Tuesday 29 July 2014

Tớ lên báo Tây

Vừa nói chuyện Tây, Ta ở mục comment của entry "Phá giá không gây bất ổn vĩ mô" xong thì tớ nhận được email của đồng chí Nguyễn Khắc Giang, một cộng tác viên của tạp chí Focus Asean, thông báo bài của đồng chí ấy có trích dẫn lời của tớ đã được xuất bản trên tạp chí này, ở link sau. 

http://focus-asean.com/vietnam-non-performing-loans-focus-asean/

Tuy không phải là lần đầu được lên báo Tây, nhưng đọc xong bài này tớ vẫn tự thấy quả là mình lên "level" hẳn, chứ không lôi thôi như so với khi xuất hiện trên báo ta, mặc dù tớ cũng không dám chắc những trích dẫn trong bài là lời của tớ (vì tớ thấy nó sang quá, không hợp với tạng của tớ, hehe!) 

7 comments:

  1. Anh Ngọc phát biểu hay lắm, nhưng theo anh thì NHNN / VAMC cần làm gì để giải quyết vấn đề nợ xấu?

    ReplyDelete
    Replies
    1. Thú thật là tớ cũng tẩu hỏa nhập ma rồi. Câu hỏi ngắn gọn của đồng chí sẽ tốn khá nhiều thời gian và chất xám của tớ đấy. Nhưng may là tớ viết khá nhiều về vấn đề nợ xấu và VAMC, cả NHNN nữa. Đồng chí chịu khó lục tìm lại trong blog này các bài đó giúp tớ nhé. Blog chỉ lưu các bài từ 2011, còn trước đó có lẽ đồng chí phải google với tên của tớ xem.

      Delete
    2. Mình thấy nhiều ý kiến phê phán, nhưng giải pháp thì không thấy. Nợ xấu là chuyện đã rồi (lỡ rồi), nên đừng bàn nguyên nhân hay giải pháp ngăn chặn nợ xấu nữa, mà hãy bàn giải pháp tháo gỡ cục nợ này như thế nào. Nếu anh Ngọc có cao kiến gì thì chia sẻ ngắn gọn thôi cũng được (vài ý chính).

      Delete
    3. Giải pháp tháo gỡ thì tớ cũng nói rồi đấy chứ có phải không đâu?

      Nói vắn tắt thì vấn đề nằm ở chuyện tiền đâu ra để giải quyết nợ xấu.

      Không xét đến hậu quả của việc và nguồn huy động tiền (chẳng hạn lạm phát), tiền có thể đến từ bản thân chủ (và lợi nhuận của) ngân hàng (cần phải coi là nguồn chính). Tiền đến từ các công ty xử lý nợ xấu của ngân hàng (do thanh lý tài sản cầm cố). Tiền từ VAMC với hình thức VAMC phát hành cổ phiếu huy động vốn mua nợ xấu từ ngân hàng. Tiền từ NHNN, từ ngân sách (it nhất là phải chịu trách nhiệm cho những khoản vay theo chỉ đạo và bị mất mát, chẳng hạn cho Vinashin). Tiền từ đi vay nước ngoài (it thôi).

      Tất cả những nguồn/giải pháp trên đều không có gì mới, vì đã được nhiều nước thực hiện. Không cần và không nên có một "giải pháp sáng tạo", "đột phá" riêng như kiểu VAMC hiện tại của VN (tớ rất ngán các giải pháp "đột phá", "sáng tạo" ở VN).

      Lý do cho việc ra đời VAMC như ở VN là hành động "sáng tạo" định tay không bắt giặc, mua thời gian. Nhưng như tớ đã phang một số lần, kiểu này không thể trông mong gì nhiều. Trên hết, cũng như tớ đã nói, giải quyết nợ xấu là cả một quá trình dài, thậm chí hàng chục năm, nên cũng chẳng trông mong có một giải pháp "đột phá", "sáng tạo" gì có thể giải quyết nợ xấu chỉ trong vòng 2, 3 năm (trừ giải pháp bẻ cong số liệu, hạ thấp tiêu chuẩn phân loại).

      Delete
    4. Tôi không đồng ý với những ý kiến trên của bác và ko xem đó là những giải pháp căn cơ. Bác toàn lo chuyện kiếm tiền để bù đắp nợ xấu, trong khi vấn đề chính là phải giúp con nợ có khả năng trả nợ (tức giúp các doanh nghiệp gặp khó khăn phục hồi để trả nợ). Ví dụ có ai mượn tiền bác mà mất khả năng thanh toán, nếu bác đi tìm nguồn tiền khác để bù lỗ thì nói làm gì. Làm thế nào để giúp người ta trả nợ mới là quan trọng. Tôi thấy mọi người cứ lao vào giải pháp kiếm tiền để bù nợ xấu là không ổn (đó chỉ là một phần thôi). Quan trọng nhất là tạo cơ chế, tạo điều kiện va tìm cách hỗ trợ để con nợ hồi phục và trả được nợ.

      Delete
    5. Thì đồng chí hỏi tớ giải pháp tháo gỡ cục nợ này mà. Còn về chuyện giúp doanh nghiệp gặp khó khăn phục hồi để trả nợ, tớ cũng đề cập gián tiếp đến rồi đấy, cụ thể là hạ thấp tiêu chuẩn phân loại để ngân hàng tiếp tục cho vay (cả nền kinh tế và doanh nghiệp có vấn đề để tình hình, hy vọng là, sẽ tốt hơn, tỷ trọng NPL sẽ giảm đi, còn khách hàng sẽ có tiền để trả nợ), để ngân hàng không thúc ép, phạt lãi khách hàng có vấn đề (không dồn họ vào chỗ phá sản...). Đây là một giải pháp chính đã và đang làm. Nhưng vấn đề là có nên làm thế không?

      Delete
    6. Bác nói thế thì được! Chứ như comment trên thì không ổn.

      Delete

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).