì tớ cũng hoan nghênh nhiệt liệt những nỗ lực của giới nghiên cứu trong nước dùng kinh tế lượng để kiểm định các lý thuyết ở Việt Nam như thế này. Bước tiếp theo là phải làm sao mà viết được bằng tiếng Anh và xuất bản trên các tạp chí học thuật nước ngoài, mặc dù tớ biết rõ rằng chẳng dễ thế vì chắc chắn các nghiên cứu này còn rất nhiều vấn đề về phương pháp và nội dung, chẳng hạn như trong bài này mà tớ vừa nêu ra. Quan trọng hơn, nếu chỉ dừng lại ở mức độ như bài này thì cũng sẽ khó được chấp nhận vì không có yếu tố mới mẻ/có giá trị gia tăng về phương pháp, kỹ thuật, mục tiêu, hàm ý.

Wednesday 28 May 2014

Giá trần không phải là giải pháp hữu hiệu! (Bài đăng trên TBKTSG 29/5/2014, bản gốc, tiêu đề do báo đặt)

http://www.thesaigontimes.vn/115517/Gia-tran-khong-la-giai-phap-huu-hieu.html

Sau một thời gian thanh tra giá sữa, Bộ Tài chính đã quyết định áp trần giá sữa cho 25 sản phẩm sữa dành cho trẻ em dưới 6 tuổi kể từ ngày 1/6 này. Trả lời về quyết định áp trần giá sữa, Bộ Tài chính cho rằng đây là quyết định đúng luật và nhân văn.
Đúng luật là vì theo Luật Giá thì sản phẩm sữa trẻ em dưới 6 tuổi là sản phẩm nằm trong danh mục bình ổn giá. Nhân văn là vì quyết định này bảo đảm hài hòa được lợi ích giữa người sản xuất, nhà nước và người tiêu dùng – trẻ em dưới 6 tuổi, hiện lên đến con số 10 triệu trẻ em, theo lý giải của Bộ Tài chính.
Nhưng đối với người tiêu dùng, điều mà họ quan tâm là giá sữa liệu có “thôi” tăng liên tục như trước nữa hay không. Với họ, đúng luật hay nhân văn mà không làm giá sữa chững lại hoặc giảm đi thì áp giá trần chẳng để làm gì, có ý nghĩa gì.
Và điều lo ngại này xem ra có phần đúng sự thật. Các hãng sữa đang dùng một số chiêu lách luật rất đơn giản và đã được giới phân tích dự đoán từ trước là ra sản phẩm mới, ngừng bán sản phẩm cũ, giảm trọng lượng và giữ nguyên giá bán các sản phẩm sữa của họ để tuy trên thực tế là giá sữa tăng lên nhưng họ không phải xin phép Bộ Tài chính cho tăng giá.
Tất nhiên, về nguyên tắc thì Bộ Tài chinh có thể không hoàn toàn bất lực trước các chiêu tăng giá kinh điển này. Ví dụ, đối với trường hợp doanh nghiệp thay đổi mẫu mã rồi tăng giá bán, Bộ Tài chính có thể xem xét chi phí sản xuất rồi mới quyết định có cho phép doanh nghiệp tăng giá hay không. Dẫu vậy, câu hỏi được đặt ra là Bộ Tài chính có thực hiện được kiểm tra giám sát tầm “vi mô”, ở quy mô toàn quốc như thế này được không? Đương nhiên là cần người thì có thể tuyển thêm người để làm việc kiểm tra, giám sát này. Nhưng Bộ Tài chính còn phải làm nhiều việc, và nếu việc nào cũng tầm “vi mô” thế này thì Bộ Tài chính phải và sẽ trở thành một siêu bộ với bộ máy thanh tra giám sát giá cả nói chung và giá sữa nói riêng phải ở quy mô “khủng”, suốt ngày đi sục sạo thị trường từ thành phố về nông thôn lên miền núi để chắc chắn rằng giá sữa trần được thực thi nghiêm túc.
Hiển nhiên, Bộ Tài chính cũng có giao nhiệm vụ giám sát cho chính quyền cơ sở, nhưng cùng một vấn đề vẫn được đặt ra, liệu chính quyền các tỉnh có quản lý được chuyện giá cả xem ra rất phức tạp này không? Chắc chắn là không, vì với một bộ máy ngày càng phình to mà Bộ Tài chính không thể biết chuyện gì đã và đang xảy ra với giá sữa khi nó tăng nhanh và mạnh trong mấy năm qua, để rồi đến đợt thanh tra quyết liệt gần đây dưới sự chỉ đạo và thúc giục của Thủ tướng, Bộ Tài chinh mới phát hiện ra rằng nhiều doanh nghiệp sữa có sai phạm, vi phạm các quy định về giá cả của Bộ này. Thế mà trước đó Bộ cũng không ít lần quyết tâm với cam kết quản giá sữa. Đấy là chưa kể khả năng thông đồng của đội ngũ thanh tra, giám sát với các doanh nghiệp sản xuất và lưu thông sữa làm mất hiệu lực của trần giá sữa.
Thêm nữa, mặc dù Bộ Tài chính cho rằng họ quản lý giá sữa theo cơ chế thị trường nhưng có sự quản lý của nhà nước theo chủ trương chung, nhằm đảm bảo lợi ích hài hòa giữa nhà sản xuất, nhà nước và người tiêu dùng nhưng xem ra họ, với tư cách là đại diện lợi ích nhà nước, đã không làm gì góp phần đảm bảo hài hòa mối quan hệ này. Lẽ ra, với mong muốn người tiêu dùng đỡ phải mua sữa với giá cao, còn doanh nghiệp không đến nỗi phải “kêu trời” vì gặp khó khăn với giá trần này, Bộ Tài chính phải chủ động cắt giảm lợi ích của nhà nước bằng cách hạ thuế nhập khẩu sữa, hiện đang ở mức rất cao so với khu vực và quốc tế (1). Tiếc là cho đến nay chuyện hạ thuế nhập khẩu vẫn là chuyện xa xôi đâu đâu. Nói cách khác, sự đảm bảo hài hòa lợi ích giữa 3 bên đã không xảy ra, ít nhất vì lợi ích của nhà nước vẫn được giữ nguyên, không có gì thay đổi.
Ngoài ra, thuế nhập khẩu cao hoàn toàn còn có thể là một trong những tác nhân làm giảm nguồn cung sữa ở Việt Nam, làm cho các doanh nghiệp sữa không phải cạnh tranh sống chết để duy trì lợi nhuận. Bởi thế mới có chuyện kỳ quặc là các doanh nghiệp sữa ở Việt Nam thay vì tìm cách hạ giá thành và giá bản sản phẩm, tăng cường khuyến mãi như trong bất cứ một nền kinh tế thị trường thông thường nào thì lại chỉ chăm chăm tăng giá bán và thu lãi lớn, theo điều tra của Bộ Tài chinh.
Bản thân chuyện các doanh nghiệp sữa chỉ chăm chăm tìm cách tăng giá bán cũng thể hiện một điều rằng cơ chế quản lý giá sữa ở Việt Nam chẳng có chút dáng dấp nào của cơ chế thị trường như lời của Bộ Tài chính cả. Sự tự do cạnh tranh giữa các doanh nghiệp để hạ giá bán làm lợi cho người tiêu dùng đã không được khuyến khích bằng sự hạn chế nguồn cung (bao gồm biện pháp thuế với mức thuế nhập khẩu cao) và áp giá trần, càng làm giảm thêm nguồn cung.
Bởi vậy, thay vì áp giá trần, để rồi mọi việc sau một thời gian ồn ào rất có khả năng sẽ yên ắng trở lại như cũ (tức giá sữa vẫn cứ tăng trên thực tế), Bộ Tài chính nên xem xét lại việc quản lý giá của mình, chuyển sang dùng nhiều hơn các biện pháp kinh tế, bao gồm hạ thuế nhập khẩu, khuyến khích đầu tư mở rộng sản xuất sữa trong nước… để tăng cường nguồn cung sữa nhằm giảm giá sữa một cách bền vững trong dài hạn. Cần lưu ý rằng giá trần không phải và không bao giờ là giải pháp hữu hiệu trong việc kiểm soát giá cả.
(1)    http://dantri.com.vn/kinh-doanh/sua-bot-se-khong-bi-tang-thue-nhap-khau-474835.htm

Thursday 22 May 2014

Song phương hay đa phương? (Bài đăng trên TBKTSG Online, 23/5/2014)

http://www.thesaigontimes.vn/115324/Song-phuong-hay-da-phuong?.html

(TBKTSG Online) - Liệu còn nên đàm phán (song phương) nữa không khi ở đối phương dường như không có khái niệm “hòa bình”, “thiện chí”, “tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện các nguyên tắc của luật pháp quốc tế”, khi “biện pháp hòa bình” là một thứ xa xỉ với họ.

Trước những thái độ và hành động hung hăng, hiếu chiến trong một chiến lược dài hơi của Trung Quốc nhằm ôm gần trọn Biển Đông, Việt Nam vẫn chủ trương lựa chọn thương lượng, đàm phán song phương với gã hàng xóm khổng lồ xấu tính này theo đúng tinh thần của “Thỏa thuận về nguyên tắc cơ bản chỉ đạo về giải quyết các vấn đề trên biển”, được ký kết giữa Việt Nam và Trung Quốc vào tháng 10-2011 nhân chuyến thăm Trung Quốc của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Cũng theo thỏa thuận này, đàm phán đa phương sẽ chỉ diễn ra với các nước liên quan khi tranh chấp liên quan đến các nước đó.

Tinh thần của thỏa thuận trên là tích cực khi, theo lời của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, nó đã xác định các nguyên tắc cơ bản định hướng cho việc giải quyết vấn đề tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế và tính đến lợi ích của các bên liên quan. Thỏa thuận này “đòi hỏi nỗ lực và thiện chí của cả hai bên, (cần) tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hiệp quốc về Luật Biển 1982 và Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Ðông (DOC)”.

Với tinh thần này, và quả thực là nếu tranh chấp chỉ liên quan đến Việt Nam và Trung Quốc thì việc chỉ đàm phán, thương lượng song phương là điều tỏ ra rất logic, và đối với Việt Nam, dường như chẳng có lý do gì phải kéo thêm một bên thứ ba (không liên quan) vào bàn đàm phán Việt-Trung để làm rắc rối thêm tình hình, thậm chí làm phương hại đến “tình hữu nghị tốt đẹp, lâu đời và quý báu” giữa hai nước.

Còn đối với Trung Quốc thì dù có hay không có thỏa thuận này, họ vẫn chỉ chủ trương giải quyết song phương với tất cả các bên có tranh chấp biển đảo với Trung Quốc vì đã nhuần nhuyễn chiến thuật bẻ từng chiếc đũa trong bó đũa.

Tuy nhiên thực tế lại thường là rất khác với cách nhìn nhận của một số người Việt Nam, và vì thế làm cho việc kiên quyết chỉ giải quyết tranh chấp bằng thương lượng song phương trở thành cái vòng kim cô đối với chúng ta.

Liệu còn nên đàm phán (song phương) nữa không khi ở đối phương dường như không có khái niệm “hòa bình”, “thiện chí”, “tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện các nguyên tắc của luật pháp quốc tế”, khi “biện pháp hòa bình” là một thứ xa xỉ với họ. Bởi họ đã quen thói luôn tay dao, tay đấm của kẻ côn đồ, mồm thì câu trước hòa bình đi liền sau đó là hăm dọa, bôi nhọ, vu khống, tai thì đậy lại không để một chữ phải quấy nào của đối phương lọt được vào trong?

Đàm phán, thương lượng trong bối cảnh của một kẻ yếu thế trước một kẻ tham lam và bạo ngược như vậy thì đương nhiên kết quả hiếm khi là tốt đẹp cho kẻ yếu thế.

Liệu có nên đàm phán song phương nữa không khi đã biết rõ Trung Quốc chả bao giờ thực tâm không mưu tính vụ lợi, đã và đang sẵn sàng vứt bỏ và xổ toẹt mọi thỏa thuận với cam kết đẹp đẽ, đầy tình hữu nghị đồng chí và anh em, coi chúng chỉ là một loại vũ khí dùng để khống chế sự phản kháng củaViệt Nam? Có nên hy vọng thuyết phục được Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc thay đổi 180 độ quan điểm của mình khi ông ta nói tại cuộc họp song phương với Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam rằng giàn khoan Hải Dương 981 được hạ đặt trong lãnh thổ Trung Quốc và Việt Nam "cản phá"?

Và thêm nữa, liệu có nên đàm phán song phương nữa không khi những tranh chấp dù trên bề mặt chỉ là giữa Việt Nam và Trung Quốc lại ít nhiều liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến các bên thứ ba, mang tính khu vực và quốc tế, ví dụ như quyền tự do và an ninh hàng hải ở Biển Đông, và sự ổn định của khu vực? Đến hàng xóm đánh cãi nhau còn làm khuấy động làng xóm nữa là tranh chấp chủ quyền giữa hai quốc gia, đặc biệt khi luôn có thùng thuốc súng đặt bên cạnh.

“Đóng cửa bảo nhau”, nói chuyện hai bên không được, không nên thì ắt phải có bên thứ ba tham gia. Bên thứ ba này không nên chỉ được hiểu là những nước trực tiếp có tranh chấp với cả Việt Nam và Trung Quốc, và cũng không nhất thiết phải là một đồng minh quân sự với Việt Nam để tăng thêm đối trọng trong thương lượng song phương. Đừng cố gắng hiểu và bị làm cho hiểu theo nghĩa này để ta tự trói tay ta.

Bên thứ ba này có thể là trọng tài quốc tế để phán xử ai đúng ai sai, là các tổ chức khu vực và quốc tế, là những nước, những lực lượng yêu chuộng hòa bình, công lý, thấy sự bất bình thì lên tiếng bênh vực kẻ yếu và chính nghĩa, phê phán kẻ bạo ngược.

Nhưng những tổ chức, những nước và những lực lượng này sẽ không tham gia nếu Việt Nam chủ động “đóng cửa bảo nhau” với Trung Quốc, không cho thế giới bên ngoài biết điều gì đang diễn ra bên trong, trên bàn thương lượng, hoặc tỏ ra cho họ thấy Việt Nam không cần đến họ, hoặc ngược lại, không làm cho họ thấy được rằng họ cần phải lên tiếng ủng hộ Việt Nam, có thể vì chính lợi ích của bản thân họ.

Sự chủ động và tích cực tố cáo Trung Quốc xâm phạm lãnh hải của Việt Nam trên trường quốc tế trong vụ giàn khoan Hải Dương 981 hiện nay là điều tích cực, cần được tiếp tục tăng cường, xét từ góc độ nêu trên. Và cũng từ đây có thể thấy Việt Nam thực tế đã phần nào thoát ly ra khỏi cái vòng kim cô “thỏa thuận” giải quyết song phương nói trên trong cách tiếp cận và giải quyết vụ việc của mình.

Và một số bài học có thể rút ra được ở đây.

Thứ nhất, đừng tự đặt mình vào cái bẫy, tự trói mình vào bất cứ một cam kết, thỏa thuận nào như thỏa thuận nêu trên trong những vụ việc liên quan đến tranh chấp trên Biển Đông với Trung Quốc, mặc dù chúng có thể là sản phẩm tất yếu của sự giao thoa giữa hai Đảng ở hai nước.

Thứ hai, cho dù đôi khi thực sự chỉ cần, chỉ là thương lượng giải quyết song phương thì hãy công khai hóa, minh bạch hóa tối đa quá trình và nội dung thương lượng, cũng như kết quả cho công luận trong và ngoài nước biết. Có như vậy thì vấn đề song phương mới có thể biến thành đa phương nếu thương lượng song phương bế tắc, không đạt được kết quả như công luận kỳ vọng.

Thứ ba, qua những vụ việc thế này ta mới thấy rõ ai và ta có ai là bạn, là đồng minh, hoặc ít ra là “chơi được”. Bởi vậy, song phương hay đa phương không thực sự quan trọng bằng ta có và tạo dựng được những chỗ dựa nào khi khó khăn, để tăng thêm dũng khí và tư thế tự cường trong thương lượng giải quyết tranh chấp hay không.

Mà để thêm bạn thì chỉ còn cách thực tâm đi chung đường với bạn.

TPP và dệt may - Sửa cho đồng chí Ngân một tí

Trong bài này, đồng chí Ngân phát biểu có nhiều điểm sai, nguy hiểm.

1. Đồng chí Ngân nói: "Ở đây liên quan đến nguồn nguyên vật liệu, tôi cho rằng lúc này Việt Nam phải chủ động nguồn nguyên vật liệu cho ngành dệt may. Muốn làm được như vậy thì phải đầu tư ưu đãi cho việc trồng nguyên vật liệu để người dân chuyển đổi cây trồng bông, sợi. Có như vậy mới hưởng được ưu đãi từ TPP. Về góc độ này Việt Nam đang có lợi thế.
Về vấn đề này tôi cũng sẽ có đề nghị với Quốc hội ra Nghị quyết về nông nghiệp, chuyển đổi cây trồng."
 
Tớ bình luận: Chủ động nguồn nguyên liệu được thì tốt, mà không thì nhập khẩu nội khối TPP, chủ yếu từ Mỹ. Chủ động không có nghĩa là phải sản xuất bông với quy mô lớn (đáp ứng đủ nhu cầu cho dệt để xuất khẩu) cho bằng được. So với Mỹ thì tính cạnh tranh của bông Việt Nam là quá kém, chủ yếu vì điều kiện tự nhiên như diện tích, khí hậu, cơ giới hóa v.v... nên bông sản xuất tại Việt Nam sẽ vừa không đủ cho nhu cầu, vừa có giá thành cao, đằng nào cũng phải/nên nhập.
 
Mà đồng chí lưu ý cho rằng bông thì khác với sợi nhé. Bông thì có thể trồng được chứ sợi thì không và phải dùng tay hay máy để chế biến bông thành sợi (kéo, xe sợi). Nên đừng có nói là phải ưu đãi cho việc chuyển đổi (sang) trồng sợi, nghe buồn cười lắm.
 
Sai nữa là Việt Nam không cần phải sử dụng bông trồng trong nước mới được hưởng ưu đãi thuế quan TPP. Chính xác ra là Việt Nam chỉ cần sử dụng sợi được sản xuất trong nội bộ khối TPP là được. Còn nguyên liệu bông làm sợi thì có thể là từ Trung Quốc, từ ngoại khối TPP (nhưng chủ yếu vẫn là từ Mỹ). 
 
Còn sợi thì nhất thiết phải là từ nội khối, và thuộc thế mạnh của Mỹ. Đây cũng chính là một lý do mà Mỹ nhấn mạnh nguyên tắc yarn forward, và là cái giá xứng đáng phải trả để hàng dệt may Việt Nam được hưởng ưu đãi thuế trên thị trường Mỹ. Nếu Việt Nam ẵm trọn hết (nói dân dã là ăn cả vỏ lẫn hạt) thì Mỹ được cái lợi gì và tích cực vận động ký kết TPP để làm gì nữa?
 
Vì thế, đồng chí Ngân đừng có xui Quốc hội ra nghị quyết chuyển đổi cây trồng (bông và sợi) nữa nhé, tớ can đấy! Làm thế tớ e rằng vừa sai về khái niệm, nhầm lẫn về mục tiêu và, nếu thực thi, tình hình sẽ lại như kiểu chương trình mía đường, đánh bắt xa bờ v.v... Cái nguy hiểm của trí thức 1/2 mùa nằm ở chỗ này.
 
2. Đồng chí Ngân nói: "Trong nhóm TPP thì hàng Việt Nam có giá cạnh tranh nhất. Trong khi đó từ trước tới nay về giá thì các nước chỉ lo cạnh tranh với Trung Quốc.
Thế nhưng để đảm bảo mình được hưởng chế độ thuế quan thì nguyên vật liệu phải đảm bảo là ở trong nước. Còn hiện nay nguyên vật liệu của mình đang được nhập ở Trung Quốc về rồi gia công.
Cho nên để tránh sự lệ thuộc về kinh tế với Trung Quốc là việc cần thiết và cần có những bước đi dài hạn. Khi chúng ta giảm bớt sự lệ thuộc với Trung Quốc thì mới nâng được tính tự chủ và an ninh kinh tế của mình."
 
Tớ bình luận: Về chuyện hướng chế độ thuế quan với nguyên vật liệu trong nước thì sai như tớ nói ở trên.
Về chuyện lệ thuộc vào Trung Quốc, đương nhiên là đang lệ thuộc. Nhưng lệ thuộc ở đây chẳng ăn nhập gì với chuyện hưởng chế độ thuế quan TPP cả. Và xét trên nghĩa tự chủ, an ninh kinh tế, khi không lệ thuộc (vào bông của) Trung Quốc mà chuyển sang lệ thuộc (vào bông của) Mỹ thì tính/bản chất lệ thuộc nước ngoài không thay đổi. Có chăng là lệ thuộc vào Mỹ thì thấy nó ... văn minh (và đỡ sợ) hơn là vào Tầu, thế thôi.
 
 

Khi kinh doanh không đùa với niềm tin! (Bài đăng trên TBKTSG, ngày 22/5/2014, bản gốc)

 
Nhiều năm gần đây đã cho thấy nhiều trường hợp các quyết định sản xuất kinh doanh, nhất là của/liên quan đến khối doanh nghiệp nhà nước được hoạch định và thi hành dựa vào ý chí chủ quan, cũng như niềm tin và hy vọng mơ hồ của những người cầm chịch, chứ không phải là dựa trên cơ sở những tính toán về kinh tế vốn là cách làm thông thường của những doanh nghiệp cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.

Một trong những ví dụ điển hình về chuyện dựa vào niềm tin là trường hợp của Vinashin. Năm 2010, sau khi mọi việc bung bét, Vinashin bên bờ vực phá sản và Chính phủ buộc phải tái cơ cấu nó, đã có vị lãnh đạo mạnh miệng tuyên bố đại ý là đến năm 2012 thì Vinashin hết lỗ và đến năm 2014 thì bắt đầu có lãi. Nói chung là cũng có phân tích này kia để dẫn đến được kết luận này, chẳng hạn như tái cơ cấu, tập trung vào ngành nghề chính, tiếp tục sản xuất kinh doanh v.v... nhưng không khó để thấy rằng những phân tích đó không khác gì việc “đếm cua trong lỗ”, dựa đơn thuần vào ý chí chủ quan và niềm tin đã quyết tâm làm thì sẽ làm được, làm tốt, đạt được kết quả như mong muốn.

thực tế đã tỏ ra phũ phàng hơn thế nhiều khi cho thấy Vinashin không những không hết lỗ mà còn bị cho “biến mất”, thay vào đó là một công ty mang tên khác, với những khoản nợ khổng lồ được phân tán cho các nơi khác gánh hộ, hoặc treo, hoặc xóa.

Dự án “đình đám” gần đây nhất là dự án bô xít ở Tây Nguyên, vốn đã hứng chịu nhiều phản biện trái chiều của dư luận. Theo báo cáo đánh giá của đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, cũng như đại diện của Chính phủ là Bộ Công thương là dự án có hiệu quả, cho dù không cao. Về phía Bộ Công thương, họ đưa ra những lý lẽ minh chứng tính hiệu quả của dự án một cách khá dễ dãi. Ví dụ, “sản phẩm alumin(a) sản xuất ra đến đâu tiêu thụ hết đến đó”. Đương nhiên là nếu bán rẻ thì sẽ tiêu thụ hết ngay thôi, có gì để nói lên tính hiệu quả ở đây đâu?

Và vì giá tiêu thụ của alumina Việt Nam ở thời điểm này (và cả trước đó) chắc chắn thấp xa so với mức giá có lãi khi lập dự toán (hiện giá alumina giao ngay FOB từ Úc  là 316 USD/tấn vào ngày 16/5, và trung bình là USD323/tấn trong 5 tháng đầu năm 2014, 327 USD/tấn năm 2013, so với giá mà Vinacomin ước tính có lãi là 362 USD/tấn;[1] xem Hình 1 về giá dưới đây) nên cho dù có bao biện rằng dự án bô xít này có hiệu quả ở mặt gì đi chăng nữa thì về mặt kinh tế phải nói nó là một dự án tồi, không hiệu quả.

Ngoài ra, với giá thành sản xuất tại thời điểm 3/2013 là 6,5 triệu đồng/tấn (trên 310 USD/tấn)[2] và giả thiết là mức này không đổi cho đến thời điểm hiện tại thì có thể nói tính cạnh tranh về giá thành (chưa nói đến chất lượng) của alumina sản xuất tại Việt Nam đang rất kém. Cụ thể, từ Hình 2 minh họa về giá thành sản xuất alumina của thế giới, ta thấy Việt Nam đang nằm ở phía cuối của nhóm 3 hoặc đã lọt vào nhóm 4 là nhóm có giá thành cao nhất (mỗi nhóm đại diện 25% sản lượng thế giới). Nói cách khác, chi phí sản xuất alumina ở Việt Nam đang rất cao so với mức trung bình của thế giới, nên Vinacomin sẽ là một trong những nhà sản xuất phải đóng cửa trước tiên khi giá alumina thế giới trong tương lai tiếp tục ở mức thấp như hiện tại (giả thiết rằng Chính phủ không có ưu đãi, cứu trợ, hỗ trợ gì).

Để phần nào trấn an dư luận, các quan chức hữu trách đưa ra dự báo rằng giá bán alumina sẽ tăng lên khoảng 400 USD/tấn vào năm 2018 (trở đi), và tin rằng dự án “sẽ đỡ rủi ro hơn”. Đồng ý rằng giá alumina cũng có khả năng tăng lên đến mức này (mặc dù cần lưu ý rằng dự đoán thường cũng không hiếm khi sai). Nhưng điều cần chú ý là trong phần tăng lên của giá bán này có mặt của lạm phát. Đối với giá thành sản xuất alumina tại Việt Nam, của Vinacomin, cũng vậy, giá bán có thể tăng lên nhưng cũng rất có thể sẽ đồng hành với giá thành tăng lên, một phần do lạm phát. Nếu thế thì biên độ lợi nhuận hoàn toàn có khả năng không được cải thiện, nếu không muốn nói là sẽ kém đi (và Vinacomin vẫn thuộc trong số những nhà sản xuất alumina kém hiệu quả nhất thế giới). Do đó, niềm tin rằng dự án “sẽ đỡ rủi ro hơn” cũng rất... chập chờn và mơ hồ trong tương lai mấy (chục) năm nữa.

Các quan chức cũng bổ sung thêm yếu tố là có thể khai thác sắt từ bùn đỏ của dự án bô xít như là một điểm cộng cho tính hiệu quả của dự án. Nhưng có điều đây cũng chỉ như việc “đếm cua trong lỗ”, vì để biến thành hiện thực, Vinacomin lại có thể vấp phải thêm một vòng luẩn quẩn nữa: vay nợ, đầu tư, sản xuất kém hiệu quả, thua lỗ, vay nợ/xin ưu đãi, hỗ trợ, xóa nợ...

Sau cùng, một số “ưu điểm” khác của dự án như giải quyết công ăn việc làm, văn hóa, môi trường .... cũng được liệt kê ra, nhưng nói cho cùng số tiền (dự tính) thua lỗ từ việc sản xuất alumina nếu để dành làm những dự án khác cho vùng đất Tây Nguyên này thì có lẽ sẽ còn mang lại hiệu quả trực tiếp lớn hơn nhiều.

Tóm lại, với tư duy làm dự án (bởi các doanh nghiệp nhà nước) ở Việt Nam phần nhiều mang nặng tính chủ quan, duy ý chí, dựa vào niềm tin và quyết tâm chính trị nhiều hơn là những tính toán lỗ lãi về kinh tế thuần túy, không khó hiểu khi nhiều dự án lớn nhỏ đã và đang thua lỗ nặng nề, dường như không lối thoát. Riêng đối với dự án bô xít, cũng đã đến lúc cần mạnh dạn thừa nhận tính không hiệu quả (về kinh tế) của nó để sớm có quyết định phù hợp, ít gây tổn thất nhất cho xã hội. Nếu vẫn cứ muốn nhấn mạnh đến mục tiêu phi kinh tế thì tốt nhất là làm các dự án riêng biệt và trực tiếp nhằm đến các mục tiêu đó.





[1] http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/can-tam-dung-du-an-alumin-nhan-co-20130509114451754.htm
[2] Đã dẫn.










Wednesday 21 May 2014

Đồng chí này nói về tỷ giá thế là được!

Đồng chí Hải ở HSBC trả lời VnEconomy về tỷ giá có lẽ là tốt nhất trong số những nhận định về tỷ giá của giới có học.

Cụ thể:

1. Vạch ra được 5 yếu tố góp phần tăng tỷ giá, mà thường chỉ có người làm trong ngân hàng mới có thể quan sát được. Nhưng cũng chính qua những yếu tố này ta mới càng thấy thêm cái nguy hiểm của việc cam kết và neo giữ tỷ giá, tạo điều kiện cho giới đầu tư làm ăn trên lưng NHNN (và cũng tức là trên lưng ngân khố quốc gia). Tớ đã nhiều lần nói đến cái mối nguy này mà không ai thèm nghe, chỉ chăm chăm vào chuyện làm sao ổn định được tỷ giá để "tạo niềm tin" cho giới đầu tư (tức là tạo điều kiện cho họ tiếp tục kiếm lợi dưới sự "bảo kê" của chính sách neo giữ tỷ giá của NHNN).

2. Thừa nhận sự lên xuống của tỷ giá là điều tốt (chứ không phải ổn định mới là tốt), để tránh đầu cơ (ví dụ, vay đôla chuyển ra VND để cho vay lại, hưởng lãi suất VND). Đây cũng là điều ngược lại với quan điểm (trên bề mặt) của NHNN và của đại bộ phận các đồng chí chuyên gia và dân thường.

3. Thừa nhận việc điều hành tỷ giá không nên/chỉ căn cứ vào quan hệ cung cầu có căng thẳng hay không, mà còn phải phụ thuộc vào một số yếu tố chủ quan khác, chẳng hạn như kích thích xuất khẩu (đây cũng là ý của đồng chí X kính yêu của tớ, như tớ đã hoan nghênh nhiệt liệt trong một bài trên TBKTSG, có post trong blog này, hình như dưới tiêu đề "Chính sách tỷ giá qua thông điệp của Thủ tướng"). Đây là điều mà NHNN nhất quyết chống lại (trên bề mặt), và luôn nhấn mạnh chỉ can thiệp khi có căng thẳng cung cầu, và hiện tại chưa cần can thiệp vì cung cầu vẫn bình thường.

4. Thừa nhận rằng phá giá (điều chỉnh tỷ giá) là có lợi cho xuất khẩu (mặc dù có thể kèm một số cái hại đến những chỉ tiêu vĩ mô khác như lạm phát, niềm tin...), chứ không phải như phát biểu từ những cái lưỡi máy rằng phá giá không có lợi cho xuất khẩu.


Viết tiếp về chuyện chính quyền cam kết khắc phục hậu quả bạo loạn

Trong entry trước tớ điên quá nên nói các đồng chí chính quyền chẳng ra cái gì lắm. Trong entry này, tớ vẽ đường cho các đồng chí thoát nhé.

Việc các đồng chí tích cực, ráo riết cam kết, hứa hẹn đền bù các doanh nghiệp bị hại ấy mà, thực ra là rất không nên. Tại sao ư? Vì các đồng chí làm thế hóa ra là các đồng chí nhận rằng mình là người (góp phần) gây ra tội lỗi (phá hoại) à?

Ví dụ thế này nhé, ngoài đường có đồng chí đầu gấu đánh một đồng chí dân lành (giống trường hợp của tớ nhiều năm về trước). Đánh chán chê, và chẳng may cho đồng chí dân lành là nó xảy ra ở chỗ không có đồng chí công an nào lượn lờ, nên đồng chí dân lành thiệt hại khá là nặng nề. Lúc sau mới có một đồng chí công an lững thững đến xem vì có ai đó gọi điện báo. Đồng chí công an tóm luôn đồng chí đầu gấu về đồn, rồi nói mấy lời phải quấy với đồng chí dân lành, đại loại là về đi (nếu còn lết được), lần sau thấy nó thì tránh xa ra.

Đồng chí dân lành sau đó dù có đau mấy, hận mấy thì cũng chỉ dám kiện đồng chí đầu gấu bắt bồi thường và đòi tống nó vào tù, chứ không bắt vạ đồng chí công an được, vì đồng chí công an (trên danh nghĩa) không can dự, không đứng về phía đồng chí đầu gấu, và cũng không phải là thấy đồng chí đầu gấu đánh mình mà không làm gì cả.

Và nếu may mắn hơn khi đồng chí dân lành có mua bảo hiểm rủi ro, tai nạn, bảo hiểm thân thể thì đồng chí dân lành này có cơ hội làm giàu trên xương máu của mình được (và cho đáng đời đồng chí nếu không mua bảo hiểm, thực ra là bắt buộc nếu muốn sống và làm ăn ở cái xứ thiên đường này).

Nay thử tưởng tượng tự nhiên đồng chí công an nọ đứng lên bô bô nói là chuyện đồng chí dân lành bị đồng chí đầu gấu đánh là một điều rất đáng tiếc, nên đồng chí công an sẽ lấy quỹ của đồn/phòng/sở/bộ để đền bù thiệt hại cho đồng chí dân lành. Đồng chí công an sẽ không nói rằng, tỉ như, việc đền bù này là do lỗi của đồng chí ấy, mà chỉ nói là lương tâm thấy cần phải làm thế, để cho đồng chí dân lành mau chóng hồi phục sức khỏe đặng cống hiến tiếp tục cho cộng đồng.

Nếu như vậy chắc không ít trong số tất cả các chí bạn đọc thân mến của tớ sẽ gào lên vào mặt tớ (kẻ đạo diễn ra kịch bản này), và/hoặc đồng chí công an rằng "thằng điên", "thằng khốn", "thằng cơ hội", "thằng...".

Những đồng chí khác còn lại tỉnh táo hơn thì sẽ nghi ngờ rất chính đáng rằng phải chăng đồng chí công an này lúc đầu có phụ giúp thằng đầu gấu, có nhận cái gì của nó, có nhìn thấy nó đánh người mà sợ không dám làm gì, hoặc cấp trên (hoặc ai đó đứng đằng sau) ngăn không cho nhảy vào can thiệp tóm thằng đầu gấu, hoặc, hay hơn, là đây là trận đánh (dân) đẹp do các đồng chí đạo diễn v.v...

Tóm lại là khả năng nào thì cũng là điều rất không hay cho đồng chí công an. Nên tốt nhất là đồng chí công an này nên lặn im đừng sủi tăm (thỉnh thoảng xuất hiện để, ví dụ, làm chứng, hoặc nói mấy lời phải quấy trình bầy tại sao mình không thể làm gì hơn cho đồng chí dân lành lúc đó được), kệ cho tòa án và bảo hiểm làm việc với đồng chí dân lành bị hại và đồng chí đầu gấu.

Đại loại thế. Nên tớ thành thật lấy làm tiếc rằng các đồng chí lại tích cực và sốt sắng cam kết với đền bù (bằng tiền của người khác). Giá mà làm lại được thì tớ khuyên các đồng chí đánh bài lảng.

Tuesday 20 May 2014

Nỗ lực cái nỗi gì? Cam kết làm gì? (liên quan đến vụ chính quyền cam kết, nỗ lực...)

Đọc mấy cái tin thể loại này tớ cũng chỉ muốn chửi tục trên blog này (mặc dù đã chửi ở ngoài rồi). Lúc nổ ra xô sát, phá phách, các đồng chí đang rúc đầu vào đâu hả? Sao không chỉ đạo công an, cảnh sát với dân phòng bình thường nhung nhúc như ruồi không xua cũng bu đến để giải quyết, xử lý hả?

Giờ thì thiệt hại đã nổ ra mới ra mặt xin lỗi với cam kết. Mà đã xin lỗi những ai rồi? Hình như chưa xin lỗi dân nộp thuế tự nhiên bị mất tiền cho các đồng chí mang đi bồi thường cho các doanh nghiệp bị phá bởi sự và/hoặc vô trách nhiệm, và/hoặc hèn nhát, và/hoặc không biết làm việc gì cho ra hồn, và/hoặc vì một động cơ/âm mưu từ trên xuống dưới nào đó. Mà xin lỗi làm gì vì chỉ có dân mới mất tiền đền oan chứ tài sản riêng của các đồng chí có bị suy suyển vì bị đem ra đền bù cho trách nhiệm của các đồng chí đâu?

Giờ thì thiệt hại đã nổ ra mới quyết tâm với nỗ lực khôi phục niềm tin. Quyết tâm và nỗ lực với ai? Ai còn tin các đồng chí? Nhà đầu tư nào còn dám đặt cược sinh mệnh và tài sản vào tay các đồng chí khi mới vừa trước đó một vài ngày họ giữ được cái mạng mình đã là may lắm rồi?

Với những tội lỗi tầy đình vậy mà các đồng chí vẫn còn được ngồi yên ở đó và mở miệng chỉ đạo thì đúng là chỉ có ở cái xứ thiên đường này thật.

Tớ được cho đổi nghề sang làm báo!

Đồng chí nhà báo này chắc khoái tớ quá nên hô biến tớ thành nhà báo giống đồng chí ấy luôn trong bài này. Kể ra thì tớ cũng có duyên với nghề này phết đấy, nên chuyển nghề được thì cũng không tệ lắm (trừ những lúc thấy khốn vì bài bị kiểm duyệt, bị rút xuống hoặc không được đăng).

http://www.tinmoi.vn/du-an-doi-gia-6000-ti-bo-gtvt-nen-sa-thai-nhom-quan-ly-011303646.html

Trả lời phỏng vấn Bizlive về kinh tế Trung Quốc và ảnh hưởng lên Việt Nam

Đây là nội dung trả lời phỏng vấn của tớ với phóng viên/nhà báo Lê Phương của Bizlive đã lâu lâu. Hôm nay tớ mới tình cờ đọc được nó dưới dạng một bài viết của phóng viên/nhà báo này lồng ghép với những dẫn giải và phân tích riêng. Thấy khá hay (vì có văn của tớ!!!) nên post lại ở đây cho các đồng chí đọc chơi.

Lúc trước thì tớ khá ngạc nhiên vì không thấy tăm tích của bài phỏng vấn này đâu cả, mà cũng không tiện hỏi lại đồng chí Phương (đề phòng trường hợp đồng chí ấy chê không dùng thì lại xấu hổ tớ ra).

Thỉnh thoảng viết về Trung Quốc thế này các đồng chí đừng tưởng tớ mang quốc tịch Tầu nhé, mặc dù gốc tích của cụ kị tớ (họ Phan) xuất phát từ Tầu, di cư vào Việt Nam đâu như từ thời Tống. Tiết lộ thế này khéo sau này tớ mất hết cơ hội làm nãnh đạo ở Việt Nam vì chót mang dòng máu Tầu mất thôi.

-----------------------------------------------------------
Kinh tế Trung Quốc giảm tốc, cơ hội hay thách thức với Việt Nam?
http://www.thebusiness.vn/tin-tuc-kinh-doanh/kinh-te-trung-quoc-giam-toc--co-hoi-hay-thach-thuc-voi-viet-nam-p5186.html

Có mối quan hệ giao thương chặt chẽ với Trung Quốc, kinh tế Việt Nam liệu có hứng chịu tác động domino từ đà tăng trưởng giảm sút của kinh tế Đại lục?

"Khi người khổng lồ hắt xì hơi"

Với những tín hiệu không mấy tích cực phát ra trong thời gian gần đây, có vẻ kinh tế Trung Quốc đã bước qua giai đoạn “phát triển thần kỳ” với đà tăng trưởng nóng hai con số để đặt chân vào một giai đoạn suy thoái đầy rẫy bất ổn. 

shanghai
Liệu rằng Trung Quốc có suy yếu hẳn?

Trong tháng Hai, ngân hàng HSBC công bố chỉ số nhà quản trị mua hàng PMI của Trung Quốc ở mốc 49,6 thấy hoạt động sản xuất đang bị thu hẹp.

Theo số liệu của Tổng cục thống kê nước này, kinh tế Trung Quốc quý I tăng trưởng ở mốc 7,4% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng thấp nhất trong vòng 6 quý trở lại đây.
Chính phủ đã đặt ra mục tiêu tăng trưởng GDP chính thức cả năm tại ngưỡng 7,5%, trong khi các nhà kinh tế dự báo tăng trưởng cả năm sẽ giảm xuống còn 7,3%, thấp hơn hẳn so với mức tăng trưởng trung bình 7,7% trong hai năm qua và 9,3% trong năm 2011, 10,5% trong năm 2010.

Sản lượng công nghiệp tăng 8,6% trong hai tháng đầu năm 2014 so với cùng kỳ năm trước, nhưng vẫn kém xa so với mức kỳ vọng 9,5% của thị trường và là sản lượng tệ nhất tính từ tháng 4/2009.

Các phân khúc khác của nền kinh tế cũng gặp khó khăn. Tăng trưởng doanh số bất động sản chững lại ở tốc độ chậm nhất trong vòng 3 năm, nhích 11,8% trong hai tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước, gây thất vọng đối với giới đầu tư khi chưa chạm mốc ước đoán 13,5%.

Đây là hệ quả của cả một thập kỷ đầu tư quá mức, khi Đại lục rót tiền vào xây hàng loạt nhà máy, đường cao tốc và chung cư, khiến giá trị tài sản cố định của Trung Quốc đi lên, nhưng tốc độ gia tăng hiệu quả của các dự án này lại không theo kịp.

Giờ đây, để kích thích nhu cầu tiêu dùng nguội lạnh trong nước và nỗ lực giảm sự phục thuộc của nền kinh tế vào hoạt động vay nợ, chính phủ Bắc Kinh buộc phải bằng lòng với một đà tăng trưởng kinh tế chậm hơn để phục vụ tái cơ cấu kinh tế.

Tuy nhiên, những chính sách cải cách này không chỉ tác động tới nội tại nền kinh tế, mà hiệu ứng lan tỏa của chúng sẽ vươn ra ngoài phạm vi Đại lục, trong đó có nước láng giềng gần kề - Việt Nam.

Cơ hội hay thách thức cho nước láng giềng?

Chịu tác động đầu tiên từ đà giảm tốc của kinh tế Trung Quốc sẽ là khu vực xuất khẩu của Việt Nam. Tính đến cuối năm 2013, giá trị hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc vượt mốc 13 tỷ USD, tăng 7% so với cùng kỳ năm trước và chiếm tới 10% tổng giá trị xuất khẩu cả nước, chủ yếu là các mặt hàng thủy hải sản, dệt kim, nguyên vật liệu…
Trước đây, khi Trung Quốc rót tiền vào ào ạt xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng sản xuất, nước này tiêu thụ một lượng khổng lồ các nguyên vật liệu nhập khẩu, trong đó phần nhiều là nguyên liệu thô.

Giờ đây, khi chính phủ nước này thắt chặt dòng vốn đầu đầu tư vào tài sản cố định, tăng trưởng nhu cầu giảm sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới kim ngạch nhập khẩu của nước này, kéo theo tác động tiêu cực lên các mặt hàng nguyên liệu của Việt Nam có tỷ trọng xuất khẩu lớn sang Trung Quốc như cao su và than đá.

Trong những năm qua, Đại lục vẫn là thị trường chi phối hai mặt hàng xuất khẩu trên của Việt Nam, với khối lượng tiêu thụ 47% cao su Việt Nam xuất khẩu, con số này đối với than đá cán mốc 77% năm 2013.

Vào những năm 2007 – 2008, khi những nguồn năng lượng thân thiện với môi trường như năng lượng mặt trời, gió,… còn chưa phổ biến tại Trung Quốc, than vẫn là nguồn nguyên liệu chính được sử dụng trong các lò nhiệt điện tạo năng lượng phục vụ hoạt động công nghiệp của các nhà máy cũng như tiêu dùng của người dân.

Theo thống kê của trang web Climate Central, chỉ tính riêng trong năm 2007, Trung Quốc đốt hơn 4 tỷ tấn than để tạo nhiệt, nhiều gấp 4 lần Mỹ và gấp 7 lần toàn bộ lượng tiêu thụ của Liên minh châu Âu. Đây cũng là năm Trung Quốc nhập than từ Việt Nam nhiều nhất trong vòng 6 năm trở lại đây khi Tổng cục Hải quan bắt đầu thống kê số liệu.

Hiện nay, bên cạnh nhu cầu sản xuất hàng hóa phục vụ xuất khẩu bị kìm hãm, vấn đề ô nhiễm không khí tại Trung Quốc cũng đang khiến chính phủ phải hứng nhiều chỉ trích.

Vào đầu tháng Hai, tình trạng ô nhiễm không khí tại thủ đô Bắc Kinh lần đầu tiên được xếp vào nhóm báo động vàng, mức độ cao thứ hai trong hệ thống cảnh báo ô nhiễm 4 bậc.

Theo dữ liệu của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ, nồng độ hạt bụi phân tử PM 2.5 trong không khí ở mức 300 sẽ được coi là rất nguy hiểm. Trong khi đó, nồng độ PM 2.5 được ghi nhận ở đây đã chạm ngưỡng 500.

Đối mặt với làn sóng phẫn nộ của người dân và truyền thông, chính phủ Bắc Kinh sẽ buộc phải mạnh tay trong việc thắt chặt quản lý tiêu thụ các nguyên liệu tạo nhiều khói bụi và CO2 như than đá, từ đó chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới thị trường xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam.

Trên thực tế, lượng than đá xuất khẩu từ Việt Nam sang Trung Quốc trong năm 2013 đã tụt xuống chưa đầy phân nửa so với năm 2006, đà trượt dốc này có nguy cơ trở nên trầm trọng hơn trong tương lai gần.

Theo phản ánh của Tập đoàn Công nghiệp Than - khoáng sản Việt Nam Vinacomin, lượng xuất khẩu than của tập đoàn này sang thị trường Trung Quốc trong những năm gần đây liên tục giảm sút, từ đỉnh điểm 24 triệu tấn giai đoạn 2007 – 2008, giảm xuống một nửa còn 12 triệu tấn năm 2013 và dự kiến con số này trong năm 2014 sẽ còn 8 triệu tấn.
Không chỉ lượng xuất khẩu bị co hẹp, doanh thu chảy vào doanh nghiệp Việt từ xuất khẩu vật liệu thô cũng sẽ giảm tốc khi giá cả tuột dốc – hệ quả tất yếu của quy luật cung cầu: Nhu cầu giảm, nguồn cung không đổi sẽ khiến giá cả giảm.

Theo đánh giá của chuyên gia kinh tế Phan Minh Ngọc, điều đáng lo ngại hơn là nhu cầu nhập khẩu của Trung Quốc tăng chậm lại trong khi nguồn cung tiếp tục gia tăng tại các nước xuất khẩu như Việt Nam vì đã “chót” đầu tư mở rộng công suất khai thác trong thời kỳ thịnh vượng trước đó, sẽ làm giá cả của các loại nguyên liệu này chịu thêm nhiều tầng áp lực.

Có một điều nghịch lý vẫn tồn tại là để giảm lỗ và có tiền trả nợ, các nhà cung cấp buộc phải tiếp tục mở rộng sản xuất, tăng sản lượng, càng làm trầm trọng thêm vòng luẩn quẩn cầu giảm- giá giảm-cung tăng.

Trước mắt, những ngành xuất khẩu ở Việt Nam có khả năng “giơ đầu chịu báng” đầu tiên phải kể đến là than đá, quặng (bauxite, thép)… khi phải đối mặt với nhu cầu nhập khẩu từ Trung Quốc có thể không tăng, thậm chí sụt giảm trong khi giá cả nói chung có xu hướng đi xuống.

Với những doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng này tại Việt Nam, lực cầu và doanh thu giảm sút có thể khiến nhiều công ty phải thu hẹp mô hình sản xuất, dẫn đến cắt giảm nhân công, đẩy nhiều người rơi vào tình cảnh thất nghiệp.

Úc là một quốc gia điển hình phải chịu ảnh hưởng từ nhu cầu nguội lạnh dần tại Trung Quốc. Nước này từng hưởng lợi lớn từ việc xuất khẩu kim loại vào Đại lục trong giai đoạn 2008-2009 khi giá đồng tăng vọt cán mốc 200USD/tấn, hàng nghìn công nhân đã được điều động vào các hầm mỏ để khai thác quặng kim loại phục vụ xuất khẩu.

Nhưng đến năm 2011, khi giá đồng giảm quá nửa dưới 90USD/tấn khiến lợi nhuận cận biên từ hoạt động xuất khẩu tiêu biến, chính phủ Úc đã phải sa thải hơn 11.000 công nhân mỏ, tương ứng 0,1% lực lượng lao động toàn quốc, góp phần đẩy tỷ lệ thất nghiệp của nước này lên 6% tính đến cuối năm 2013, đỉnh cao nhất trong một thập kỷ, với các vùng có nhiều mỏ khai khoáng có tỷ lệ thất nghiệp tăng hơn 1%.

TS. Minh Ngọc nhận định có thể sẽ có một vài doanh nghiệp Việt Nam được hưởng lợi khi Trung Quốc tập trung tăng trưởng “xanh” và bền vững, hướng vào thị trường nội địa, nhờ đó cơ hội xuất khẩu vào thị trường nội địa nước này gia tăng.

Nhưng ông cũng cho rằng các doanh nghiệp không nên hy vọng nhiều từ những cơ hội này vì các nhà tư bản, nhà sản xuất Trung Quốc cũng sẽ dễ dàng hơn đối tác Việt Nam trong việc phát hiện những cơ hội mới ấy.
Khi đó, với tiềm lực sản xuất, độ am hiểu thị trường và mạng lưới tiếp thị sẵn có, họ sẽ có nhiều lợi thế hơn doanh nghiệp Việt Nam trong cuộc đua.
Ngoài việc nhu cầu tiêu thụ nội tại Trung Quốc bị teo tóp, TS. Minh Ngọc đã chỉ ra thêm một động thái khác của nước này có thể tiếp tục đẩy giá hàng hóa đi xuống, đó là biên độ giao dịch của đồng nhân dân tệ với USD được mở giãn trong tháng Hai, tiến tới tự do hóa đồng nội tệ.

Trước đây, khoảng giãn lãi suất lớn giữa đồng nhân dân tệ và USD đã thu hút những tay đầu cơ vay USD với lãi suất thấp, sau đó đem USD vừa vay được đổi sang nhân dân tệ, đem cho vay để hưởng lãi suất cao hơn, từ đó ăn chênh lệch lãi suất ngắn hạn.

Nhưng khi tỷ lệ nợ/GDP gia tăng chạm mức báo động (bằng 215% GDP chỉ trong năm năm), cộng với bong bóng tài chính phình to do đầu tư quá mức, Trung Quốc phải triển khai những biện pháp quản lý ngoại hối nhằm kiểm soát việc vay mượn và kinh doanh ngoại tệ.

Để luồn lách luật, giới đầu cơ đã dùng tới các giao dịch tài trợ thông qua hàng hóa cơ bản như đồng, nhôm và các kim loại quý như vàng, bạc,…

Càng có nhiều nhà đầu cơ tham gia vào thị trường này, nhu cầu “ảo” đối với những mặt hàng trên càng tăng, đẩy giá cả đi lên khi nguồn cung không đổi.

Nhưng một khi nhu cầu vật chất giảm sút kéo giá hàng hóa đi xuống, các nhà đầu cơ sẽ lập tức bán tháo hàng để chốt lãi tiền mặt, giải phóng một lượng lớn hàng hóa cơ bản ra thị trường, càng tạo sức ép lên giá cả các những mặt hàng này.

(Phần 2)
http://www.thebusiness.vn/tin-tuc-kinh-doanh/kinh-te-trung-quoc-giam-toc--co-hoi-hay-thach-thuc-voi-viet-nam-phan-2-p5195.html

Phần 1 bài viết đã chỉ ra các dấu hiệu bất ổn trong kinh tế Trung Quốc thời gian gần đây, tạo sức ép lên xuất khẩu của Việt Nam cũng như nhiều doanh nghiệp trong nước.
Nhưng không chỉ phân khúc xuất khẩu gặp khó, thị trường nhập khẩu Việt Nam cũng sẽ chịu nhiều sức ép.

Ảnh minh họa: Dave Granlund

Không chỉ là thị trường tiêu thụ quan trọng, Trung Quốc cũng là nhà cung cấp nhiều nhất các loại mặt hàng vào lãnh thổ Việt Nam.

Trong năm 2013, nhập khẩu hàng hóa từ Đại lục tăng trưởng mạnh mẽ tại 25%, chiếm gần 1/3 tổng giá trị nhập khẩu của cả nước.

Không chỉ với Việt Nam mà trong cả mạng lưới giao thương quốc tế, Trung Quốc vẫn luôn là một cường quốc. Năm 2008, nước này vượt mặt Mỹ trở thành nước có giá trị xuất khẩu lớn nhất thế giới.
Trong bối cảnh xuất khẩu là ngành công nghiệp xương sống của nền kinh tế, một khi tốc độ tăng trưởng giảm sút, áp lực buộc các nhà sản xuất và cả Chính phủ Bắc Kinh phải tăng cường các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu (lành mạnh và cả không lành mạnh), từ đó đè nặng sức ép lên nền sản xuất nội địa của nhiều quốc gia khác trên thế giới, đương nhiên có cả Việt Nam, TS. Minh Ngọc nhận định.

Cùng chung ý kiến, ông Jean-Joseph Boilot, nguyên cố vấn Bộ Tài chính Pháp về các khu vực mới nổi, cho rằng các nhà sản xuất Trung Quốc, trong thời điểm khó khăn, sẽ tìm cách xuất khẩu bằng mọi giá để duy trì nhịp độ sản xuất trong nước.

Các thị trường được doanh nghiệp nước này nhắm tới đầu tiên sẽ là các nước gần kề về địa lý như Việt Nam để tiết kiệm chi phí, khi đó “miếng bánh ngon” trên thị trường sẽ rơi vào tay hàng Trung
Quốc, còn các sản phẩm nước nhà sẽ phải chịu lép vế.

Quả thực tại Việt Nam, hầu như chưa có nguồn hàng nào thay thế hiệu quả các sản phẩm “made in China”. Điểm mạnh nhất của hàng Trung Quốc là giá thành rẻ, mẫu mã phong phú.

Trung Quốc sẽ gia tăng cạnh tranh với Việt Nam chủ yếu trong phạm vi những mặt hàng cạnh tranh với nhập khẩu của Việt Nam (hàng hóa tiêu dùng, máy móc và nguyên vật liệu), đặc biệt là những mặt hàng có hàng rào bảo vệ kỹ thuật thấp, lỏng lẻo, giá thấp, làm trầm trọng thâm hụt thương mại của Việt Nam với Đại lục, vốn đã cán mốc 23 tỷ USD tính đến cuối năm 2013, chiếm 18% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Vì vậy theo TS. Minh Ngọc, các doanh nghiệp sản xuất trong nước sẽ mất nhiều hơn được, và các cơ hội tốt là không mấy sẵn có cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung.

Ngoài nguy cơ thua trận ngay trên sân nhà, một điểm đáng lưu ý khác là hàng Việt Nam còn phải đối mặt với sự cạnh tranh của hàng xuất khẩu Trung Quốc trên nhiều thị trường ngoài nước, theo đánh giá của TS. Minh Ngọc.

Khi Hiệp định Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc được thúc đẩy để hoàn thiện trước năm 2015 dẫn đến cắt giảm nhiều khoản thuế xuất khẩu từ nước này ra khu vực, thị trường các nước ASEAN có thể sẽ trở thành mảnh đất làm ăn màu mỡ của hàng xuất khẩu Trung Quốc.

Bên cạnh xuất nhập khẩu, thị trường tài chính Việt Nam cũng là một trong những nạn nhân tiềm ẩn của các thay đổi về mặt chính sách tiền tệ tại Trung Quốc.

Trong một động thái vực dậy nền kinh tế, của Ngân hàng Trung ương nước này vừa mở giãn biên độ giao dịch của đồng nhân dân tệ với USD trong tháng Hai, tiến tới tự do hóa đồng tiền nội tệ.
Sau khi nới rộng biên độ dao động, không gian tỷ giá hối đoái đồng nhân dân tệ cũng sẽ giãn ra, làm bành trướng rủi ro đối với các hoạt động mang tính đầu cơ, dẫn đến việc giới đầu tư ăn lãi chênh lệch tỷ giá trước đây sẽ phải bán ra nhân dân tệ và mua vào USD. Hoạt động này có thể khiến đồng nhân dân tệ mất giá trong thời gian ngắn.

Ví dụ điển hình như tháng 4/2012, sau đợt nới biên độ tỷ giá hối đoái từ 0,5% lên 1%, đồng nhân dân tệ đã mất giá mang tính điều chỉnh trong khoảng một quý.

Đồng nội tệ mất giá sẽ tác động xấu tới tiêu thụ hàng nhập khẩu trong nước do giá cả các sản phẩm này đắt lên, nhưng lại khiến hàng Trung Quốc rẻ hơn trên thị trường quốc tế.

Chính sách “lợi mình, hại người” này của nước bạn sẽ tạo áp lực trên cả phương diện xuất khẩu và nhập khẩu đối với Việt Nam, tuy rằng không quá lớn (biên độ dao động 1% là khá nhỏ).

“Lúc này, Việt Nam bị rơi vào tình huống khá khó khăn. Trong khi các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu và giảm nhập khẩu của Việt Nam hầu như đã được tận dụng hết, nếu muốn giảm đà bành trướng của hàng Trung Quốc xâm nhập vào thị trường nội địa, Việt Nam buộc phải theo cuộc chơi với ông bạn láng giềng bằng cách chủ động phá giá tiền đồng”, TS. Minh Ngọc nhận xét.

“Nhưng động thái phá giá này lại là điều không được hoan nghênh trong con mắt của các nhà làm chính sách ở Việt Nam khi họ phải duy trì niềm tin vào tiền đồng, neo giữ lạm phát. Bởi vậy, chọn hướng đi cho tỷ giá sẽ là một quyết định khá khó khăn và sẽ có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế Việt Nam nói chung”.

Nhưng nhìn nhận theo chiều hướng tích cực, Việt Nam sẽ được hưởng lợi nếu biết nắm bắt cơ hội từ vũng lầy kinh tế Trung Quốc.

Khi thu nhập bình quân đầu người tại Trung Quốc tăng kéo theo lương công nhân tăng, chi phí sản xuất đội giá làm lợi nhuận cận biên của hoạt động sản xuất tại Đại lục tiêu giảm, nhiều công ty đa quốc gia sẽ chuyển hướng dòng vốn đầu tư để tìm đến các thị trường có điều kiện sản xuất tương đương, chi phí rẻ hơn và môi trường kinh tế ổn định, lúc đó những quốc gia láng giềng như Việt Nam sẽ là ứng cử viên sáng giá.

Mức lương trung bình của lao động Việt Nam hiện vào khoảng 145 USD/tháng, chỉ bằng 1/3 mức lương của lao động Trung Quốc.

Ví dụ với trường hợp của nhà đầu tư Nhật Bản, theo cuộc khảo sát do 3 tờ báo Nikkei (Nhật), Global Times (Trung Quốc) và South Korea Mail Business (Hàn Quốc) đồng thực hiện vào tháng 12/2013, các chủ doanh nghiệp Nhật giờ có đôi chút ngần ngại hơn trong việc bỏ cả vốn liếng vào làm ăn tại đất Trung Quốc, cho dù vẫn xác định nước láng giềng này vẫn là một thị trường béo bở.
Cụ thể, 38% số doanh nhân Nhật Bản xem Trung Quốc là thị trường nhiều hứa hẹn nhất đối với họ. Tuy nhiên, tỷ lệ này đã giảm 10% so cùng kỳ năm trước.

Ngược lại tại Việt Nam, theo số liệu của Tổng cục thống kê, Nhật Bản vẫn chiếm ngôi quán quân trong hoạt động đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 5,875 tỷ USD, chiếm 26,3% tổng vốn đầu tư đăng ký trong năm 2013, xu hướng này vẫn chưa có dấu hiệu chững lại.

Số liệu của Bộ Thương mại Trung Quốc cho thấy Trung Quốc đã thu hút được gần 106 tỷ USD vốn FDI trong năm 2013, giảm so với mức 112 tỷ USD của năm 2012 và 116 tỷ USD của năm 2011, đánh dấu năm thứ tư liên tiếp tăng trưởng thu hút FDI Trung Quốc trượt dốc.

Ngược lại, FDI tiếp tục tỏa sáng tại Việt Nam trong những năm gần đây. Tính đến cuối năm 2013, số vốn đầu tư nước ngoài đăng ký tăng trưởng 54% so với cùng kỳ năm 2012.

Đặt vào bối cảnh xu hướng Trung Quốc+1 đang thịnh hành trong tâm lý các nhà đầu tư tại Đông Nam Á, FDI đổ vào Việt Nam được dự đoán sẽ tiếp tục là mảng sáng trong nền kinh tế những năm tới.

Theo GS.TSKH Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hôi doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, mặc dù sức hút của công xưởng đầu tàu thế giới vẫn là rất lớn, các nhà đầu tư đang có xu hướng chuyển dòng vốn đầu tư vào Trung Quốc sang các nước khác để tránh rủi ro do nhiều nhược điểm nước này bộc lộ trong thời gian gần đây: Chi phí nhân công tăng, công nhân đòi hỏi cao, đình công nhiều…

Việt Nam là một trong nước được lựa chọn cùng Indonesia, Malaysia, Philippines, riêng với Thái Lan – từng là đối thủ lớn về thu hút vốn FDI – đang phải đương đầu với bất ổn chính trị, nên đã mất dần thế thượng phong trong thời gian này.

Tuy nhiên, TS. Minh Ngọc lên tiếng cảnh báo không nên kỳ vọng quá nhiều vào việc chuyển hướng FDI này vì Việt Nam dường như đang đánh mất dần tính hấp dẫn đối với FDI một cách tương đối so với các nước khác trong khu vực.

Hơn nữa, dòng FDI vào Việt Nam tăng lên không phải là điều tốt nếu đó là dòng FDI hướng vào những ngành gây ô nhiễm môi trường như công nghiệp hóa chất, nhuộm, dệt... là những ngành mà Chính phủ Trung Quốc đang cố gắng tái cơ cấu và hạn chế.

Cả GS.TSKH Nguyễn Mại và TS. Minh Ngọc đều cho rằng nói kinh tế Trung Quốc đang trên đà suy thoái là một cách nói hơi cường điệu, tuy nhiên, điều tiết nền kinh tế ra sao để không bị cuốn vào hiệu ứng domino từ kinh tế Trung Quốc giảm tốc sẽ là bài toán khó đối với Việt Nam trong tương lai gần nếu kịch bản xấu xảy ra.

Lê Phương

Sunday 18 May 2014

Tránh để Trung Quốc dẫn dắt thế cờ (Bài trả lời phỏng vấn báo nhưng không được đăng, tiêu đề do báo đặt)

Bài này được hoàn thiện cách đây đúng 1 tuần, đã được duyệt đăng vào cuối tuần trước trên một tờ báo quen, trước khi nổ ra bạo loạn ở Bình Dương. Tớ cũng không ngờ sự việc mà tớ e ngại (trả đũa, tấn công người Tầu...) lại nổ ra ngay tại Việt Nam. Bài rốt cuộc bị hủy không đăng nữa, với lý do là nếu đăng thì sẽ đổ them dầu vào lửa. Post ở đây để các đồng chí đọc tham khảo.
----------------------------------------------------------------------------------------------------
Làm thế nào Việt Nam có thể giảm bớt sự phụ thuộc vào Trung Quốc ở góc độ kinh tế? Ts Phan Minh Ngọc cho rằng, điều cần làm là chủ động theo phương châm để lại càng ít chuôi cho Trung Quốc nắm càng tốt. Ví dụ, Việt Nam rút dần các tài sản và đầu tư của Việt Nam ở Trung Quốc hoặc liên quan tới nước này. Ngược lại, cần có biện pháp kiểm soát để dòng vốn đầu tư và thương mại do Trung Quốc rút ra không làm rỗng nền kinh tế của Việt Nam.
 
Bên nào cũng thiệt hại
- Theo ông, thương mại Việt Nam – Trung Quốc có thể bị ảnh hưởng như thế nào trong bối cảnh Trung Quốc hạ đặt dàn khoan 981 trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam?
- Thiệt hại sẽ xảy ra cho cả 2 bên và mức độ sẽ tỷ lệ thuận với mức độ xung đột. Khi xung đột nổ ra, nhất là xung đột quân sự, thì nó sẽ châm ngòi cho những hành động như cấm vận, trả đũa thương mại, đầu tư, tẩy chay hàng hóa của đối phương, đập phá các cơ sở sản xuất thương mại, bài xích dân của nước kia đang sinh sống, làm ăn trên lãnh thổ nước này v.v...
Hình ảnh hiện nay làm tôi liên tưởng đến những gì đã có trong quá khứ, cũng như giữa Trung Quốc với Nhật gần đây, bộc lộ hết những hậu quả như đã nói.
Cần nhấn mạnh rằng thiệt hại do thương mại bị đình trệ hay gián đoạn sẽ là thiệt hại chung cho cả 2 bên, bên nào cũng thiệt hại như nhau, dưới góc độ này hay góc độ khác, chứ không thể nói là chỉ có nước này mới thiệt hại chứ còn nước kia thì không hề hấn gì, cho dù là trường hợp xảy ra giữa một nước nhỏ với một nước lớn như Việt Nam và Trung Quốc.
- Có ý kiến cho rằng, cần một chiến lược quốc gia đề phòng trường hợp Trung Quốc khởi động một cuộc chiến kinh tế chống lại Việt Nam, và có thể khởi đầu bằng những nỗ lực giảm nhập siêu từ Trung Quốc. Ông nghĩ sao về điều này?
- Nếu chúng ta chủ trương thoát Tàu, và nếu xung đột lớn thực sự xảy ra, thì vụ việc hiện nay đúng là một lý do quyết định, có thể nói là một cú hích cả về khách quan lẫn chủ quan để Việt Nam thoát ly Trung Quốc trên lĩnh vực kinh tế và chuyển hướng sang các thị trường khác nhằm thỏa mãn, trên bề mặt, mục tiêu giảm sự chi phối của Trung Quốc.
- Nhưng sự chuyển hướng này có phải là giải pháp tốt hay không?
- Tỉnh táo mà xét thì việc chuyển hướng này không phải là giải pháp tối ưu hiện thời, với điều kiện là Việt Nam không còn lựa chọn nào khác, bị buộc phải chuyển hướng. Chừng nào nền kinh tế Việt Nam vẫn là một nền kinh tế gia công (và tình huống này vẫn và sẽ đúng như thế trong it nhất là hàng thập kỷ nữa) thì chừng đó Việt Nam vẫn phải phụ thuộc vào nguồn nhập nguyên vật liệu, máy móc phong phú và giá rẻ từ Trung Quốc để thỏa mãn nhu cầu chế xuất của mình.
Chuyển hướng sang các thị trường cung cấp nguyên vật liệu và máy móc khác ngoài Trung Quốc tất nhiên là điều luôn có thể nhưng lúc đó tính cạnh tranh của Việt Nam với tư cách là một địa điểm sản xuất giá rẻ trong chuỗi cung ứng hàng hóa toàn cầu sẽ bị ảnh hưởng. Như thế, Việt Nam sẽ dần biến mất trong bài toán sản xuất và cung ứng của nhiều nhà đầu tư nước ngoài, ở nhiều ngành nghề và lĩnh vực.
Đấy là chưa kể chúng ta có thể thoát được nhập siêu với Trung Quốc nhưng sẽ lại không thể thoát được nhập siêu càng gia tăng với các nước và khu vực khác.

Để Trung Quốc nắm càng ít chuôi càng tốt
- Nếu sự chuyển hướng không phải là tối ưu, thì Việt Nam có thể có những  bước đi chủ động nào?
- Nếu xung đột lớn nổ ra thì chắc chắn việc chuyển hướng này sẽ là bắt buộc  cho dù Việt Nam có không muốn thế. Nên biết như vậy để chúng ta có những bước đi chủ động, tránh để cho thế cờ bị phía Trung Quốc dẫn dắt.
Điều quan trọng ở đây là dự đoán được diễn biến của sự việc để có quyết định thích hợp. Tôi hy vọng rằng xung đột chỉ ở quy mô kiềm chế.
Nhưng thực tế nếu không đúng vậy thì có lẽ điều cần làm là chủ động theo phương châm để lại càng ít chuôi cho Trung Quốc nắm càng tốt. Ví dụ, Việt Nam rút dần các tài sản và đầu tư của Việt Nam ở Trung Quốc hoặc liên quan tới nước này. Ngược lại, cần có biện pháp kiểm soát để dòng vốn đầu tư và thương mại do Trung Quốc rút ra không làm rỗng nền kinh tế của Việt Nam như đã từng xảy ra với người gốc Hoa ở Việt Nam trong những năm cải tạo công thương sau giải phóng.
- Việc để cho Trung Quốc nắm càng ít chuôi càng tốt có đơn giản  như nói vậy không, thưa ông?
- Tất nhiên là không dễ như nói, nhưng không làm thì còn thiệt hại hơn. Một ví dụ đơn giản, ta có một hợp đồng nhập khẩu với Trung Quốc. Phía bán (Trung Quốc) đòi ta phải trả tiền đặt cọc hay một khoản phí nào đó trả trước, dự định vào trước tháng 7. Nếu xung đột lớn xảy ra chắc chắn chính quyền Trung Quốc sẽ có những hành động cản trở, phong tỏa thương mại, bao gồm cả việc hủy bỏ, đóng băng các hơp đồng thương mại. Nếu ta đã trả tiền đặt cọc thì khoản này sẽ rất có thể bị mất. Nếu chủ động, cũng có nghĩa là ta hoặc là tìm cách trì hoãn chuyện trả tiền trước này cho đến khi tình hình trở lại bình thường, hoặc là chủ động hủy hợp đồng nhập khẩu này đi, cho dù ta có thể bị nhỡ việc, bị thiệt hại ở một khía cạnh nào đó.
Đây mới chỉ là một ví dụ nhỏ, ở tầm một cá nhân, một doanh nghiệp, một lĩnh vực. Suy rộng ra cả nền kinh tế thì từng chủ thể kinh tế sẽ biết phải làm gì trong trường hợp sự việc diễn biến xấu.
- Xin cảm ơn ông!

----------------------
Quên không nói thêm là bài còn một đoạn nữa về việc một số cửa hàng, khách sạn từ chối phục vụ người Trung Quốc, nhưng phóng viên đã cắt bỏ khi biên tập.

Đại loại là tớ nói rằng tớ phản đối việc trả đũa, trả thù nhắm vào các công dân vô tội của nước kia, đơn giản vì làm thế it nhất sẽ châm ngòi cho việc trả đũa của phía bên kia, thậm chí là còn ở mức độ hơn thế. Chưa kể, hành động đó không phải là hành động tốt đẹp, cao thượng trong mắt cộng đồng quốc tế, và không có tác dụng gì trong việc gây sức ép lên chính phủ Trung Quốc để thay đổi chính sách của họ, nếu không muốn nói là có khả năng có tác dụng ngược khi Trung Quốc lợi dụng hành động này để lu loa rằng Việt Nam là hèn hạ, nguy hiểm, cần phải có hành động can thiệp v.v...

Tuesday 13 May 2014

Tỷ giá - Mấy đồng chí này cũng sai nốt!

Đọc bài trả lời phỏng vấn này, thấy sai từ phóng viên đến người trả lời.

Phóng viên thì sai khi đặt câu hỏi: "Chính phủ luôn nhấn mạnh về việc ổn định tỷ giá để hỗ trợ xuất khẩu, nhưng có không ít ý kiến cho rằng không nên lấy mục tiêu dùng tỷ giá để hỗ trợ xuất khẩu. Vì dù mục tiêu này phù hợp với kết quả tăng trưởng xuất khẩu, nhưng không đem lại kết quả tích cực về thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu. Về vấn đề này, nên hiểu như thế nào, thưa ông?"

Sai là vì ổn định tỷ giá không hỗ trợ xuất khẩu (ít nhất là so với phá giá). Không biết Chính phủ "luôn nhấn mạnh" ở hoàn cảnh nào, chỗ nào, chứ tớ nghi là đồng chí phóng viên nhét chữ vào mồm Chính phủ lắm. Dù sao thì Chính phủ cũng không đến nỗi ngu thế.

Sai nữa là câu hỏi bí rì rì, hiểu chết liền. Chú ý vế đầu là Chính phủ thì cho rằng thì là mà (ổn định tỷ giá để hỗ trợ xuất khẩu), và vế sau, tương phản, thì đưa ý kiến phủ nhận của "không ít ý kiến" rằng mà là thì (không nên lấy mục tiêu dùng tỷ giá để hỗ trợ xuất khẩu).

Từ 2 mệnh đề "Ổn định tỷ giá để hỗ trợ xuất khẩu" với "Không nên lấy mục tiêu dùng tỷ giá để hỗ trợ xuất khẩu", rút gọn lại còn "(nên) ổn định tỷ giá" và "không nên lấy mục tiêu dùng tỷ giá". Nếu thế thì 2 vế này không (nhất thiết) đối nghịch, phủ định nhau. Vì nghĩa "dùng" ở đây là bất tận, và vì mối liên hệ giữa "ổn định tỷ giá" với "tỷ giá" là bất luận nên câu hỏi của đồng chí phóng viên này cũng sẽ là bất... biết (là muốn nói cái gì)!

Chưa hết. Hỏi mà quá "bá đạo" (từ đi mượn!), vì "ổn định" tỷ giá thì sao mà làm thay đổi (lại còn tích cực) được cơ cấu hàng xuất khẩu cơ chứ? Tớ nghĩ mãi mà chẳng ra mối liên hệ nào giữa thay đổi tỷ giá (chứ chưa nói đến "ổn định" tỷ giá) với (thay đổi) cơ cấu hàng xuất khẩu cả. Ý của đồng chí phóng viên chắc là cho rằng ổn định tỷ giá sẽ làm thay đổi tỷ trọng hàm lượng đầu vào nhập khẩu trong hàng xuất khẩu. Nhưng hàm lượng đầu vào nhâp khẩu với cơ cấu hàng xuất khẩu là 2 khái niệm khác nhau hoàn toàn, vì cái thứ 2 là nói đến, ví dụ, hàng nông lâm sản chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng kim ngạch xuất khẩu, chứ không cho biết, ví dụ, tỷ lệ thuốc bảo vệ thực vật nhập khẩu chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng kim ngạch xuất khẩu.

Câu hỏi kinh khủng thế mà đồng chí Khoa hiểu phát ăn ngay, mà còn trả lời đàng hoàng được thì tớ bái phục.

Té ra đồng chí Khoa cũng đồng ý rằng tỷ giá sẽ làm thay đổi cả ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ xuất khẩu, và thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu, qua câu này: "Điều hành tỷ giá thế nào để vừa có thể ổn định vĩ mô, vừa có thể hỗ trợ xuất khẩu và giúp thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu có thể ví như một nghệ thuật".

Vẫn chưa dừng lại ở cái sai "bá đạo" như phần tớ phân tích về câu hỏi của phóng viên, đồng chí Khoa còn sai thêm ở 2 cái lỗi mà tớ thấy phát ra từ miệng của không thiếu một ai trong số những người phản đối phá giá, gần đây nhất thì có đồng chí Lực, trước đó thì có đồng chí Thơ, Tuấn, Anh, Lịch v.v...

Sai như sau: "Nhiều quan điểm cho rằng, cần phải phá giá đồng VND nhiều hơn để có thể hỗ trợ xuất khẩu. Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, những mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam phần lớn là nguyên liệu thô hoặc những sản phẩm có giá trị tăng thêm rất ít. Chúng ta phải nhập khẩu nguyên vật liệu và máy móc để sản xuất những sản phẩm đó. Do đó, khi điều chỉnh tỷ giá theo hướng giảm giá trị VND mạnh thì chí phí nhập khẩu cũng sẽ tăng mạnh, tác động đến giá thành sản phẩm và lạm phát của quốc gia. Chúng ta cũng chưa thể định lượng một cách rõ ràng, khi điều chỉnh tỷ giá như vậy thì tác động đến xuất khẩu và nhập khẩu là bao nhiêu, lợi hại thế nào.
Bên cạnh đó, việc chúng ta có thể thấy rõ nhất khi phá giá VND là nợ nước ngoài sẽ tăng lên đáng kể. Do vậy, thay vì điều chỉnh tỷ giá theo như đề xuất vừa trình bày, NHNN đã định hướng và điều hành tỷ giá theo hướng ổn định, linh hoạt, giúp tỷ giá điều chỉnh trong biên độ thích hợp, không gây tác động tâm lý tiêu cực và kết quả đạt được trong thời gian qua đã nói lên tất cả."

Cụ thể là cho rằng phá giá sẽ (1) làm tăng chi phí nhập khẩu, làm tăng lạm phát, và (2) phá giá sẽ làm tăng nợ nước ngoài.

(1) sai vì chi phí nhập khẩu quy ra VND có thể tăng nhưng chi phí nhập khẩu bằng USD không tăng (hàng nhập khẩu với đơn giá là 1 USD/chiếc vẫn là 1 USD sau khi phá giá VND). Lạm phát sẽ không nhất thiết tăng nếu NHNN thắt chặt chính sách tiền tệ, hoặc "hay" hơn nữa là Bộ Tài chính áp "giá trần"!!!. Ổn chưa?

(2) sai vì, như tớ đã nói ở entry phang đồng chí Lực, nợ nước ngoài bằng USD chẳng có tăng thêm một xu nào hết sau khi phá giá VND, sao lại nói rằng nợ quốc gia sẽ tăng lên? Đương nhiên, nợ quy ra VND sẽ tăng lên, nhưng chủ nợ nào muốn lấy VND thay cho USD? Và nếu không phá giá thì NHNN phải dùng ngoại tệ dự trữ để bình ổn tỷ giá, vậy rốt cuộc nợ quốc gia được giữ không tăng (bằng cả VND lẫn USD) với cái giá là dự trữ ngoại tệ sụt giảm. Thế thì vẫn ok à?

Nói tóm lại là... nản lắm các đồng chí à!

Wednesday 7 May 2014

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là gì? (Bài đăng trên Doanh nhân Sài gòn Online, 7/5/2014, bản gốc)

Bài này được báo đặt lại tiêu đề: "Xây dựng thể chế kinh tế: Đâu là nền móng?"

http://www.doanhnhansaigon.vn/online/dien-dan-doanh-nhan/thoi-su/2014/05/1081138/xay-dung-the-che-kinh-te-dau-la-nen-mong/

---------------------

Bất chấp đã tốn khá nhiều giấy mực, câu hỏi trên, một câu hỏi cực kỳ quan trọng trong việc hoạch định đường lối chính trị và kinh tế Việt Nam dường như vẫn chưa có câu trả lời khả dĩ.
Quả thật, lục tìm lại các tài liệu về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có thể thấy vẫn chưa có một khái niệm rõ ràng thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khái niệm chính thống thường được trích dẫn vẫn là từ văn kiện Đại hội Đảng, cho rằng đó là một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Từ khái niệm trên có thể thấy những nhà lý luận của Đảng đã đồng hóa cụm từ “định hướng xã hội chủ nghĩa” với cụm từ “có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Như vậy, để có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo khái niệm trên thì cần phải thỏa mãn ít nhất 2 điều kiện: có một nền kinh tế thị trường; và có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa để thực hiện chức năng “quản lý chặt chẽ” nền kinh tế thị trường đó. Nói cách khác, chỉ khi nào đã xây dựng được một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh, đồng thời thiết lập được nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì lúc đó nền kinh tế mới có thể được gọi là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nhưng đến đây lại nảy sinh ra vấn đề, vậy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là gì? Chỉ đến Đại hội VIII cụm từ “xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” mới chính thức xuất hiện thay cho cụm từ “xây dựng nhà nước pháp quyền” như là một yêu cầu được đặt ra từ Đại hội VI. Tuy nhiên, trong kỳ đại hội đó và các kỳ đại hội tiếp theo, khái niệm “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” vẫn không được làm rõ, ngoài việc khẳng định bản chất “của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Các nhà lý luận của Đảng có giải thích thêm trong một nghiên cứu rằng: “Về mặt tư duy lý luận, có lẽ điểm khác biệt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam so với các nhà nước pháp quyền khác là ở cơ chế vận hành của nhà nước, bởi vì ở các nhà nước pháp quyền tư sản thì cơ chế vận hành phổ biến là “tam quyền phân lập”. Việc Đảng ta xây dựng cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, chính là dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về nhà nước và pháp luật” (1). Nhưng lời giải thích này lại vấp phải sự mơ hồ khác ngay ở sự thừa nhận “có lẽ...” được bôi đậm trong câu trên, chưa kể đến những vấn đề phát sinh thêm là “quyền lực nhà nước thống nhất” thì liên quan thế nào đến, và nhà nước như vậy có nhất thiết nên được gọi là “nhà nước pháp quyền”?
Cũng vì mơ hồ như vậy nên sau Đại hội XI một số nhiệm vụ đã tiếp tục được đặt ra cho các nhà lý  luận của Đảng, trong đó có “cần xác định rõ những đặc trưng xã hội chủ nghĩa của nhà nước pháp quyền mà chúng ta đang xây dựng”, và “cần làm rõ cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan quyền lực nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” (1).

Thực tế trên cho thấy, việc đi tìm lời giải thích cho một khái niệm vẫn còn mơ hồ là “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” lại dẫn ta đến một khái niệm không kém mơ hồ khác có liên quan mật thiết là “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”. Và do đó, không khó hiểu khi các chuyên gia, quan chức và chính trị gia đã đưa ra những lý giải riêng của mình về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chẳng hạn, mới đây nhất thì có Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Nguyễn Đức Kiên cho rằng: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế hoạt động theo nguyên tắc của kinh tế thị trường, và lợi nhuận được phân phối theo quan niệm của người cộng sản. Đó là khi tài nguyên, khoáng sản thuộc sở hữu toàn dân, thì lợi nhuận phải được điều tiết bằng thuế theo quy luật kinh tế thị trường".

Dễ thấy rằng lý giải như trên cũng không ổn khi nó lại đưa ra một khái niệm cũng hết sức mơ hồ khác là “lợi nhuận được phân phối theo quan niệm của người cộng sản”, vốn xem ra không liên quan gì đến cũng lời giải thích tiếp theo đó của ông Kiên rằng “lợi nhuận được điều tiết bằng thuế theo quy luật thị trường”.
Tóm lại, công cuộc đi tìm khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” xem ra sẽ là một cuộc trường chinh, tuy cũng có thể chưa đến mức vô vọng như Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh thẳng thừng chỉ ra rằng: “Làm gì có cái thứ đó mà đi tìm”.

Nhưng nói như vậy không có nghĩa là Việt Nam nên loay hoay thử nghiệm hết mô hình kinh tế này đến mô hình kinh tế khác. Thay vào đó, điều cần làm là phải xây dựng cho được một nền kinh tế thị trường cho đúng nghĩa là kinh tế thị trường, để được thế giới công nhận và thôi không phân biệt đối xử làm tổn hại đến hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam và không châm ngòi cho những vụ kiện cáo sẽ xảy ra ngay trên lãnh thổ Việt Nam vì, ví dụ, nhà nước có sự phân biệt đối xử với các thành phần kinh tế, nhất là khi Việt Nam tiếp tục hòa nhập sâu với thế giới qua các hiệp định đa phương như TPP. Điều này là thiết yếu vì bất kể nền “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” có được hiểu và hoạch định ở Việt Nam thế nào chăng nữa thì nó vẫn cần và vẫn phải được xây dựng trên nền móng của một nền kinh tế thị trường thuần túy.

(1)    http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen/2014/25460/Xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-o-Viet.aspx

Tuesday 6 May 2014

Thảm họa kiến thức


http://bizlive.vn/vang-tien/5-ly-do-khong-nen-pha-gia-tien-dong-164280.html
 
Đọc bài phỏng vấn này của đồng chí TS Cấn Văn Lực và được biết đồng chí này là Giám đốc trường đào tạo cán bộ BIDV, tớ thấy áy náy cho ai là học trò của đồng chí này.
Mặc dù tớ đã viết nhiều, tranh luận nhiều đến tỷ giá, đến chuyện có nên phá giá hay không, nhưng trong bài phang này tớ không nhắc lại những lập luận của tớ nữa, mà chỉ dùng những phản biện đơn giản nhất có thể để phang đồng chí Lực.
1.                  Đồng chí Lực nói: “Thứ nhất, xét về lý thuyết, điều chỉnh tỷ giá phải so sánh tốc độ lạm phát của Việt Nam và Mỹ. Thực tiễn hai nước khác hẳn nhau, nên không thể dựa vào lạm phát của hai nước để điều chỉnh tỷ giá”.
Tớ bình luận: Vậy lý thuyết để làm gì? Nói vậy thì học kinh tế học làm gì, học lên TS để làm gì? Để phát hiện ra rằng thực tiễn không thể áp dụng được lý thuyết à?
2.                  Đồng chí Lực nói: “Thứ hai, nhiều ý kiến cho rằng, nên điều chỉnh tỷ giá để hỗ trợ xuất khẩu, song thực tiễn Việt Nam cho thấy, điều chỉnh tỷ giá không tác động đáng kể tới xuất nhập khẩu.

Đơn cử, giai đoạn 2010- 2011, tỷ giá điều chỉnh 10% mà xuất khẩu vẫn đứng im trong khi  nhập khẩu tăng tới 30%. Lý do là cơ cấu hàng xuất khẩu của nước “có vấn đề”, tức giá trị hàng xuất khẩu có tới 70% là nguyên liệu đầu vào nhập khẩu.”
Tớ bình luận: Đồng chí phải hiểu rằng rất có thể nhờ phá giá 10% mà xuất khẩu không bị suy giảm (may mà đứng im được), và nhập khẩu chỉ tăng có 30%, chứ không phải là 50% hay 100%. Sao đồng chí không thử tìm hiểu xem nếu phá giá lên, ví dụ, 50% thì thế nào?
3.                  Đồng chí Lực nói: “Thứ ba, nợ nước ngoài của Việt Nam đang rất lớn, khoảng  42-43% GDP (theo số liệu của Bộ Tài chính, nợ nước ngoài của Việt Nam đến hết năm 2013 là 56,2 GDP- PV). Do đó, việc điều chỉnh tỷ giá sẽ làm tăng, tăng gánh nặng trả nợ nước ngoài của quốc gia”.
Tớ bình luận: Ví dụ Việt Nam hiện nay đang nợ một nước A nào đó 1 tỷ USD. Can cớ gì mà nói nợ của Việt Nam với nước A tăng từ 1 tỷ USD này lên thành, ví dụ, 1,1 tỷ USD vì VND bị phá giá? Nói cách khác, nước A có lý do gì mà đòi Việt Nam phải trả nợ 1,1 tỷ USD?
4.                  Đồng chí Lực nói: “Thứ tư, bản thân các chuyên gia của các ngân hàng nước ngoài cũng cho rằng đồng Việt Nam không bị định giá cao, ví dụ như nhận định của ngân hàng Citibank tháng 2/2014 vừa qua. Giới đầu tư nước ngoài rất tinh, nếu cho rằng đồng Việt Nam bị định giá cao, họ sẽ sẽ đầu cơ ngay, đợi khi NHNN bán ra để kiếm lời, song hiện họ không có động thái gì”.
Tớ bình luận: Thế sao đồng chí không trích dẫn những chuyên gia nước ngoài cho rằng VND bị lên giá thực (bị định giá cao)? Mình là TS mà bản lĩnh để đâu để đến mức phải mượn lời “chuyên gia nước ngoài” cho lời nói của mình thêm “phê”?
Còn chuyện giới đầu tư nước ngoài “tinh”, cứ cho là vậy đi, nhưng sao đồng chí không đặt ngược câu hỏi, họ không có động thái gì vì phải chăng họ, cũng như đồng chí, tin sái cổ vào lời của cam kết và tuyên bố của NHNN rằng sẽ không phá giá?
5.                  Đồng chí Lực nói: “Thứ năm, suốt thời gian qua, NHNN đã giữ được tâm lý ổn định tỷ giá, tạo niềm tin với tiền đồng. Nếu NHNN phá giá tiền đồng sẽ gây xáo trộn thị trường, làm niềm tin với tiền đồng sụt giảm”.
Tớ bình luận: Cái này nghe được! Giá nói ngay từ đầu và chỉ có một lý do thế này thì tớ đỡ phải mất công phang đồng chí không?
Nhưng chưa xong. Đồng chí cũng như NHNN có “nắm tay từ tối đến sáng” được không? Lời cam kết “không phá giá” quyết liệt này kéo dài được bao lâu? Không phải là nhiều năm phải không (tớ thì cho là không quá một năm)? Vậy thì đến lúc phải phá giá thì các đồng chí không sợ niềm tin còn bị sụt giảm đến âm ư, khi vừa hôm trước còn cam kết không phá giá mà đùng cái hôm sau đã phải phá giá?

Trời đất hỡi!

 

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).