Sunday 29 June 2014

Phá giá không nhất thiết gây bất ổn vĩ mô!

Một phiên bản của bài này được đăng trên Doanh nhân Sài Gòn, 30/6/20 ở link sau:
http://www.doanhnhansaigon.vn/online/dien-dan-doanh-nhan/thoi-su/2014/06/1082245/dieu-chinh-ty-gia-co-gay-bat-on-vi-mo/
-----------------------------------

Sau khi  Ngân hàng Nhà nước (NHNN) điều chỉnh tỷ giá ngày 19/6 với lý do là để hỗ trợ xuất khẩu, có một số người đã lo ngại rằng việc điều chỉnh này sẽ tác động tiêu cực lên ổn định vĩ mô. Chẳng hạn, theo tác giả Hồ Quốc Tuấn trên TBKTSG Online ngày 26/6, giữa chính sách ổn định vĩ mô (và duy trì niềm tin vào VND) và chính sách điều chỉnh tỷ giá (phá giá) để hỗ trợ xuất khẩu vốn tồn tại mâu thuẫn ở mức độ nhất định.
Lý do đằng sau quan hệ mâu thuẫn này là do, theo ông Tuấn, “...khi phá giá và mở đường cho nới lỏng tiền tệ hơn nữa, sẽ tạo nguy cơ lạm phát và khiến cầu mua USD tăng lên. Một sự mất ổn định trong giá cả tiêu dùng và giá VND có thể dẫn đến kỳ vọng lạm phát sẽ tăng càng cao và VND sẽ càng mất giá. Nếu rủi ro càng cao, kỳ vọng về phá giá và lạm phát sẽ càng lớn, tạo thành một vòng xoáy liên tục. Như vậy, có sự mâu thuẫn ở một mức độ nào đó giữa việc muốn giữ ổn định vĩ mô và việc phá giá đồng tiền (ở một qui mô lớn) để cải thiện sức cạnh tranh. NHNN không thể lựa chọn cả hai”.

Trên thực tế, phá giá chỉ gây ra/làm tăng áp lực lạm phát khi đi kèm với phá giá là một chính sách tiền tệ nới lỏng quá mức bình thường. Nếu song hành với phá giá mà NHNN thu hút lượng VND thặng dư phát sinh do phá giá về kho quỹ của mình thì áp lực lạm phát không hề tăng lên so với trước khi phá giá.
Để dễ hiểu, hãy xem ví dụ sau. Kế hoạch tăng cung tiền của NHNN trong năm 2014, trước khi phá giá, là 100 đơn vị (để tương ứng với mục tiêu lạm phát là 5%/năm, tăng trưởng tín dụng là 10%), và giả sử là NHNN đã sử dụng hết hạn mức cung tiền này vào quý 1. Nhận thấy VND đã bị lên giá thực so với USD ảnh hưởng xấu đến xuất khẩu, NHNN quyết định phá giá VND thêm 1 điểm phần trăm. Để phá giá VND 1 điểm phần trăm, NHNN cần phải và sẵn sàng mua USD từ hệ thống ngân hàng với tỷ giá 21.246 VND/USD, tăng 1% từ mức trước đây là 21.036 cho đến lúc các ngân hàng thương mại không còn nhu cầu bán USD cho NHNN tại mức giá này nữa. Tương ứng với việc mua USD này của NHNN là một lượng VND được tung ra lưu thông, giả sử là tương đương với 10 đơn vị nữa, qua hệ thống ngân hàng thương mại, làm tăng cung tiền lên thêm 110 đơn vị, tức là vượt hạn mức 100 đơn vị (đã sử dụng hết), và do đó tăng áp lực lạm phát, có thể đẩy lạm phát vượt trên mức mục tiêu 5% cho cả năm 2014.

Với sự kiên quyết khống chế lạm phát ở mức bằng hoặc thấp hơn 5%, NHNN phải và sẽ tung tín phiếu ngân hàng hoặc dùng công cụ dự trữ bắt buộc để hút 10 đơn vị VND thặng dư do phá giá về kho quỹ của NHNN. Nếu muốn làm và làm được như thế thì hoàn toàn có thể khẳng định rằng phá giá (kể cả ở quy mô lớn như ông Tuấn nói) không nhất thiết gây ra lạm phát, không nhất thiết phải đi kèm với chính sách tiền tệ nới lỏng. Nói cách khác, không nhất thiết đúng như ông Tuấn lập luận, NHNN vẫn có thể đồng thời lựa chọn và đạt được cả hai mục tiêu (phá giá để hỗ trợ xuất khẩu và ổn định vĩ mô)!
Sẽ có người phản biện rằng phá giá mà phải thắt chặt chính sách tiền tệ thì sẽ gây ra tác dụng ngược là làm giảm tăng trưởng, chính là mục đích để phá giá (thông qua hỗ trợ xuất khẩu). Nhưng lưu ý từ ví dụ trên, chính sách tiền tệ thực ra vẫn được nới lỏng thêm 100 đơn vị như kế hoạch ban đầu của NHNN, chứ không bị thắt chặt lại chỉ còn, ví dụ, 50 đơn vị cho cả năm 2014, sau khi phá giá. Nói cách khác, nền kinh tế vẫn có đủ tín dụng, đủ thanh khoản để vận động và tăng trưởng như kế hoạch (giả sử kế hoạch này là đúng đắn theo tính toán của NHNN).

Tất nhiên, khi phá giá ở quy mô lớn như lo ngại của ông Tuấn thì cũng có thể gây ra một sự hoảng loạn nào đó trong dân chúng và giới đầu tư. Nhưng trước tiên, không ai bắt ép NHNN (nếu họ không muốn) phải tiến hành phá giá ở mức độ lớn và đột ngột cả! Và NHNN cũng không nên, không dại gì để bị dồn vào thế phải phá giá ở mức lớn đến độ gây ra hoảng loạn như vậy. Thay vào đó, tại sao NHNN lại không (chủ động) phá giá từng nấc ở nhiều thời điểm khác nhau?
Ngược lại, chính vì quan niệm phiến diện là phá giá sẽ làm tăng lạm phát, tăng kỳ vọng lạm phát, gây bất ổn vĩ mô đã làm cho NHNN cố gắng neo tỷ giá ở mức “ổn định” nhất có thể, với niềm tin rằng làm thế sẽ làm tăng lòng tin của dân chúng và nhà đầu tư vào VND (trong khi cung tiền tiếp tục được mở rộng để kích thích tăng trưởng gây ra áp lực lạm phát lớn). Nhưng ngay như ông Tuấn cũng nhận định trong bài của mình rằng nếu tỷ giá bị neo quá lâu thì sẽ dẫn đến nguy cơ phải thực hiện một đợt điều chỉnh tỷ giá mạnh. Như thế có nghĩa là việc neo tỷ giá để đạt được sự ổn định tạm thời về tỷ giá, về lòng tin, không phải là giải pháp cơ bản và bền vững cho chính sách tỷ giá. Thay vào đó, cái cần có là một chính sách quản lý tỷ giá linh hoạt sao cho tỷ giá luôn phản ánh sát thực nhất có thể quan hệ cung cầu USD và đồng thời chênh lệch lạm phát giữa Mỹ và Việt Nam. Khi đã thiết lập được một sự linh hoạt như vậy rồi thì phá giá nếu có chỉ là những bước điều chỉnh nhỏ, không gây xáo trộn lớn trong xã hội (vì xã hội nhận thức rõ và thông cảm được tại sao NHNN phải “điều chỉnh” tỷ giá như vậy), và càng không có lý do gì để nói hoặc e ngại rằng phá giá sẽ làm bất ổn vĩ mô và mất lòng tin vào VND cả!

Tiện đây, xin bàn thêm về luận điểm của ông Tuấn rằng ông “...không ủng hộ một đợt phá giá mạnh VND để cải thiện sức cạnh tranh ngay lúc này. Đơn giản là vì ta phá giá được thì nước người ta cũng phá giá được, huống chi kiểu cạnh tranh như thế này sẽ chỉ khiến cho người ta càng có bằng chứng nói rằng chúng ta “trợ giá” cho nhiều loại đầu vào của nền kinh tế (gần đây nhất là chuyện giá nhiên liệu)”.
Như trên đã nói, nếu NHNN linh hoạt hơn với chính sách tỷ giá của mình thì NHNN đã không việc gì phải tiến hành “một đợt phá giá mạnh” vì đã và sẽ phá giá nhiều đợt, mỗi đợt phá giá một chút. Và để cải thiện sức cạnh tranh thì phá giá dù chỉ vài điểm phần trăm cũng đã là quý rồi vì như thế cũng đã làm lợi cho xuất khẩu, chứ không cần phải ở mức ví dụ như 10 điểm phần trăm (không biết đây có phải là mức ông Tuấn coi là mạnh hay không).

Và chắc chắn rằng khi VND đã lên giá thực (ở mức lớn) so với USD thì Việt Nam hoàn toàn có quyền và có cơ sở hợp lý để tiến hành phá giá (kể cả phá giá mạnh) mà không phải e ngại bất kỳ “nước người ta” nào dị nghị cả. Và nếu người ta bắt trước phá giá theo thì âu cũng là việc bình thường, giống như việc 2 đối thủ tìm mọi cách hạ giá thành để tăng tính cạnh tranh của sản phẩm. Có điều cần lưu ý là không phải nước người ta nào cũng (luôn) có thể bắt trước phá giá theo được, vì nhiều lý do.

Wednesday 25 June 2014

Cần một nhận thức chung đúng đắn về tỷ giá (Bài đăng trên TBKTSG, 26/6/2014, bản gốc)

Bài này xuất hiện trên TBKTSG dưới tiêu đề: "Tỷ giá- cần cái nhìn đa chiều", do báo đặt lại.
---------------------------------------------
http://www.thesaigontimes.vn/116699/Ty-gia---can-cai-nhin-da-chieu.html

Cuối cùng thì đồng Việt Nam cũng đã “bất ngờ” bị phá giá nhẹ (hay tỷ giá được “điều chỉnh”) sau bao nhiêu nỗ lực kêu gọi phá giá bất thành của một số ít người trước bức tường bảo thủ sai lầm của các nhà chức trách và đại bộ phận chuyên gia kiên quyết chống lại chuyện phá giá, dù là nhẹ.
Trước đó cho đến tận tuần mới đây, chưa nói gì đến ý kiến phản đối phá giá của nhiều chuyên gia, ngay chính các quan chức Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã nhiều lần tuyên bố một cách rất thống nhất rằng hoàn toàn không hoặc chưa thấy có lý do gì để phá giá vì “cung cầu ngoại tệ hết sức dồi dào”, không có gì biến động bất thường, vì tài khoản thanh toán đang thặng dư lớn, vì quỹ dự trữ ngoại hối đã và đang tăng mạnh, vì những áp lực phá giá nếu có chỉ là do tin đồn, do đầu cơ trục lợi...

Trên hết, họ cực lực phản đối ý kiến của một số ít người kiến nghị phá giá để kích thích xuất khẩu vì tỷ giá đã bất động quá lâu trong khi chênh lệch lạm phát giữa Việt Nam và Mỹ lớn dẫn đến tiền đồng bị lên giá thực ở mức lớn, ảnh hưởng xấu đến xuất khẩu, tăng nhập siêu. Lưu ý rằng thực tế tiền đồng lên giá thực so với đô la Mỹ cũng chính là nhận định của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong cuộc trả lời phỏng bấn Bloomberg hồi tháng 9/2013 tại New York khi ông cho biết Chính phủ có kế hoạch “hạ giá VND tối đa 2% vào cuối năm (2013)”.
Nhưng theo nhiều chuyên gia và quan chức NHNN, phá giá không làm tăng xuất khẩu, mà, ngược lại, thậm chí làm tăng nhập siêu vì hàm lượng đầu vào nhập khẩu của hàng hóa sản xuất tại Việt Nam có tỷ trọng cao. Họ còn cho rằng phá giá sẽ làm cho lạm phát tăng lên. Hơn nữa, phá giá làm cho lòng tin vào tiền đồng suy giảm, gây bất ổn định vĩ mô.

Và rồi điều gì phải đến đã đến. Phá giá đã phải diễn ra như đã thấy. Điều đáng nói là lý do để phá giá lần này được chính NHNN đưa ra là để “hỗ trợ xuất khẩu”, điều mà mới đó chính họ còn ra sức phủ nhận. Chưa hết, để trấn an dư luận về lo ngại phá giá làm tăng lạm phát, điều mà chính họ cảnh báo trước đây, NHNN tuyên bố rằng phá giá không làm tăng lạm phát.
Còn riêng về chuyện lòng tin vào tiền đồng, NHNN dường như vớt vát rằng đợt phá giá này là nằm trong kế hoạch để cho tỷ giá biến động không quá 1-2% trong năm nay. Nhưng e rằng hành động phá giá diễn ra không lâu ngay sau những lời tuyên bố mạnh mẽ không phá giá của NHNN (vì “không có lý do gì để phá giá”) mới chính là cái làm sứt mẻ lòng tin của công chúng vào lập trường chính sách của NHNN nói chung, vào tiền đồng nói riêng. Minh chứng là đã có nhiều ý kiến trên các phương tiện thông tin đại chúng bày tỏ sự ngạc nhiên, bất ngờ với đợt phá giá lần này khi họ bị thuyết phục bởi những biện hộ cứng rắn của NHNN cho việc không điều chỉnh tỷ giá trước đó.

Những diễn biến trên cho thấy đã có sự biến chuyển theo hướng tích cực trong nhận thức về tỷ giá của NHNN. Và dư luận dường như cũng đã có sự biến chuyển tương tự khi không còn nghe thấy mấy lời phàn nàn, phê phán chuyện phá giá của NHNN từ giới chuyên gia nữa, mà thay vào đó là sự tán đồng (đây không phải là điều bất ngờ), hoặc sự cố gắng giải thích hành động phá giá này theo hướng không “chệch” quá xa so với ý kiến phản đối của mình trước đây (cũng không phải là điều bất ngờ).
Nhưng vạch ra những mâu thuẫn trong lời nói và hành động, cũng như sự biến chuyển tích cực trên trong giới chuyên gia và chức trách không phải là mục đích chính của bài viết này. Thay vào đó, như tiêu đề của bài, đây là cơ sở để nó lên tiếng kêu gọi hình thành một nhận thức chung đúng đắn về tỷ giá ở Việt Nam để tránh những tranh luận không còn cần thiết từ nay về sau nữa, ví dụ phá giá có hay không làm tăng xuất khẩu, tăng nhập siêu (vì đã rõ ràng, từ lý thuyết đến thực tế), và cũng là để tránh những hành động chính sách sai lầm như kiên định mù quáng với chính sách kìm giữ tỷ giá bất chấp điều kiện vĩ mô bất lợi thế nào.

Nhận thức này cụ thể là, việc quyết định có phá giá hay không không chỉ dựa vào quan hệ cung cầu ngoại tệ có thiếu hụt, căng thẳng hay không, mà còn phải dựa vào những yếu tố khác, trong đó có việc tiền đồng có lên giá thực (ở mức lớn) so với đô la Mỹ làm ảnh hưởng bất lợi đến cán cân thương mại hay không.
Cũng từ nhận thức thống nhất nói trên, mỗi khi có biến động gây áp lực lên tỷ giá và khi NHNN phải lên tiếng với công chúng về lập trường và ý định của mình thì NHNN cần phải thay đổi cách giải thích và lập luận phiến diện truyền thống của mình như nêu ở trên. Mọi giải thích và lập luận từ nay trở về sau phải xuất phát từ góc nhìn đa chiều bao hàm các yếu tố về quan hệ cung cầu ngoại tệ, về tương quan lạm phát trong và ngoài nước, về sức ép của tỷ giá lên thâm hụt thương mại, về cơ sở để gây dựng và củng cố lòng tin vào tiền đồng... Chỉ có như vậy thì chính sách về tỷ giá của NHNN mới có tính thực tiễn và sức sống lâu dài hơn trong nền kinh tế.

Thursday 19 June 2014

Cười một cái với tỷ giá

Tớ thực ra không muốn cười vào bản thân cái tỷ giá mà chỉ là cười vào cái sự im lặng khá tế nhị của nhiều đồng chí vốn lớn tiếng phê phán chuyện phá giá, và cười vào cái sự tráo trở, nói kiểu gì cũng được của nhiều đồng chí khác.

Chẳng hạn trước đây cũng các đồng chí này cho rằng phá giá thì sẽ không làm tăng xuất khẩu, mà chỉ tăng lạm phát, tăng nhập khẩu. Nay thì từ Thống đốc đến Vụ trưởng Vụ tiền tệ NHNN, đến những chuyên gia này kia đều rất tự nhiên khi nói phá giá (chính xác là "điều chỉnh" tỷ giá) là để hỗ trợ xuất khẩu, rằng tỷ giá tăng nhưng không làm tăng lạm phát. Hình như ngay cả Bình Thống đốc trước đây nói ngược lại thế thì phải nhi?

Hoặc trước đây thì tất cả đều một giọng giống nhau (như là có đạo diễn) rằng không có lý do gì để phá giá vì "cung cầu ngoại tệ rất dồi dào", vì nào là thặng dư cán cân thanh toán và cán cân tổng thể v.v... Nay thì dường như chẳng vì lý do gì ngoài lý do "hỗ trợ xuất khẩu" mà phá giá, hỏi thế có trêu ngươi không cơ chứ?

Rồi nhiều đồng chí ăn theo nói leo, hoặc trót tin vào lời hứa của Bình Thống đốc nên khẳng định như đúng rồi rằng tỷ giá sẽ ổn định, không tăng quá 1% năm nay. Nay thì đã nhỡ nhàng rồi, biết ăn nói với thiên hạ ra sao, làm sao lấy lại được lời đã nói đây? Cơ khổ!

Thôi tớ không muốn cười nữa, chỉ mong các đồng chí từ bây giờ trở đi ráng mà nhớ lấy cái lần này để lần sau có nói gì ấm ớ thì cũng ấm ớ cho nó vừa vừa, có chừng mực thôi, không sẽ lại có thêm nhiều kẻ cười cho.

Chẳng nhẽ tớ lại hô tớ muôn năm?!.

Wednesday 18 June 2014

Ngủ trưa, Gmail với tặng quà (Bài đăng trên TBKTSG, 19/6/2014, bản gốc, tiêu đề do báo đặt)

http://www.thesaigontimes.vn/116429/Ngu-trua-Gmail-voi-tang-qua.html

Nhân chuyện FPT IS vừa có quyết định cấm nhân viên nằm ngủ trưa trong khu vực làm việc, có một số tờ báo đã liệt kê ra những lệnh cấm mà họ gọi là “bá đạo” của các sếp Việt, trong đó, ngoài lệnh cấm nằm ngủ trưa này, còn có những lệnh cấm như cấm nhân viên dùng yahoo mail, gmail, và cấm nhân viên tặng quà sếp.

Nhìn chung, nếu để ý theo dõi thì sẽ thấy dư luận có vẻ sốc và không đồng tình với những lệnh cấm này, ngoài một số lý do biện hộ này kia được đưa ra, sâu xa là vì chúng “xâm phạm” đến những thói quen cố hữu của người Việt. Điều đáng nói là những thói quen này không phải là tốt đẹp, đáng duy trì trong thời hiện tại, nhất là nhìn từ ngoài vào, và không phải là không thể thay đổi được.
Ví dụ về thói quen (nằm) ngủ trưa tại văn phòng. Bản thân tôi đã từng có một thời gian làm tại Việt Nam và cũng (buộc phải) có thói quen ngủ trưa khi xung quanh mọi người đều ngủ cả, tắt điện tối om. Và chuyện ngủ trưa này trở thành bình thường, đương nhiên trong quan niệm của tôi cho đến thời điểm đó.

Nhưng sau này đi du học và làm việc tại, tiếp xúc với nhiều công ty và tổ chức, tôi thấy rằng ở nhiều nước (những nơi mà tôi đã qua, đã làm việc), chuyện ngủ trưa, tắt đèn, đặc biệt là chuyện nằm trên bàn, trên ghế, rải tấm trải ra sàn văn phòng v.v... như ở Việt Nam dường như là chuyện chỉ có ở Việt Nam.

Bản thân tôi, sau khi rời khỏi Việt Nam, đã nhanh chóng đánh mất thói quen ngủ trưa để hòa vào cung cách làm việc xung quanh suốt từ hàng chục năm nay. Thú thực là đôi khi quá căng thẳng và ngủ ít từ hôm trước, tôi cũng cảm thấy buồn ngủ vào chiều hôm sau, đến nỗi có khi ngủ gật một cách vô thức. Nhưng đó chỉ là hãn hữu và cơn buồn ngủ cũng nhanh chóng qua trôi qua.

Các đồng nghiệp xung quanh tôi cũng vậy, không bao giờ thấy họ ở lại trong phòng để ngủ trưa, mà đều tranh thủ giờ nghỉ trưa để đi ăn, đi mua sắm, làm việc riêng, hoặc ngồi nhâm nhi cà phê tán gẫu với bạn bè.
Dù vậy, chỗ tôi làm việc, cơ quan cũng rất “nhân văn” khi bố trí một phòng ăn kiêm nghỉ ngơi thư dãn (chỉ có vài cái ghế bố) dành cho nhân viên ai có nhu cầu chợp mắt. Nhưng những cái ghế này cũng rất ít khi được sử dụng.

Không những đã mất thói quen ngủ trưa, tôi còn trở nên rất “dị ứng” với cái cảnh đến giờ nghỉ trưa thì hầu như đồng loạt tất cả công sở, văn phòng ở Việt Nam đều đóng cửa, treo biển ngủ trưa, kể cả những nơi làm dịch vụ, phục vụ khách hàng, ví dụ như ngân hàng. Thật là có trải qua mới biết không gì khó chịu bằng cảnh Thượng đế phải đợi người phục vụ ngủ trưa dậy rồi mới được phục vụ. Ở nước ngoài, với nhiều người làm công ăn lương, giờ nghỉ trưa là giờ họ tranh thủ đi giải quyết nhiều việc cá nhân, còn người dân thì vẫn có nhu cầu công việc như bình thường, nên các văn phòng, công sở mang tính chất dịch vụ thường cho nhân viên luân phiên nhau nghỉ/ăn trưa để vẫn tiếp tục phục vụ Thượng đế, chứ không đóng cửa, ngừng trệ công việc hoàn toàn như ở Việt Nam.
Chưa hết, nhìn cái cảnh nhân viên uể oải ngáp ngán ngáp dài, mắt nhắm mắt mở, quần áo xộc xệch, lục tục ngồi dậy (mặc dù nhiều lúc đã quá giờ quy định), xung quanh thì bề bộn chăn gối, thức ăn vặt... mới thấy cám cảnh cho môi trường công sở ở Việt Nam. Thế nên cũng rất đồng cảm với thái độ của đối tác của FPT IS khi nhìn thấy cảnh ngủ trưa ở đó. Và bởi thế, chưa cần nói đến những chuyện “đao to búa lớn” như toàn cầu hóa, thói quen (nằm) ngủ trưa đúng là một thói quen cần bỏ hay hạn chế tối đa, ở Việt Nam càng sớm càng tốt.

Sang chuyện dùng yahoo mail hoặc gmail, việc (cho nhân viên) sử dụng những hòm thư công cộng này trong công việc trước hết là thể hiện sự không chuyên nghiệp của tổ chức đó. Với tôi, mỗi khi nhận một tấm danh thiếp của ai đó từ một tổ chức nào đó mà chỉ có mỗi địa chỉ email có đuôi như yahoo hay gmail thì lập tức ấn tượng, sự tín nhiệm và đánh giá của tôi về tổ chức đó, người đó sẽ hao hụt rất nhiều. Ngược lại, khi nhận được những email từ những địa chỉ này gửi đến email của cơ quan tôi, tôi hầu như sẽ xóa ngay mà không đọc, trừ khi biết trước chủ nhân của email đó là ai. Và cơ quan tôi cũng có những quy định rất khắt khe về việc liên lạc với bên ngoài bằng những địa chỉ email công cộng thế này.
Bên cạnh đó, các cơ quan cũng cần cấm nhân viên dùng máy tính của cơ quan để gửi và nhận email công cộng. Đương nhiên là nếu không có máy tính cơ quan thì ngày nay nhân viên vẫn có thể dễ dàng tiếp cận gmail, yahoo thông qua những thiết bị cá nhân như máy tính bảng, điện thoại thông minh...  Nhưng vẫn cần phải cấm vì, ngoài lý do là việc cho phép này lại tạo thêm điều kiện cho nhân viên “tư nhân hóa” thời gian làm việc công, nó còn có mục đích quan trọng là góp phần bảo đảm an ninh mạng, là chuyện đã xảy ra rất nhiều khắp đó đây. Hãy thử hình dung hậu quả khi một nhân viên ngân hàng có thể dùng yahoo mail hay gmail để gửi dữ liệu mật của ngân hàng ra ngoài, hay nhập dữ liệu vào trong hệ thống, như là một cách “lách” khi hệ thống máy tính của nhiều ngân hàng không cho phép kết nối với các thiết bị ngoại vi như USB để upload, download dữ liệu.

Và cuối cùng là chuyện tặng quà sếp. Quả thật là ở ngoài Việt Nam, tôi chưa bao giờ phải chứng kiến cảnh nhân viên tặng quà sếp, hầu như bất cứ dịp gì ngoài dịp sinh nhật sếp. Cho dù thế, trong dịp tổ chức sinh nhật sếp (không phải là thông lệ, thói quen), quà được tặng cũng chỉ là một bữa ăn chung và thêm cái bánh sinh nhật do mọi người cùng góp tiền. Ngược lại, rất thông thường là nhân viên được sếp tặng quà, mừng tuổi và đãi ăn uống nhân dịp tổng kết quý, năm, Noen, năm mới... vì đây được cho là trách nhiệm và việc nên làm của sếp để lấy lòng nhân viên.
Tóm lại, không còn là sớm sủa gì nữa để nhiều thói quen trong môi trường công sở Việt Nam như trong bài này cần phải bị dẹp bỏ hoặc thay đổi ngay, và hoàn toàn có thể thay đổi được, dù chúng đã bén rễ chắc và sâu thế nào.

Tuesday 10 June 2014

Quỹ bình ổn giá xăng dầu có tác dụng gì? (Bài đăng trên TBKTSG Online, 11/6/2014)

http://www.thesaigontimes.vn/116117/Quy-binh-on-gia-xang-dau-co-tac-dung-gi?.html

(TBKTSG Online)- LTS: Quỹ bình ổn giá xăng dầu hiện nay có thực sự đem lại lợi ích cho người dân hay đang làm tổn hại đến an sinh xã hội? Liệu có nên tiếp tục duy trì Quỹ bình ổn nữa hay không? TBKTSG Online giới thiệu ý kiến sau đây của một chuyên gia kinh tế và mong nhận các ý kiến khác.

Theo giải thích của Bộ Tài chính cũng như báo cáo của Kiểm toán Nhà nước, Quỹ bình ổn giá xăng dầu góp phần bình ổn mặt bằng giá nói chung, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì ổn định tăng trưởng và an sinh xã hội.

Có thực vậy không? Nếu đúng vậy, có lẽ nhà nước nên thành lập thêm càng nhiều quỹ bình ổn để bình ổn (ở cấp quốc gia) giá của càng nhiều mặt hàng thì càng tốt. Vì, cùng một logic, các loại quỹ bình ổn này sẽ đều có tác dụng bình ổn mặt bằng giá cả nói chung, và, do đó, ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng và an sinh xã hội.

Tuy nhiên, thực tế về Quỹ bình ổn ở Việt Nam lại khác, và, do đó, sẽ rất khiên cưỡng khi nói Quỹ bình ổn có những tác dụng như ca ngợi.

Về bản chất, Quỹ bình ổn xăng dầu hiện nay ở Việt Nam đang lấy tiền của chính người mua xăng dầu để “bình ổn” giá cho người mua xăng dầu. Do đó, xét về an sinh xã hội (hiểu nôm na ở đây là quyền lợi của người mua xăng dầu, và từ đó lan tỏa ra khắp xã hội) không được cải thiện gì, vì người mua xăng dầu tuy có được mua xăng dầu bình ổn với giá không tăng trong tương lai gần nhưng đó chỉ là do họ đã ứng trước cho phần giá tăng lên này, chứ sự “bình ổn” không tự nhiên đến, hoặc đến nhờ có tiền trợ giá của một bên thứ ba, chẳng hạn, nhà nước.

Để cho dễ hiểu hơn, ta lấy một ví dụ cụ thể như sau.

Giá bán lẻ xăng ngày hôm nay, chưa gồm tiền trích vào Quỹ bình ổn, là 20.000 đồng/lít. Sau khi trích Quỹ bình ổn, ví dụ, 5% giá xăng, giá bán lẻ xăng sẽ thành 21.000 đồng/lít. Như vậy, việc trích lập Quỹ bình ổn đã tước đi của người mua xăng dầu thêm 1.000 đồng/lít vào thời điểm hiện tại.

Giả sử một tháng sau, giá xăng dầu nhập khẩu tăng lên làm cho giá bán lẻ trong nước lẽ ra phải tăng lên đúng 5% (1.000 đồng/lít). Nhờ có Quỹ bình ổn, giá bán lẻ xăng dầu không thay đổi.

Nhưng điều này không có nghĩa là người mua xăng dầu được lợi 1.000 đồng/lít một tháng sau này, vì thực chất họ đã ứng trước số đó một tháng trước, thông qua trích lập Quỹ bình ổn! Tức là về mặt an sinh xã hội, người tiêu dùng nói riêng và xã hội nói chung chẳng được lợi thêm gì từ Quỹ bình ổn cả.

Thêm nữa, xét về tác dụng ổn định giá cả, chính phần tiền ứng trước cho Quỹ bình ổn này làm cho giá cả xăng dầu thay vì lẽ ra phải/sẽ tăng lên vào một thời điểm trong tương lai thì lại tăng ngay vào thời điểm trích lập Quỹ bình ổn hiện tại. Nói cách khác, và suy rộng ra, Quỹ bình ổn sẽ “kéo” sự  tăng giá (tức lạm phát) trong tương lai về hiện tại.

Trở lại ví dụ trên, việc trích lập 1.000 đồng/lít vào Quỹ bình ổn hôm nay đã  “vô tình” tạo ra áp lực tăng giá trong thời điểm hiện tại khi nó góp thêm áp lực đến từ việc tăng giá xăng dầu thêm 1.000 đồng/lít vào trong rổ hàng hóa tính CPI cho tháng hiện tại. Tuy áp lực lên CPI không thay đổi sau một tháng nữa, nhưng đó là vì áp lực đó đã dồn lên CPI từ một tháng trước đó rồi. Như thế, nếu tính mặt bằng giá cả chung cho cả năm thì CPI vẫn sẽ tăng lên, khi các điều kiện khác không thay đổi, cho dù có sự tồn tại của Quỹ bình ổn.

Ngoài những sự vô tác dụng nói trên, Quỹ bình ổn còn gây hại ở chỗ nó là “hố đen” để một nhóm người nào đó có thể trục lợi, vì mọi việc liên quan đến Quỹ bình ổn không thể minh bạch hoàn toàn được. Đó là chưa nói đển tổn thất tính vào Quỹ bình ổn, tức là được “trừ” vào lợi ích của người tiêu dùng, khi mà việc quản lý Quỹ bình ổn làm phát sinh chi phí quản lý và đủ loại chi phí liên quan khác.

Nói cách khác, sẽ là không quá khi kết luận rằng Quỹ bình ổn thực ra lại làm tổn hại đến an sinh xã hội cũng như kiểm soát lạm phát và ổn định vĩ mô, vì một phần của nguồn lực xã hội bị tiêu tốn một cách vô ích.
 
 

Monday 9 June 2014

Phải cám ơn báo An ninh Thủ đô đã truyền đạt tư tưởng của tớ

Vốn như thường lệ, tớ khá có duyên với tờ báo này vì tư tưởng và lời văn của tớ được cóp bết khá nguyên vẹn trên tờ báo này, như bài về quan hệ với Trung Quốc.

Tuy nhiên, lần này tớ lại thấy rất dễ chịu vì nhờ có tờ báo và đồng chí phóng viên Đan Thanh mà tư tưởng của tớ được truyền đạt phổ biến, sâu rộng hơn (và quan trọng hơn, hoàn toàn miễn phí!) trên một tờ báo có tính chọn lọc đề tài, nội dung và tác giả mà một cộng tác viên như tớ không dễ gì mà được tờ báo này chấp nhận (thế mới đen!).

Lưu ý rằng tư tưởng này của tớ, xuất hiện ban đầu trên TBKTSG, có vẻ như không được dư luận tán thưởng cho lắm, vì động đến quan hệ nhạy cảm với Trung Quốc. Nay nó xuất hiện trên tờ an ninh, chắc là đúng ý đảng. Vinh dự phết đấy, vì chả mấy khi tớ nói trúng ý đảng.

Đồng chí Bình cũng thừa nhận VND bị định giá cao đây này!

Sau bao quanh co, biện luận, đúng hơn là ngụy biện của nhiều đồng chí từ dân thường đến quan chức và chuyên gia rằng tỷ giá VND là "ổn", là không cần thiết phải phá giá, là không có áp lực phải phá giá v.v... cuối cùng thì đồng chí Bình cũng phải chốt lại, thừa nhận rằng: “Để có thể khuyến khích xuất khẩu, để đồng Việt Nam không bị định giá quá cao, thì việc Ngân hàng Nhà nước xem xét điều chỉnh tỷ giá ở mức độ phù hợp cũng là việc xã hội rất quan tâm".

http://vneconomy.vn/20140609095635293P0C6/ty-gia-bat-tang-sau-phat-bieu-cua-thong-doc.htm

Lưu ý rằng một mặt đồng chí Bình thừa nhận rằng VND bị định giá (quá) cao (bằng cách nói gián tiếp như trong đoạn bôi đậm bên trên), nhưng mặt khác đồng chí ấy vẫn khẳng định rằng: "hiện các điều kiện khách quan để điều chỉnh tỷ giá, để buộc phải điều chỉnh tỷ giá là chưa có. Ngân hàng Nhà nước tiếp tục khẳng định sẽ giữ ổn định tỷ giá từ nay đến cuối năm", như lời dẫn của VnEconomy. Xin thưa với đồng chí là áp lực để buộc phải điều chỉnh tỷ giá chính là sự bị định giá quá cao của VND đấy ạ.
Như thế tớ có thể kết luận rằng đúng là "miệng nhà quan có gang có thép", nói mà chẳng cần biết, cần quan tâm mình nói cái gì, nói đúng hay không. Cũng có thể quan này cũng chỉ là trí thức 1/2 mùa, kiến thức cũng chỉ đến từng này mà thôi.

Friday 6 June 2014

Chuẩn bị chu đáo để quá trình hòa nhập xuôi chèo mát mái (Bài trả lời phỏng vấn DBND, ngày 7/6/2014)




Chuẩn bị chu đáo để quá trình hòa nhập xuôi chèo mát mái

08:55 | 07/06/2014
http://www.daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=317496

Năm nay và một vài năm tới, nước ta sẽ ký kết một số hiệp định thương mại tự do mới với các nền kinh tế khu vực và thế giới. Ts Phan Minh Ngọc, hiện đang làm việc tại Ngân hàng Sumitomo chi nhánh Singapore cho rằng, trước mỗi hiệp định mới, sự chuẩn bị chặt chẽ và chu đáo về tinh thần, pháp lý và môi trường KT - XH là thiết yếu để quá trình hòa nhập xuôi chèo mát mái, đem đến nhiều tác động tích cực hơn là tiêu cực.
Các hiệp định vẫn còn xa lạ
- Ông có bình luận gì về chủ đề Từ chương trình tới hành động - chuẩn bị cho các hiệp định thương mại mới của Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam giữa kỳ 2014 hôm 5.6 vừa qua?
- Trong năm nay và một vài năm tới, Việt Nam sẽ ký kết hoặc đang đàm phán một số hiệp định thương mại tự do mới với các nền kinh tế khu vực và thế giới. Ví dụ: Hiệp định thương mại tự do ASEAN – Australia - New Zealand, Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Đối tác kinh tế toàn diện khu vực ASEAN + 6 (RCEP), Hiệp định thương mại tự do EU - Việt Nam, Hiệp định thương mại tự do Hàn Quốc - Việt Nam, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam với liên minh thuế quan Nga, Belarus và Kazakhstan, và Hiệp định thương mại tự do châu Âu - Việt Nam.

Nguồn: sukien.net
Bởi vậy, Diễn đàn với chủ đề này là một bước đi cụ thể trong quá trình hiện thực hóa sự hòa nhập hoàn toàn và đầy đủ của Việt Nam vào các sân chơi lớn của khu vực và thế giới như nói trên. Trước mỗi một hiệp định thương mại mới thì sự chuẩn bị chặt chẽ và chu đáo về tinh thần, pháp lý và môi trường kinh tế, xã hội là điều thiết yếu để bảo đảm cho quá trình hòa nhập được xuôi chèo mát mái, đem đến cho Việt Nam nhiều tác động tích cực hơn là tiêu cực.
Được biết, Diễn đàn này tập trung vào một số nội dung chính như những cơ hội và thách thức cho Việt Nam sau ký kết các hiệp định thương mại tự do mới này, cũng như thảo luận các lĩnh vực thu hút được sự quan tâm lớn của các nhà đầu tư trong các lĩnh vực ngân hàng, thị trường vốn, đầu tư và thương mại, cơ sở hạ tầng, lao động và việc làm v.v... Như vậy, có thể nói rằng, và hy vọng rằng Diễn đàn lần này đã cung cấp cho các thành viên tham gia một cái nhìn sâu sắc và đa chiều hơn về những thuận lợi và khó khăn, những lợi ích và thiệt hại có thể có của từng quốc gia thành viên trong các hiệp định tự do thương mại nói trên.
- Đánh giá chung của Ông về sự chuẩn bị của Việt Nam cho các Hiệp định thương mại mới này?
- Nhìn chung, có lẽ giống như với nhiều hiệp định thương mại tự do khác trước đây, các hiệp định thương mại tự do mới này vẫn tỏ ra khá xa lạ với nhiều cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức. Có thể một phần là vì thực tế hiện đang có khá nhiều thỏa thuận thương mại song phương và đa phương đã, đang tồn tại, và sẽ ra đời trong thời gian tới. Với số lượng lớn như vậy, không khó hình dung sẽ có sự quá tải thông tin, cũng như lẫn lộn về phạm vi, nội dung... giữa chúng với nhau ở đây. Đó là chưa kể với nhiều cá nhân và tổ chức vốn vẫn quen thụ động, ỷ lại vào nhà nước trong việc cung cấp thông tin cũng như định hướng, một phần do lý do khách quan là sự phổ biến các tài liệu liên quan bằng tiếng Việt chưa có nhiều và được cập nhật thường xuyên.
Thực tế này đòi hỏi nhà nước phải tích cực tuyên truyền sâu rộng hơn nữa thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, những hội thảo và diễn đàn, những tổ chức hội nghề nghiệp, những cổng thông tin đầy đủ và dễ tiếp cận v.v... để tăng thêm hiểu biết của cộng đồng đối với các thỏa thuận và hiệp định Việt Nam đang đàm phán và ký kết.
TPP - cuộc chơi dành cho doanh nghiệp nước ngoài
-  Trong số các hiệp định Ông nhắc tới ở trên, hiệp định nào cần được chú trọng đặc biệt?
- Đương nhiên những hiệp định được ký kết với các nhóm nước và khu vực mà Việt Nam có quan hệ đầu tư và thương mại lớn nhất sẽ là quan trọng nhất và cần được chú trọng nhất. Xét theo phương diện này thì những hiệp định thương mại với Mỹ, Nhật, Trung Quốc và châu Âu có tầm quan trọng hàng đầu với Việt Nam. Trong số đó phải kể đến TPP vì bản thân nó sẽ bao gồm những bạn hàng và nhà đầu tư quan trọng nhất đối với Việt Nam là Mỹ và Nhật. Nếu sau này TPP tiếp tục được mở rộng thêm cho cả Đài Loan và Hàn Quốc tham gia, thậm chí là Trung Quốc, thì nó sẽ trở thành một siêu hiệp định với Việt Nam.
Ngoài tầm quan trọng hàng đầu, TPP còn chứa đựng nhiều thử thách với Việt Nam vì nó sẽ buộc Việt Nam phải thực hiện nhiều nhượng bộ lớn về kinh tế, chính trị và xã hội, ví dụ như doanh nghiệp nhà nước, mua sắm công, công đoàn v.v... ngoài những nhượng bộ đầy khó khăn về mở cửa thị trường như thường có trong nhiều hiệp định thương mại khác.
- Được biết Ông đã gặp đại diện các cơ quan Việt Nam để tìm hiểu tiến trình của TPP. Ông có suy nghĩ gì sau những cuộc gặp này?
- Trước đây, khi gặp gỡ họ thì tôi thấy có một sự chủ quan ở một số người khi cho rằng Mỹ rất muốn và cần lôi kéo Việt Nam tham gia vào TPP bằng mọi giá, ví dụ, để làm một quân cờ chiến lược trong thế cờ với Trung Quốc. Từ nhận thức này, một số người cho rằng Việt Nam có thế hơn nên không muốn, không cần nhân nhượng nhiều với Mỹ trong cuộc mặc cả mang tên TPP. Thực ra thì không hoàn toàn như vậy, vì tôi cũng đã gặp gỡ một số tổ chức của Mỹ tại Việt Nam để có được một cái nhìn đầy đủ và khách quan hơn từ phía Mỹ.  
Nhưng vừa rồi qua một số thông tin trên báo chí về kết quả của các vòng đàm phán TPP trong nửa đầu năm nay, tôi thấy rằng chúng ta đã thực tế hơn nhiều trong vấn đề này, và tập trung vào những điểm đàm phán mà phía Mỹ có thể thỏa hiệp và đánh đổi được. Đó là một dấu hiệu tốt cho thấy cả 2 bên đã tiến đến gần hơn đến một thỏa thuận.
Tất nhiên, TPP không chỉ là cuộc chơi giữa Việt Nam với Mỹ mà còn là cuộc chơi đa chiều giữa 12 thành viên đàm phán, trong đó mỗi một thành viên lại mang đến bàn đàm phán đa phương những vấn đề “rắn” đối với các thành viên khác. Ví dụ như Nhật thì có vấn đề mở cửa thị trường nông sản. Bởi vậy, có lẽ khó có thể nói quốc gia thành viên nào đã chuẩn bị đầy đủ, sẵn sàng cho TPP, dù đó là Mỹ, hay Nhật, hay Việt Nam, bởi vì đây là cuộc thương lượng đa phương cực kỳ phức tạp với các lợi ích đan chéo nhau, đòi hỏi mỗi thành viên phải có thành ý, biết nhượng bộ, tự điều chỉnh mình nếu muốn hướng đến việc ký kết thành công TPP. Thêm nữa, việc đàm phán thành công chưa tự nó làm cho TPP chính thức ra đời vì kết quả đàm phán còn phải được phê chuẩn tại Quốc hội một số nước.
- Còn sự chuẩn bị của doanh nghiệp thì sao, thưa Ông?
- Sự chuẩn bị của doanh nghiệp trong TPP thực ra cũng chỉ mới bắt đầu sôi động từ năm ngoái khi TPP tưởng chừng sẽ được ký kết ngay trong tháng 10 năm ngoái. Trước đó, một phần do tính đàm phán kín nên TPP không được mấy người biết đến ở Việt Nam. Sôi động nhất, và cũng rất dễ hiểu, là các doanh nghiệp trong ngành dệt may vì ngành này được cho là sẽ hưởng lợi lớn từ TPP.
Thế nhưng, khi tiếp xúc với các doanh nghiệp dệt may thì cảm nhận của tôi là các doanh nghiệp này, đặc biệt là các doanh nghiệp may, nghĩ rằng không cần cố gắng nhiều, chuẩn bị gì hơn, cũng vẫn sống tốt, sống khỏe. Họ vẫn nhận được nhiều đơn đặt hàng gia công thậm chí làm không xuể. Trước hay sau TPP thì họ vẫn quen, vẫn thích làm gia công hơn, với nguyên vật liệu được chỉ định nhà cung cấp và đầu ra đã có doanh nghiệp nước ngoài bao tiêu. Đơn giá tiền công gia công thì đã có công thức tính toán.
Có một số nhà đầu tư trong nước đã tính đến đầu tư vào phân khúc thượng nguồn của ngành, như kéo sợi, dệt, nhuộm, hoàn thiện. Thực tế thì đã có một số ít hiện thực hóa được dự án của mình. Đa phần còn lại là vẫn đang nghiên cứu, xem xét, thu xếp, hoặc đang dậm chân tại chỗ trong việc triển khai dự án vì những trở ngại này kia, như vốn, giấy phép đầu tư, đáp ứng yêu cầu về môi trường v.v...
Chỉ có các nhà đầu tư đến từ Đài Loan, Trung Quốc, Hong Kong là nhanh chân nhất, vào Việt Nam trong thế đón đầu TPP, và tiến hành ngay một số dự án đầu tư thượng nguồn. Không hiểu lý do tại sao họ lại xúc tiến ngay được các dự án này, mặc dù trong các cuộc tiếp xúc với doanh nghiệp trong nước, tôi được biết là xin giấy phép cho các ngành có xu hướng gây ô nhiễm trầm trọng cho môi trường thế này tại các địa phương là rất khó khăn.
Như vậy có thể tạm thời kết luận rằng cuộc chơi TPP vẫn là cuộc chơi dành phần nhiều cho các doanh nghiệp nước ngoài, xét về mặt đầu tư nắm bắt cơ hội.
- Theo Ông, bối cảnh Biển Đông hiện nay có tác động đến sự chuẩn bị của Việt Nam cho TPP hay không?
- Tôi cho rằng xung đột ở Biển Đông không ảnh hưởng đáng kể đến tiến trình đàm phán TPP. Nếu nói về mối lo giữa một số thành viên đàm phán TPP với Trung Quốc thì không phải chỉ bây giờ mới có mối lo này. Ví dụ giữa Nhật với Trung Quốc vẫn đã và đang có tranh chấp chủ quyền đảo, còn Mỹ thì tuy có quan ngại với Trung Quốc nhưng vẫn cứ phải chấp nhận thực tế Trung Quốc là một bạn hàng thương mại và đầu tư quan trọng. Nói cách khác, yếu tố Trung Quốc không có mấy ảnh hưởng trong việc đàm phán TPP, nhất là so với những yêu cầu bảo hộ và nhượng bộ thị trường từ các thành viên đàm phán TPP.
- Xin cám ơn Ông!
Hồng Loan thực hiện

Thursday 5 June 2014

Bình luận chút về tỷ giá

Mấy tuần này không thấy có mấy các đồng chí mạnh miệng nói về cái sự ổn định của tỷ giá lên tiếng nên tớ ngứa chân ngứa tay quá. Nhân có bài trên Thanh Niên nói về tỷ giá sáng nay, tớ đành lôi ra phang tạm vậy.

Tác giả rất ấm ức cho rằng tỷ giá tăng lên mạnh mà chẳng vì can cớ gì. Nhưng chính tác giả sau đó đã tự vô thức giải thích ấm ức của mình mà không hề hay biết.

Cụ thể, trong bài, yếu tố căng thẳng Biển Đông được nêu ra để "vạch mặt" cái tệ rỉ tai nhau đầu cơ. Vậy thì can cớ chính là đây chứ còn đâu nữa? Cái can cớ này phủ nhận hoàn toàn sự tồn tại của những yếu tố tích cực với tỷ giá mà tác giả nêu ban đầu, nào là xuất siêu, nào là dự trữ ngoại hối tăng kỷ lục, trong khi cầu khá bình lặng (chưa đến mùa thanh toán hợp đồng xuất nhập khẩu).

Bởi chính vì cái can cớ Biển Đông và "nạn" đầu cơ nên bên có ngoại tệ bán thì không muốn bán (giữ cái đã) hoặc có bán thì phải bán với giá cao, vì nghĩ rằng không bán được cao hôm nay thì cữ giữ lấy vì giá ngày mai còn cao hơn. Còn bên (muốn) mua thì cũng phải chấp nhận mua cao, vì nghĩ rằng không mua cao hôm nay thì ngày mai còn phải mua cao hơn nữa.

Và cũng phải phang đồng chí tác giả này một phát ở cái suy nghĩ nông cạn rằng cầu chỉ đến từ các giao dịch/cầu thực (ví dụ cho xuất nhập khẩu). Cầu còn đến từ chính nhu cầu mua ngoại tệ để đầu cơ, mà nhiều người tiện mồm gọi là "cầu ảo".

Tác giả cũng cho rằng vấn đề ở Biển Đông không phải chuyện một sớm một chiều có thể giải quyết. Nếu vậy thì kết luận này của tác giả càng ủng hộ cho nhận định của giới đầu cơ về sức ép lên tỷ giá có tính dài hạn hơn khi những rủi ro liên quan đến VN, tức đến nền kinh tế VN, tức đến đồng tiền VN, là có tính dài hạn hơn, chứ không phải chỉ tồn tại trong một sớm một chiều để mà nói tỷ giá tăng chẳng vì can cớ gì. Do đó, việc đầu cơ USD, và (dẫn đến) việc tỷ giá tăng là điều logic đấy chứ, sao lại phủ định đi? Chưa kể, tỷ giá vốn đã sẵn chịu áp lực từ lâu rồi, và Biển Đông bây giờ lại đổ thêm cả một biển nước vào nữa thì tỷ giá không tăng lên mới là lạ.

Tất nhiên, khi NHNN can thiệp thì tỷ giá sẽ ổn định trở lại thôi, nhưng đó là do có sự can thiệp, chứ chẳng phải vì tự thân thị trường ngu ngốc, vô lý gì cả.

Tất nhiên, vận dụng lòng yêu nước để đạt mục đích nào đó là điều cũng có lý thôi, nhưng lòng yêu nước không nên/thể bị lạm dụng quá, và lòng yêu nước không phải khi nào cũng thắng được thị trường.

Nghĩ đơn giản thế thôi cho nó... sáng suốt nhé!

Wednesday 4 June 2014

Cẩn trọng trong “thoát Trung” (Bài đăng trên TBKTSG, 6/6/2014, bản gốc)


 
Việc Trung Quốc cắm dàn khoan Hải Dương 981 trong lãnh hải của Việt Nam đã châm ngòi cho một làn sóng bài Trung. Xa hơn nữa, một chương trình “thoát Trung” (ít nhất là về mặt kinh tế) đang được rục rịch bàn thảo và chuẩn bị.

Ngoài yếu tố chính trị và dân tộc chủ nghĩa, “thoát Trung” được đưa ra trong bối cảnh khi Việt Nam nhập siêu kinh niên với Trung Quốc ở quy mô ngày càng lớn, lên đến trên 20 tỷ đô la năm ngoái. Điều đáng nói hơn là hàng hóa Trung Quốc nhập vào Việt Nam có chất lượng trung bình và thấp, nhiều mặt hàng độc hại cho sức khỏe và môi trường. Công nghệ và máy móc của Trung Quốc cũng vậy, đa phần ở tầm “thường thường bậc trung” trở xuống, tiêu hao năng lượng lớn và ô nhiễm môi trường. Ưu điểm của hàng hóa và công nghệ Trung Quốc thường là giá rẻ và đa dạng, hầu như kiểu gì cũng có, cũng có thể đáp ứng được.
Quan trọng hơn, Việt Nam phụ thuộc nặng nề vào nguyên vật liệu, công nghệ và máy móc của Trung Quốc khi mà chúng chiếm tỷ trọng lớn, mang tính chi phối trong các yếu tố đầu vào cho các hoạt động sản xuất và chế biến tại Việt Nam.

Trong bối cảnh ngày càng gia tăng phụ thuộc vào hàng hóa, nguyên vật liệu, thiết bị, và công nghệ với chất lượng của Trung Quốc, nhiều người cho rằng nếu không nhanh chóng “thoát Trung” thì sẽ có ngày Trung Quốc sử dụng thương mại và đầu tư từ Trung Quốc làm công cụ khống chế Việt Nam. Và nếu không “thoát Trung” sớm thì con người và môi trường Việt Nam sẽ bị hủy hoại bởi hàng hóa của Trung Quốc. Ngoài ra, có “thoát Trung” thì người ta cho rằng Việt Nam mới có cơ hội tiếp cận được với công nghệ và thiết bị tiên tiến trên thế giới...
Trước xu thế “thoát Trung” này, điều rất cần là một sự tỉnh táo phân tích tình hình, tránh chạy từ thái cực nọ sang thái cực kia một cách cực đoan, cảm tính.

Điều đầu tiên cần nhìn nhận rõ là Trung Quốc xấu chơi nhưng không có nghĩa là cần phải chấm dứt hoặc thu hẹp nhất có thể quan hệ thương mại và đầu tư với Trung Quốc. Ví dụ, với Nhật, đương nhiên Trung Quốc cũng chẳng tử tế gì hơn, nhưng thực tế là Nhật vẫn cứ phải duy trì mối quan hệ thương mại và đầu tư với Trung Quốc ở mức thậm chí rất lớn. Theo số liệu của JETRO, nhập khẩu của Nhật từ Trung Quốc đã đạt 189 tỷ đô la, và xuất khẩu đạt 145 tỷ đô la năm 2012 (Nhật nhập siêu 44 tỷ đô la từ Trung Quốc). Trung Quốc là bạn hàng thương mại lớn nhất của Nhật, chiếm tới 19,7% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Nhật năm 2012, tuy có giảm nhẹ từ mức 20,6% năm 2011 (và năm 2012 là năm duy nhất có tỷ lệ này thấp hơn 20% kể từ năm 2008).

Nhìn vào những con số trên, có thể thấy một nền kinh tế dựa trên nền tảng công nghệ và kỹ thuật cao như Nhật mà vẫn phải phụ thuộc rất lớn vào nguồn cung từ Trung Quốc. Điều này đủ để nhận ra rằng tự thân trình độ và chất lượng “thường thường bậc trung” hoặc thấp của hàng hóa Trung Quốc không phải là cái cớ để “nghỉ chơi” với Trung Quốc.

Nếu có làm một phân tích tương tự như vậy giữa Mỹ và Trung Quốc cũng thấy Trung Quốc là một trong những bạn hàng và thị trường đầu tư quan trọng nhất của Mỹ. Bởi vậy, tuy Mỹ có ngày càng khó chịu với Trung Quốc về mặt nào đó (và ngược lại) thì ít nhất về mặt kinh tế cả hai quốc gia vẫn (biết rằng) phải gắn bó với nhau, phụ thuộc lẫn nhau dài dài.

Điều cần nhìn nhận thứ hai là trừ khi có xung đột quân sự ở quy mô lớn đương nhiên làm đóng băng mọi quan hệ giao thương giữa hai nước, Trung Quốc không dại gì mà tự bắn vào chân mình khi tìm cách dùng các quan hệ thương mại và kinh tế với Việt Nam để kiềm tỏa Việt Nam, ví dụ bằng cách hạn chế xuất khẩu các nguyên vật liệu đầu vào cho các ngành gia công, chế tạo tại Việt Nam.

Không nói làm gì đến những tư cách thành viên của các hiệp định đa phương (WTO, ASEAN+Trung Quốc) vốn không cho phép các thành viên muốn làm gì thì làm, Trung Quốc chắc chắn sẽ luôn phải nghĩ hai lần trước khi có ý định làm tổn hại đến dòng chảy thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Trung Quốc, đơn giản vì con số vài chục tỷ đô la kim ngạch thương mại giữa hai nước, chưa kể đến hàng trăm dự án đầu tư của Trung Quốc ở Việt Nam, hoàn toàn không phải là con số vô nghĩa để có thể dễ dàng bỏ qua. Ngược lại, quy mô đủ lớn của quan hệ kinh tế song phương này lại làm cho mọi mưu đồ dùng kinh tế để kiềm tỏa đối phương không dễ mà thực hiện được, đơn giản vì các chủ thể kinh tế ở 2 nước sẽ tìm ra được con đường đi thích hợp để gặp được nhau, hoặc gây áp lực lên thế lực cầm quyền.

Điều cần nhìn nhận thứ ba, chính người Việt Nam là nguyên nhân chính làm cho hàng hóa, thiết bị và công nghệ chất lượng thấp, độc hại của Trung Quốc lọt vào và khuynh đảo thị trường Việt Nam như hiện nay. Trong thế giới phẳng này, rõ ràng nhà cung cấp Trung Quốc không thể ép buộc nhà nhập khẩu Việt Nam phải nhập hàng Trung Quốc, nếu nhà nhập khẩu Việt Nam không muốn thế. Ở đây hầu như chẳng có chuyện ai lừa/ép được ai cả, mà là trên cơ sở tự nguyện.
Mức thu nhập thấp của đại bộ phận người Việt Nam là một nguyên nhân để cho hàng hóa giá rẻ (đương nhiên chất lượng thấp, độc hại) tràn vào Việt Nam, đáp ứng được những người có túi tiền eo hẹp.

Trình độ và quy mô sản xuất của Việt Nam ở dạng thấp của thế giới, kèm với hạn chế về vốn và marketing, thì thiết bị và công nghệ của Trung Quốc là phù hợp do có giá rẻ, chi phí bảo dưỡng và phụ tùng thấp, dễ tiếp cận, giá thành thấp, dễ cạnh tranh được về giá...
Bản thân các bất cập về pháp luật cũng như những yếu tố chính trị lại tạo điều kiện để cho công nghệ và thiết bị, cũng như nhà thầu Trung Quốc chi phối nhiều lĩnh vực ở Việt Nam. Ví dụ, quy định về đấu thầu thường làm cho các nhà thầu (Trung Quốc) thắng thầu nhờ bỏ thầu giá rẻ nhất. 

Ngoài ra, cũng có nghi ngờ về sự tiếp tay của một bộ phận quan chức với các doanh nghiệp Trung Quốc do các doanh nghiệp Trung Quốc không ngần ngại “đi đêm” để giành lấy việc làm ăn. Các dự án ODA của Trung Quốc, hay sự thỏa thuận giữa hai Chính phủ tập trung trong một số lĩnh vực cũng là một lý do để sự hiện diện của (các yếu tố) Trung Quốc nhiều hơn mức bình thường trong những lĩnh vực này.

Quan trọng không kém là đặc tính của nền kinh tế Việt Nam, vốn có ngành công nghiệp chế tạo mang tính gia công lớn, hầu như chỉ có sức lao động trong công đoạn lắp ráp, chế biến là phần giá trị thặng dư được tạo ra trên lãnh thổ Việt Nam, với nguyên vật liệu và đầu vào, đầu ra được khống chế bởi các doanh nghiệp nước ngoài. Mà nhà đầu tư nước ngoài luôn tính toán bài toán chi phí và lợi nhuận, nên luôn tìm các nguồn cung với chi phí hạ nhất, tất nhiên phần lớn là từ Trung Quốc. Bởi vậy, nếu tìm cách “chặt” con đường thương mại bình thường này thì sẽ có nhiều nhà đầu tư phải tính lại bài toán chi phí và lợi nhuận trong việc đầu tư vào Việt Nam. Điều này cũng có thể có nghĩa là cùng với việc “thoát Trung”, Việt Nam sẽ không còn trong danh sách đầu tư của nhiều nhà đầu tư nước ngoài nữa trong cả ngắn và dài hạn (ít nhất hàng thập kỷ nữa).

Tóm lại, cần phải xác định rằng Việt Nam không hoàn toàn là “nạn nhân” về kinh tế của hoặc dưới bàn tay Trung Quốc. Có những yếu tố chủ quan và khách quan để dẫn đến tình trạng “lệ thuộc” (về kinh tế) vào Trung Quốc như hiện nay. Bởi vậy, việc “thoát Trung” trên cơ sở cực đoan, thành kiến sẽ chẳng mang lại mấy lợi ích, dù là trong dài hạn.

Điều quan trọng là phải biết “sống chung với lũ”, tìm cách khắc phục các mặt hại nảy sinh từ sự “lệ thuộc” này, ví dụ như phải xiết hàng rào về chất lượng hàng nhập khẩu, tăng kỷ cương pháp luật để hạn chế sự lũng đoạn của (doanh nghiệp) Trung Quốc trong những lĩnh vực đã nêu trên, tiếp tục tích cực hòa nhập với khu vực và thế giới qua các hiệp định tự do thương mại song phương và đa phương để đa dạng hóa thị trường, nguồn cung, nguồn đầu tư, qua đó biến cả Việt Nam và Trung Quốc thành những thực thể kinh tế ngày càng phụ thuộc vào nhau và với các quốc gia khác trong một chuỗi mắt xích của phân công lao động toàn cầu không thể tách rời ra và/hoặc “ăn hiếp” nhau được.

Sunday 1 June 2014

Thêm đồng chí Vịnh củng cố nhận định của tớ về chiến lược vừa đấm vừa xoa của Việt Nam

Đồng chí Vịnh phát biểu rõ ràng trong bài này về sự dám chơi tới bến với TQ, khác với phát biểu của đồng chí Thanh ở Shangri-La nên tớ càng tin rằng đồng chí Thanh được các đồng chí to lựa chon để xoa TQ, còn các đồng chí khác thì tiếp tục dơ nắm đấm (dọa) TQ.

Bởi vậy, các đồng chí dư luận có phang đồng chí Thanh thì cũng phải phang vừa vừa thôi, đặc biệt phải tỉnh táo khôn ngoan (như tớ lúc ăn no ấy), đừng có cảm tính quá.

Nhân tiện, cám ơn đồng chí chaubochinh đã gửi link về hành động của đồng chí Thanh ở entry trước.

Tớ đã nói rồi mà - về vụ đập phá các doanh nghiệp nước ngoài

Trong entry trước tớ đã khuyên các đồng chí chính quyền lẽ ra (và nếu có được làm lại) thì lặn một hơi đi, đừng có ngoi lên nhận trách nhiệm bồi thường cho các doanh nghiệp bị hại, mà hãy để trách nhiệm này cho tòa án, công ty bảo hiểm và các doanh nghiệp làm việc với nhau.

Nay đọc bài này tớ thấy là nhiều công ty có mua bảo hiểm rủi ro (tớ nhấn mạnh là đáng đời các công ty không mua bảo hiểm), như vậy thì cứ thế mà làm, các đồng chí chính quyền đừng có thò mặt ra nữa. Nếu có thò ra thì ở dưới dạng, chẳng hạn, dàn xếp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bị thiệt hại làm việc với bảo hiểm, trấn an nhà đầu tư rằng trật tự đã được vãn hồi, và, quan trọng hơn, truy tố những thằng tổ chức biểu tình (và đập phá) chứ không phải là chỉ truy tố những thằng đi hôi của, a dua.

Việc nào ra việc đó. Đừng có mà lẫn lộn giữa làm từ thiện với chức năng hoạt động của mình.

Việt Nam đang vừa đấm vừa xoa các đồng chí Trung Quốc?

Trước bài phát biểu của đồng chí Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam, đa phần ý kiến dư luận là phê phán là mềm yếu, hèn, thối v.v... Tớ thoạt đầu cũng chung cảm giác này với các đồng chí dư luận và điên không kém với đồng chí Thanh. 

Nhưng sau khi ăn no, nằm ườn ra nghỉ, tự nhiên đầu óc tớ sáng suốt đột xuất và lạ lùng, nảy ra ý nghĩa, phải chăng Việt nam đang chơi trò tung hứng, vừa đấm vừa xoa làm các đồng chí Trung Quốc thân yêu không biết đâu mà lần?

Này nhé, rõ ràng đồng chí Thanh không thể tự tiện mà phát biểu lung tung. Và đồng chí cũng không phát biểu vo, mà bằng cách đọc từ một tờ giấy viết sẵn thì phải (tớ hoàn toàn không biết đến các chi tiết này, nhưng đoán là vậy, căn cứ vào truyền thống đọc có từ lâu đời của các quan chức và lãnh tụ Việt Nam). Vậy thì phải loại trừ khả năng đồng chí này vì lo sợ các đồng chí TQ mà bị líu lưỡi, hoảng loạn tinh thần đến nỗi lỡ lời, phát biểu "ngoài khuôn khổ" cho phép từ phía các đồng chí to hơn ở VN.

Đến đây sẽ có đồng chí vặn vẹo rằng thế nhỡ các đồng chí to hơn ở VN cũng nghĩ như đồng chí Thanh thì sao. Có, tớ không phủ nhận khả năng này. Nhưng thế thì tại sao các đồng chí như 3D, bộ trưởng ngoại giao, đại sứ v.v... lại phát biểu rõ ràng và cứng rắn phê phán TQ như vậy? Thế thì rõ ràng các đồng chí to hơn đồng chí Thanh không nhất thiết nghĩ/tin những gì như đồng chí Thanh phát biểu.

Lại sẽ có đồng chí thân mến vặn vẹo rằng nhỡ khi các đồng chí to hơn đồng chí Thanh lại chia thành 2 phe nhóm, một nhóm sợ TQ đến són cả chất thải sau khi ăn, một nhóm thì đếch sợ TQ (lắm, vì, ví dụ, có visa đi, và có nhà ở Mỹ), và đồng chí Thanh đại diện cho nhóm đầu thì sao? Có, tớ cũng không phủ nhận khả năng này. Nhưng nếu thế thì nhóm đầu rõ ràng bị lép vế so với nhóm thứ hai, vì đồng chí Thanh không thể nặng ký bằng đồng chí 3D được, nên nếu nhóm đầu để cho đồng chí Thanh làm đại diện bật tín hiệu cho các đồng chí TQ thân yêu thì tín hiệu này sẽ bị lu mờ bởi sự cứng rắn với TQ của phe thứ hai, đứng đầu là đồng chí 3D, và kết cục là các đồng chí TQ vẫn cứ bị phiền lòng nhiều hơn là an lòng trong cuộc chơi với các đồng chí VN.

Và tớ nghĩ rằng phe thứ nhất dù có muốn liếm gót các đồng chí TQ thân yêu đến mấy thì cũng không đến nỗi ngu ngốc và nóng vội đến mức thông qua bài phát biểu của đồng chí Thanh để làm việc đó (một cách quá lộ liễu như vậy). Bởi vậy, rốt cuộc tớ kết luận rằng có lẽ các đồng chí to dù có chiến nhau trong nội bộ như thế nào chăng nữa nhưng đã đi đến một chiến lược thống nhất đối với các đồng chí TQ thân yêu là vừa đấm vừa xoa, tất nhiên là đấm vẫn mạnh hơn xoa (một chút), để làm cho các đồng chí TQ, chẳng hạn, có điên thì cũng không điên quá mức (để còn chỗ thoát hẹp cho cả 2 bên).

Có phải thế không?

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).