Wednesday 28 May 2014

Giá trần không phải là giải pháp hữu hiệu! (Bài đăng trên TBKTSG 29/5/2014, bản gốc, tiêu đề do báo đặt)

http://www.thesaigontimes.vn/115517/Gia-tran-khong-la-giai-phap-huu-hieu.html

Sau một thời gian thanh tra giá sữa, Bộ Tài chính đã quyết định áp trần giá sữa cho 25 sản phẩm sữa dành cho trẻ em dưới 6 tuổi kể từ ngày 1/6 này. Trả lời về quyết định áp trần giá sữa, Bộ Tài chính cho rằng đây là quyết định đúng luật và nhân văn.
Đúng luật là vì theo Luật Giá thì sản phẩm sữa trẻ em dưới 6 tuổi là sản phẩm nằm trong danh mục bình ổn giá. Nhân văn là vì quyết định này bảo đảm hài hòa được lợi ích giữa người sản xuất, nhà nước và người tiêu dùng – trẻ em dưới 6 tuổi, hiện lên đến con số 10 triệu trẻ em, theo lý giải của Bộ Tài chính.
Nhưng đối với người tiêu dùng, điều mà họ quan tâm là giá sữa liệu có “thôi” tăng liên tục như trước nữa hay không. Với họ, đúng luật hay nhân văn mà không làm giá sữa chững lại hoặc giảm đi thì áp giá trần chẳng để làm gì, có ý nghĩa gì.
Và điều lo ngại này xem ra có phần đúng sự thật. Các hãng sữa đang dùng một số chiêu lách luật rất đơn giản và đã được giới phân tích dự đoán từ trước là ra sản phẩm mới, ngừng bán sản phẩm cũ, giảm trọng lượng và giữ nguyên giá bán các sản phẩm sữa của họ để tuy trên thực tế là giá sữa tăng lên nhưng họ không phải xin phép Bộ Tài chính cho tăng giá.
Tất nhiên, về nguyên tắc thì Bộ Tài chinh có thể không hoàn toàn bất lực trước các chiêu tăng giá kinh điển này. Ví dụ, đối với trường hợp doanh nghiệp thay đổi mẫu mã rồi tăng giá bán, Bộ Tài chính có thể xem xét chi phí sản xuất rồi mới quyết định có cho phép doanh nghiệp tăng giá hay không. Dẫu vậy, câu hỏi được đặt ra là Bộ Tài chính có thực hiện được kiểm tra giám sát tầm “vi mô”, ở quy mô toàn quốc như thế này được không? Đương nhiên là cần người thì có thể tuyển thêm người để làm việc kiểm tra, giám sát này. Nhưng Bộ Tài chính còn phải làm nhiều việc, và nếu việc nào cũng tầm “vi mô” thế này thì Bộ Tài chính phải và sẽ trở thành một siêu bộ với bộ máy thanh tra giám sát giá cả nói chung và giá sữa nói riêng phải ở quy mô “khủng”, suốt ngày đi sục sạo thị trường từ thành phố về nông thôn lên miền núi để chắc chắn rằng giá sữa trần được thực thi nghiêm túc.
Hiển nhiên, Bộ Tài chính cũng có giao nhiệm vụ giám sát cho chính quyền cơ sở, nhưng cùng một vấn đề vẫn được đặt ra, liệu chính quyền các tỉnh có quản lý được chuyện giá cả xem ra rất phức tạp này không? Chắc chắn là không, vì với một bộ máy ngày càng phình to mà Bộ Tài chính không thể biết chuyện gì đã và đang xảy ra với giá sữa khi nó tăng nhanh và mạnh trong mấy năm qua, để rồi đến đợt thanh tra quyết liệt gần đây dưới sự chỉ đạo và thúc giục của Thủ tướng, Bộ Tài chinh mới phát hiện ra rằng nhiều doanh nghiệp sữa có sai phạm, vi phạm các quy định về giá cả của Bộ này. Thế mà trước đó Bộ cũng không ít lần quyết tâm với cam kết quản giá sữa. Đấy là chưa kể khả năng thông đồng của đội ngũ thanh tra, giám sát với các doanh nghiệp sản xuất và lưu thông sữa làm mất hiệu lực của trần giá sữa.
Thêm nữa, mặc dù Bộ Tài chính cho rằng họ quản lý giá sữa theo cơ chế thị trường nhưng có sự quản lý của nhà nước theo chủ trương chung, nhằm đảm bảo lợi ích hài hòa giữa nhà sản xuất, nhà nước và người tiêu dùng nhưng xem ra họ, với tư cách là đại diện lợi ích nhà nước, đã không làm gì góp phần đảm bảo hài hòa mối quan hệ này. Lẽ ra, với mong muốn người tiêu dùng đỡ phải mua sữa với giá cao, còn doanh nghiệp không đến nỗi phải “kêu trời” vì gặp khó khăn với giá trần này, Bộ Tài chính phải chủ động cắt giảm lợi ích của nhà nước bằng cách hạ thuế nhập khẩu sữa, hiện đang ở mức rất cao so với khu vực và quốc tế (1). Tiếc là cho đến nay chuyện hạ thuế nhập khẩu vẫn là chuyện xa xôi đâu đâu. Nói cách khác, sự đảm bảo hài hòa lợi ích giữa 3 bên đã không xảy ra, ít nhất vì lợi ích của nhà nước vẫn được giữ nguyên, không có gì thay đổi.
Ngoài ra, thuế nhập khẩu cao hoàn toàn còn có thể là một trong những tác nhân làm giảm nguồn cung sữa ở Việt Nam, làm cho các doanh nghiệp sữa không phải cạnh tranh sống chết để duy trì lợi nhuận. Bởi thế mới có chuyện kỳ quặc là các doanh nghiệp sữa ở Việt Nam thay vì tìm cách hạ giá thành và giá bản sản phẩm, tăng cường khuyến mãi như trong bất cứ một nền kinh tế thị trường thông thường nào thì lại chỉ chăm chăm tăng giá bán và thu lãi lớn, theo điều tra của Bộ Tài chinh.
Bản thân chuyện các doanh nghiệp sữa chỉ chăm chăm tìm cách tăng giá bán cũng thể hiện một điều rằng cơ chế quản lý giá sữa ở Việt Nam chẳng có chút dáng dấp nào của cơ chế thị trường như lời của Bộ Tài chính cả. Sự tự do cạnh tranh giữa các doanh nghiệp để hạ giá bán làm lợi cho người tiêu dùng đã không được khuyến khích bằng sự hạn chế nguồn cung (bao gồm biện pháp thuế với mức thuế nhập khẩu cao) và áp giá trần, càng làm giảm thêm nguồn cung.
Bởi vậy, thay vì áp giá trần, để rồi mọi việc sau một thời gian ồn ào rất có khả năng sẽ yên ắng trở lại như cũ (tức giá sữa vẫn cứ tăng trên thực tế), Bộ Tài chính nên xem xét lại việc quản lý giá của mình, chuyển sang dùng nhiều hơn các biện pháp kinh tế, bao gồm hạ thuế nhập khẩu, khuyến khích đầu tư mở rộng sản xuất sữa trong nước… để tăng cường nguồn cung sữa nhằm giảm giá sữa một cách bền vững trong dài hạn. Cần lưu ý rằng giá trần không phải và không bao giờ là giải pháp hữu hiệu trong việc kiểm soát giá cả.
(1)    http://dantri.com.vn/kinh-doanh/sua-bot-se-khong-bi-tang-thue-nhap-khau-474835.htm

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).