Saturday 30 August 2014

Nên cổ phần hóa cả bệnh viện công! (Bài đăng trên Cafef, 31/8)

http://cafef.vn/kinh-te-vi-mo-dau-tu/nen-co-phan-hoa-ca-benh-vien-cong-2014083110050198313ca33.chn

Hiện nay Chính phủ mới có chủ trương cổ phần hóa các bệnh viện ngành chứ chưa có chủ trương cổ phần hóa kể các bệnh viện công. Lý do chủ yếu là vấp phải phản ứng dữ dội của dư luận vì lo ngại quyền lợi của người dân, nhất là người có thu nhập thấp, trong việc khám chữa bệnh sẽ bị ảnh hưởng nặng nề. Người ta cho rằng bệnh viện công vẫn cần được giữ nguyên là bệnh viện công để nhà nước thể hiện được vai trò của mình trong việc điều tiết các lợi ích xã hội mà toàn dân được hưởng.

Lo ngại trên là có cơ sở, vì cổ phần hóa bệnh viện công về bản chất chính là tư nhân hóa các bệnh viện này, cho dù Nhà nước vẫn có thể là cổ đông lớn nhất và chi phối. Nhưng vấn đề đặt ra ở đây là sau khi đã cổ phần hóa, liệu các bệnh viện này có bị “thúc”, hoặc có nên chạy theo xu hướng thương mại hóa các hoạt động khám chữa bệnh của mình hay không?
 
Câu trả lời rõ ràng là “có”, và cần phải như vậy. Nói cách khác, xã hội hóa (ngành y tế) thông qua cổ phần hóa là điều rất nên làm. Đây chắc chắn là một khuyến cáo gây sốc cho rất nhiều người vì xu hướng chung là phản đối cổ phần hóa.
 
Có lẽ, xã hội hóa ngành y tế, đồng thời vẫn đảm bảo công bằng trong khám chữa bệnh cho mọi người, dù là giàu hay nghèo, cho đến nay vẫn thường chỉ được hiểu và thực hiện theo cách thức: Nhà nước giảm chi tiêu cho ngành này, thay vào đó là áp dụng chế độ thu viện phí với người có thu nhập cao, hoặc áp dụng chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc (và tự nguyện), trong đó người có thu nhập cao thì phải đóng bảo hiểm nhiều hơn là người có thu nhập thấp, để lấy kinh phí đó bổ sung cho các bệnh viện hoạt động (theo kiểu “lấy người khỏe nuôi người yếu, lấy bệnh nhân nuôi bệnh nhân”). Tất nhiên, phương hướng này về bản chất là rất tốt, và luôn cần phải thực hiện trên diện rộng toàn xã hội.

Thế nhưng, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, phương hướng này không đem lại kết quả như ý muốn, khi mà các bệnh viện thì tiếp tục xuống cấp và luôn luôn quá tải, tinh thần và thái độ phục vụ cũng như y đức của các bác sĩ và y tá xấu đi, Nhà nước vẫn buộc phải rót thêm kinh phí để hỗ trợ cho hệ thống y tế công cộng v.v... Tình trạng bất bình đẳng không được giải quyết, khi mà quy định về tuyến khám bệnh vẫn được áp dụng cho những bệnh nhân có thẻ bảo hiểm (nên bệnh nhân dù có muốn vào một bệnh viện công tốt nào đó, như Bình Dân, sẽ không vào được nếu họ là bệnh nhân “trái tuyến”). Thậm chí nhiều bệnh nhân không dám chìa bảo hiểm ra để được khám chữa với giá rẻ, đành phải chi tiền để “chạy thầy”, vì bảo hiểm y tế bị xem thường trong nhiều bệnh viện công v.v...

Bổ khuyết cho phương hướng xã hội hóa kiểu này là hình thức cổ phần hóa. Một bệnh viện được cổ phần hóa theo đúng thực chất của nó sẽ có một ban giám đốc điều hành bệnh viện nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận trên số vốn đóng góp của cổ đông, bất kể đó là Nhà nước hay tư nhân. Với nguyên tắc hoạt động như vậy, chắc chắn người không có hoặc ít tiền sẽ không thể tự mình vào đây chữa chạy. Đổi lại, bệnh viện sẽ hoạt động theo hướng hết sức nâng cao chất lượng phục vụ bệnh nhân theo đúng nghĩa để làm họ hài lòng, từ đó tăng mức lợi nhuận cho bệnh viện. Điều này là hết sức bình thường và đúng đắn. Điều bức xúc duy nhất chỉ là: Hóa ra người nghèo đang từ chỗ được, nay không được bước chân vào những bệnh viện này nữa!

Bức xúc này tuy chính đáng nhưng đặt không đúng chỗ! Thứ nhất, cho dù không cổ phần hóa thì không phải ai cũng được vào đây chạy chữa (nếu như không có tiền, hoặc không có bảo hiểm, hoặc trái tuyến).

Thứ hai, chính sách xã hội áp dụng cho bệnh nhân nghèo (ví dụ miễn giảm viện phí) không phải là trách nhiệm của bệnh viện, kể cả trước khi cổ phần hóa. Đấy là trách nhiệm của Nhà nước và các tổ chức xã hội phi Chính phủ, còn bệnh viện chỉ là nơi thực hiện chính sách đó. Nếu muốn cho người nghèo được vào khám chữa ở các bệnh viện này thì nguồn tài chính cần phải đến từ bên ngoài bệnh viện, như từ quỹ bảo hiểm y tế, từ các chương trình hỗ trợ người nghèo, hay từ các quỹ từ thiện v.v... Nếu không cổ phần hóa thì Nhà nước sẽ vẫn phải tiếp tục phải bù lỗ cho hoạt động xã hội này của bệnh viện, và tức là chẳng có gì thay đổi.

Thứ ba, với nguyên tắc thị trường, hoạt động “kinh doanh khám chữa bệnh” của các bệnh viện chắc chắn sẽ rất phát đạt, xét trong bối cảnh nhu cầu khám chữa bệnh (đặc biệt các dịch vụ khám chữa chất lượng cao, mà chỉ có thể có được ở những bệnh viện có đầu tư lớn về nhân lực và cơ sở vật chất) ngày càng tăng, trong khi cơ sở hạ tầng của ngành không theo kịp. Với mức lợi nhuận lớn phải trả cho cổ đông là Nhà nước, Nhà nước sẽ có thêm một nguồn kinh phí không nhỏ để điều tiết cho các nơi khác, mục đích xã hội khác, trong khi không phải lo lắng đến việc bỏ vốn để nâng cấp các bệnh viện (nhằm thu hút bệnh nhân khá giả).

Ở nước ngoài, như Nhật, có lẽ không còn khái niệm bệnh viện công hay tư nữa, mà chỉ còn khái niệm bệnh viện nào tốt hay tồi, phù hợp hay không. Mọi bệnh nhân, nếu có thẻ bảo hiểm y tế, đều có thể đến chữa chạy mọi cơ sở y tế họ thấy thích hợp. Phần lớn kinh phí chữa chạy cho bệnh nhân (khoảng 70-75%) được thanh toán với hệ thống bảo hiểm y tế bắt buộc (theo biểu quy định thống nhất). Tất nhiên, có riêng những chính sách xã hội được áp dụng để hầu như ai cũng có thể có thẻ bảo hiểm, và những ai không đủ khả năng chi trả phần chi phí còn lại có thể xin trợ cấp.

Như vậy, thay vì chỉ trích cổ phần hóa bệnh viện, cần phải chỉ trích tại sao hệ thống bảo hiểm y tế đã có mà không phát huy tác dụng trong việc nâng cấp chất lượng khám chữa bệnh, hay giảm những tiêu cực, bức xúc trong ngành y tế, làm cho xã hội hóa theo phương hướng này còn quá nhiều bất cập. Trong bối cảnh này, việc có thêm một hệ thống bệnh viện cổ phần hóa sẽ góp phần làm tốt hơn chất lượng khám chữa bệnh, cho dù chỉ là đối với những người có tiền, và là một điều tốt hơn là không có!

Friday 29 August 2014

Không hiểu cái khái niệm "yếu" của các đồng chí này là cái gì

Đồng chí Nguyễn Văn Nên (tương tự như nhiều đồng chí khác, như kiểu Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia) một mặt thì cho biết thế này:
“Dựa trên tình hình kinh tế 8 tháng và dự báo thực hiện cả năm, trong 14 chỉ tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra cho năm 2014, dự kiến có 12 chỉ tiêu đạt và vượt, trong đó tăng trưởng GDP đạt 5,8%, chỉ số giá tiêu dùng khoảng 5%...”.
 
Nhưng mặt khác, đồng chí Nên cho rằng, "tín hiệu đáng mừng là đến nay nền kinh tế trên đà phục hồi khá rõ nét, khi cả 3 khu vực là công nghiệp chế biến, nông nghiệp và dịch vụ đang tăng trưởng đều. Tuy nhiên, tổng cầu của nền kinh tế vẫn yếu, tăng trưởng tín dụng vẫn chậm, tuy đã triển khai nhiều biện pháp chỉ đạo quyết liệt…"
 
Tớ nói đi nói lại rồi, rằng tớ chịu các đồng chí. GDP luôn tăng quý sau cao hơn quý trước, năm sau cao hơn năm trước, và nay dự tính đạt đến 5,8% (các đồng chí thử kể ra xem được mấy nước hiện nay đạt tốc độ tăng trưởng thế này?) mà còn vẫn than vãn rằng "tổng cầu vẫn yếu". Hay các đồng chí coi tổng cầu chẳng liên quan gì đến GDP, nên tuy GDP có tăng khá nhưng tổng cầu thì không tăng?
 
Rồi nữa, "tăng trưởng tín dụng vẫn chậm" mà GDP dự kiến tăng trưởng đến 5,8% thì tự khắc sẽ phải hỏi lại ngay bản thân mình trước khi phát biểu, rằng thế thì việc gì phải "thúc" tăng trưởng tín dụng mạnh thềm làm gì nữa, vì hóa ra tăng trưởng tín dụng chẳng có tác dụng gì mấy đến tăng trưởng GDP! (nhớ lại xem mấy năm trước tăng trưởng tín dụng leo lên đến bao điểm phần trăm để đổi lại lấy tăng trưởng GDP khá lắm thì cũng 7-8%?).
 
Thật bó tay với các đồng chí.
 
 

Có nên phát hành trái phiếu quốc tế? (Bài đăng trên Cafef, 29/8)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/co-nen-phat-hanh-trai-phieu-quoc-te-201408291444141234ca34.chn

Trong phiên họp thường kỳ mới đây (ngày 27-28/8), Chính phủ cho biết ý định phát hành trái phiếu quốc tế khoảng 1 tỷ USD như là một khoản vay để đảo nợ cho một khoản tương tự trước đây với lãi suất cao hơn.

Dường như Chính phủ đã chọn đúng thời điểm để xem xét việc đảo nợ như thế này, trong bối cảnh lãi suất vay nợ trên thế giới có xu hướng giảm đi do ngân hàng trung ương các nước đã và đang nới lỏng tiền tệ để kích thích phục hồi và tăng trưởng kinh tế, và đặc biệt là mức tín nhiệm quốc gia của Việt Nam mới được Moody's nâng lên một bậc từ B1 lên B2, là một yếu tố tích cực cho lợi suất trái phiếu của Việt Nam.

Tuy nhiên, cũng đợt phát hành 1 tỷ USD trái phiếu trước đây, đã có nhiều ý kiến phản đối, không chỉ liên quan đến mục đích phát hành trái phiếu là để dành riêng cho các dự án nhà máy lọc dầu, thủy điện, và mua tàu thủy v.v... mà còn liên quan đến việc tại sao lại phải phát hành trái phiếu ra quốc tế trong khi dự trữ ngoại hối dồi dào, hoặc tại sao lại không phát hành trái phiếu ngoại tệ trong nước vì có nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước có sẵn ngoại tệ để mua trái phiếu này...?

Trong bối cảnh của đợt phát hành dự định mới này, rất có thể những luồng ý kiến phản đối sẽ lại xuất hiện. Vì vậy, cần phải chỉ ra những điểm bất ổn trong những luồng ý kiến như vậy.

Thứ nhất, quả thật mục đích phát hành trái phiếu trước đây là điều cần phải xem xét lại vì lượng trái phiếu này dành riêng cho các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong bối cảnh Việt Nam mới gia nhập WTO, cần phải xóa bỏ những đặc quyền, những phân biệt đối xử với các thành phần kinh tế khác, trong khi tính minh bạch, cơ chế giám sát sử dụng vốn và thành tích kinh doanh của các DNNN nhận vốn trái phiếu này có rất nhiều điểm đáng nói. Nhưng đợt phát hành trái phiếu lần này, nếu đúng như Chính phủ dự định, chỉ là để đảo nợ (với lợi suất thấp hơn) thì xem ra mục đích phát hành đợt này hợp lý hơn nhiều.

Thứ hai, mặc dù người ta cho rằng hiện tại ngoại tệ trong nước đâu có thiếu mà phải đi vay nước ngoài. Nhưng ngoại tệ trong nền kinh tế dồi dào đến mức nào, có "chịu" được một đợt phát hành lớn 1 tỷ USD mà không gây ra những tác động tiêu cực lan tỏa hay không là điều không ai biết rõ. Bởi thế, trong trường hợp chưa biết, chưa đánh giá được khả năng đáp ứng của nền kinh tế nội địa thì tốt nhất là phát hành ra nước ngoài để không gây ra những hậu quả tiêu cực, ví dụ như sự tăng vọt của lãi suất USD (và kéo theo VND) trong nước. Ngoài ra, nếu phát hành ra nước ngoài với lợi suất thấp hơn trong nước thì chẳng có lý do gì để phát hành trong nước cả, cho dù có thể lượng USD trong nước vẫn có thể đáp ứng được khối lượng phát hành này.

Thứ ba, với lập luận rằng hiện tại Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang nắm giữ một lượng dự trữ ngoại hối lớn kỷ lục (trên 30 tỷ USD) do đã tích cực mua vào USD để bảo vệ cho VND khỏi lên giá thực quá mạnh so với USD trong thời gian qua, thì câu hỏi đặt ra là tại sao vẫn phải đi vay nước ngoài làm gì? Về luồng ý kiến này, có thể đáp lại rằng dự trữ ngoại hối này là để phục vụ cho các sứ mệnh quan trọng hơn nhiều, trong đó có việc can thiệp và bình ổn tỷ giá, hoặc những cơn sốc vĩ mô, chứ không phải là để dành cho một chủ thể kinh tế nào đó vay thương mại, kể cả đó là Chính phủ. Bản thân phần lớn khoản dự trữ ngoại hối này cũng không phải là để nằm nhàn rỗi trong két sắt của NHNN hoặc trong tài khoản của các ngân hàng đại lý của NHNN, mà thường đã được đem đầu tư vào một tài sản tài chính nào đó của nước ngoài có hưởng lãi. 

Hơn nữa, điều đáng chú ý là cho dù dự trữ ngoại hối đã đạt mức kỷ lục nhưng nếu quy ra số tuần/tháng nhập khẩu thì cũng chỉ quanh quẩn con số 3 tháng nhập khẩu, là mức tối thiểu để được gọi là an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế. Nói cách khác, con số trên 30 tỷ USD dự trữ ngoại hối thực ra không phải là, không thể gọi là lớn đến mức dư thừa để có thể "vung tay quá trán".

Tóm lại, việc phát hành trái phiếu quốc tế chỉ nên được phân tích, xem xét dưới góc độ thương mại, thể hiện ở lợi suất và khối lượng so với nếu phát hành trong nước, và nếu phát hành ra nước ngoài có lợi hơn thì là điều hoàn toàn nên làm.

Thursday 28 August 2014

Xử lý nợ xấu qua VAMC – vướng ở đâu? (Bài đăng trên CafeF, 29/8, bản gốc)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/xu-ly-no-xau-qua-vamc-thuc-su-dang-vuong-o-dau-2014082908020603317ca34.chn

Mô hình xử lý nợ xấu thông qua việc thành lập VAMC đã từng được ca ngợi là một cách làm sáng tạo của Việt Nam, vì không phải dùng đến một đồng nào của ngân sách trong khi vẫn xử lý được nợ xấu một cách hợp lý vừa đảm bảo được quyền lợi của con nợ, chủ nợ, Chính phủ, và cả nền kinh tế nói chung vì có sự phối hợp chặt chẽ của VAMC với các bên liên quan.

Tuy nhiên, thực tế hoạt động một năm qua của VAMC cho thấy ý đồ thiết kế VAMC ban đâì, “tay không bắt giặc”, mà cụ thể là đổi nợ xấu lấy trái phiếu đặc biệt do VAMC, đã không dễ dàng được thực hiện. Trong khi đó, chức năng mua nợ xấu theo giá thị trường bằng “tiền tươi thóc thật”, một chức năng được xem là thứ yếu của VAMC, lại đang dần dần được hô hào nâng lên thành chức năng chính (như ở các nước khác), kèm với đó là khuyến nghị ngày càng mạnh mẽ chính phủ tạo nguồn lực này cho VAMC (từ ngân sách, từ các quỹ của chính phủ, từ vốn cấp phát của Ngân hàng Nhà nước (NHNN)), bên cạnh đó là trao quyền đặc biệt cho VAMC.

Lý do để cho việc xử lý nợ xấu thông qua hoán đổi nợ xấu tại các tổ chức tín dụng (TCTD) lấy trái phiếu đặc biệt của VAMC không mấy khả quan vì một số lý do như đã biết, ví dụ, các TCTD vẫn phải trích lập dự phòng 20% mệnh giá trái phiếu hàng năm (và đây là một gánh nặng lên lợi nhuận của các TCTD); VAMC hầu như không phải chịu bất kỳ rủi ro gì trong việc tiếp nhận và xử lý nợ xấu nên chất lượng xử lý nợ xấu của họ là một dấu hỏi đối với các TCTD buộc phải hoán đổi nợ xấu cho họ; các TCTD về nguyên tắc có thể mang trái phiếu đặc biệt của VAMC đến chiết khấu tại NHNN nhưng lãi suất và tỷ lệ chiết khấu lại do NHNN quyết định, tạo ra một bất trắc lớn đối với các TCTD. Ngoài ra, trong thời gian 5 năm “gán” nợ xấu cho VAMC, người ta hy vọng nền kinh tế và đặc biệt thị trường bất động sản sẽ khởi sắc để hấp thụ một lượng lớn tài sản thế chấp đa phần là bất động sản để VAMC hoặc bản thân các TCTD có thể xử lý được các tài sản thế chấp này với giá cao hơn. Nhưng thực tế cho thấy đợi chờ kiểu “mua thời gian” như thế này không khác gì sự đánh cược là bao nhiêu.

Nhưng hiện tại, nếu chạy theo đề xuất của một số người theo đó nhà nước cấp “tiền tươi thóc thật” cho VAMC để họ xử lý nợ xấu như ở các quốc gia khác thì cũng không kém phần phiêu lưu. Trở ngại cho mọi AMC nói chung và VAMC nói riêng vẫn là làm gì với các khoản nợ xấu tiếp nhận từ các TCTD? Dù là mua bằng “tiền tươi” hay trái phiếu đặc biệt của mình thì VAMC đến lượt mình vẫn phải đau đầu tìm cách giải quyết số nợ xấu ôm vào này. Mặc dù luật lệ có quy định VAMC có thể làm với đống tài sản đó, nhưng thực tế hầu như chẳng có gì đáng kể xảy ra như thực tế con số nợ bán được nhỏ nhoi của VAMC đã cho thấy. Mà điều đáng nói là những khoản nợ đã bán được thường lại là những khoản nợ tốt nhất, dễ xử lý nhất trong số những khoản nợ xấu có trong tay. Đại bộ phận số nợ xấu phải xử lý vẫn còn đó, trong khi không có mấy khách hàng mới tìm đến. Bởi vậy, dù VAMC có đủ “tiền tươi” để mua nợ xấu nhưng điều này không có nghĩa là vấn đề nợ xấu sẽ được giải quyết xong một sớm một chiều.   

Ngay cả lập luận cho rằng với “tiền tươi”, VAMC sẽ mua được nợ xấu, và theo quy định, có thể chuyển đổi khoản nợ xấu đã mua thành vốn điều lệ, vốn cổ phần của khách hàng vay là doanh nghiệp để giúp doanh nghiệp phục hồi theo hướng tích cực rồi sau đó VAMC sẽ thu hồi được nợ, cũng không có mấy căn cứ. Vì VAMC hoặc chỉ đơn thuần là góp vốn chứ không tham gia quản trị, hoặc đơn thuần không được phép, cũng như không có đủ năng lực và nhân lực để tham gia quản trị doanh nghiệp để hy vọng doanh nghiệp sẽ tiến bộ hơn.

Một số người thì lại khuyến nghị trao quyền đặc biệt cho VAMC như trao cho họ quyền được bán tài sản thế chấp mà không cần phải có sự chấp thuận của bên đi vay, có cơ chế phù hợp trong định giá tài sản mang ra đấu giá v.v... Nhưng nếu vậy thì không chỉ VAMC mà bất kỳ công ty quản lý tài sản (AMC) hiện có nào (của các TCTD, hoặc của Bộ Tài chính) khi đã có những đặc quyền, những cơ chế này rồi thì đều hoàn toàn có thể xử lý nợ xấu một cách “ngon lành”. Vậy thì, về nguyên tắc, tại sao phải nhọc công tạo ra thêm một AMC “đầu Ngô mình Sở” để làm gì mà không, thay vào đó, tập trung vào khắc phục những trở ngại trong việc xử lý tài sản thế chấp như thế này và dọn đường cho các tổ chức xử lý nợ xấu hiện có phát huy tác dụng?

Tóm lại, có thể thấy rằng VAMC đã chót được thiết kế, lập ra và tung hô rồi thì cũng chỉ nên để nó phát huy tác dụng ở góc độ là góp phần làm sạch bảng cân đối tài sản của các TCTD trước mắt, trong ngắn hạn để giúp chúng trông trở nên lành mạnh hơn nhằm khai thông tín dụng cho nền kinh tế và giúp hệ thống ngân hàng hấp dẫn các nhà đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài hơn.

Nếu cứ muốn hà hơi, tiếp sức để hy vọng VAMC giải quyết triệt để vấn đề nợ xấu thì tốt nhất là hãy tạo ra một sân chơi chung, rộng hơn về quy mô và thông thoáng hơn về luật lệ với sự tham gia của các tổ chức AMC hiện thời hay sẽ thành lập từ nhiều nguồn lực khác mà không nhất thiết phải làm tổn hại đến ngân sách nhà nước. Trên hết, cần phải nhận thức được rằng Việt Nam cần phải tìm một giải pháp toàn diện, triệt để, và hữu hiệu hơn cho vấn đề nợ xấu, chứ không nên đơn thuần quan niệm rằng thành lập VAMC là điều kiện cần và đủ để giải quyết vấn đề này, hoặc đặt quá nhiều hy vọng vào VAMC trong việc giải quyết nợ xấu.

Wednesday 27 August 2014

Đằng sau đợt hạ lãi suất tiền gửi gần đây (Bài đăng trên CafeF 28/8, bản gốc)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/dang-sau-dot-ha-lai-suat-tien-gui-gan-day-la-gi-2014082808133734015ca34.chn

Một số ngân hàng lớn như Vietcombank, BIDV, ACB mới đây đã giảm lãi suất huy động VND trên thị trường. Theo đó, lãi suất huy động tiền đồng của các ngân hàng thương mại, đặc biệt ngân hàng lớn, đã giảm thêm từ 0,1 - 0,5 điểm %/năm ở nhiều kỳ hạn.
Một trong những lý do được một số người trong cuộc đưa ra là lạm phát thấp, là cơ sở để các ngân hàng tính toán lại chi phí và giảm lãi suất. Thanh khoản trong hệ thống dồi dào ở mức dư thừa cũng là một lý do được kể đến.

Tuy nhiên, lý do thực sự nằm ở chênh lệch đang tăng lên ở mức lớn giữa cung và cầu tiền.

Theo bảng dưới đây tổng hợp số liệu từ các thông cáo của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hàng tháng, tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán (M2, tức cung tiền) đã tăng khá mạnh trong 7 tháng đầu năm, tăng 7,36% so với tháng 12/2013. Đáng chú ý là nếu như ở quý 1, trung bình mỗi tháng cung tiền chỉ tăng 1 điểm % (so với tháng 12/2013) thì nó đã tăng thêm trung bình hơn 1,4 điểm % mỗi tháng trong quý 2. Điều này trùng hợp với diễn biến lạm phát thấp và tăng trưởng tín dụng âm của những tháng đầu năm, và có thể đã thể hiện nỗi sốt ruột của các nhà làm chính sách muốn thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bằng cách bơm mạnh thêm tiền vào nền kinh tế nhằm giảm lãi suất (ngoài lý do là NHNN đã tung một lượng lớn VND ra để mua vào ngoại tệ).
Khá tương ứng với tốc độ tăng cung tiền nhanh hơn trong quý 2, tốc độ tăng huy động vốn cũng có xu hướng nhanh hơn rõ rệt trong quý 2, tuy vẫn chậm hơn tốc độ tăng cung tiền một chút.

Ngược lại, bên cầu, đến hết tháng 7, tốc độ tăng tín dụng cho nền kinh tế mặc dù đã bứt phá mạnh trong quý 2 nhưng mới chỉ đạt 3,68% so với tháng 12/2013, chỉ bằng phân nửa tốc độ tăng cung tiền và tốc độ tăng huy động vốn.
Cầu tiền nhìn từ một khía cạnh khác là khối lượng trái phiếu chính phủ phát hành. Dường như có xu hướng ngược lại với tốc độ tăng trưởng tín dụng. Trong quý 1, khối lượng trái phiếu chính phủ phát hành lên tới 82 nghìn tỷ, lớn hơn nhiều so với con số 49 nghìn tỷ đã phát hành trong quý 2. Cũng có thể cho rằng đây là một sự phối hợp chính sách của các nhà hoạch định chính sách khi dùng chính sách tài khóa để hỗ trợ, kích thích tổng cầu khi sự nới lỏng chính sách tiền tệ không mang lại hiệu quả như mong muốn.

Điều đáng chú ý về trái phiếu chính phủ là mới đây Kho bạc Nhà nước đã điều chỉnh lại kế hoạch phát hành trái phiếu chính phủ năm 2014, với tổng khối lượng phát hành được chỉnh lại thành 232 nghìn tỷ đồng. Nếu so với con số đã phát hành trong 7 tháng qua là 154 nghìn tỷ thì dư địa hút tiền về theo kênh trái phiếu này đã thu hẹp đáng kể khi khối lượng trái phiếu sẽ phát hành trong 5 tháng còn lại của năm chỉ là 78 nghìn tỷ.
Như vậy, có thể thấy một bức tranh tiền tệ trong mấy tháng gần đây là cung tiền đã tăng mạnh nhưng mức tăng tín dụng vẫn ở mức thấp hơn nhiều trong khi kênh trái phiếu chính phủ cũng đã và sẽ thu hẹp lại đáng kể. Thực tế này dẫn đến dư thừa thanh khoản trong hệ thống, buộc các ngân hàng lớn có lợi thế huy động vốn hoặc có khả năng khai thác được các nguồn vốn có lãi suất thấp (chủ yếu liên quan đến (các nguồn vốn) của chính phủ hoặc các doanh nghiệp nhà nước) phải giảm lãi suất huy động.

Trước động thái hạ lãi suất của các ngân hàng lớn như nói trên, thị trường đã đồn đoán NHNN có thể sắp công bố hạ trần lãi suất huy động tiền gửi ngắn hạn. Nhưng theo báo chí cho biết thì NHNN có chủ trương chưa hạ trần lãi suất. Thực ra, điều này không có gì là ngạc nhiên vì trần lãi suất chỉ có tác dụng trong bối cảnh thanh khoản căng thẳng, chứ không phải khi thanh khoản đang dư thừa như hiện này. Khi thanh khoản căng thẳng, các ngân hàng phải cạnh tranh quyết liệt với nhau thông qua nâng lãi suất để hút tiền gửi về phía mình. Với trần lãi suất huy động, NHNN hy vọng sẽ kìm chế được mức tăng lãi suất huy động và (hy vọng là) lãi suất cho vay. Nay thanh khoản đã và đang dư thừa mạnh, buộc các ngân hàng phải chủ động hạ lãi suất huy động, mà không cần phải đợi NHNN áp đặt hạ trần lãi suất huy động xuống thêm nữa



Monday 25 August 2014

Cổ phần hóa Vietnam Airlines - Cần hiểu cho đúng! (Bài đăng trên Cafef, 26/8, bản gốc)

http://cafef.vn/kinh-te-vi-mo-dau-tu/co-phan-hoa-vietnam-airlines-can-hieu-cho-dung-2014082523173904014ca33.chn

Vietnam Airlines (VNA) đã được lên kế hoạch cổ phần hóa và IPO trong thời gian tới đây. Xung quanh việc này, có 3 điểm chính thu hút sự quan tâm của dư luận, đó là việc nhà nước tiếp tục nắm giữ cổ phần chi phối sau cổ phần hóa (75% thời gian ban đầu, sau đó có thể giảm dần xuống nhưng không dưới 65%); việc VNA kiến nghị được giữ lại thặng dư vốn phát hành thêm cổ phần tương ứng với phần vốn của nhà nước; và việc VNA đề nghị được nhà nước tiếp tục duy trì bảo lãnh cho doanh nghiệp sau cổ phần hóa.
Với điểm thứ nhất, lý giải nguyên nhân nhà nước tiếp tục nắm giữ cổ phần chi phối trong VNA sau cổ phần hóa, Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) cho biết VNA có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động bay cũng như đảm bảo phục vụ quốc phòng, an ninh. Làm thế nào chăng nữa, sau cổ phần hóa phải đảm bảo được VNA là một thương hiệu mạnh. Đây là một tổng công ty lớn, mang hình ảnh, mang thương hiệu quốc giá tới bạn bè quốc tế. VÌ thế, việc nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối không có gì lạ, để đảm bảo quyền được phủ quyết.

Lý do này xem ra không thuyết phục. Bộ GTVT nói như vậy có nghĩa đánh đồng việc sở hữu nhà nước (chiếm tỷ lệ chi phối) trong VNA với thương hiệu mạnh, và tức là tính hiệu quả và chất lượng cũng như số lượng dịch vụ mà VNA có thể cung cấp cho khách hàng. Nếu chỉ đơn giản như vậy thì, về logic, tốt nhất nhà nước không nên cổ phần hóa VNA, mà hãy giữ rịt lấy doanh nghiệp này (sở hữu 100%) để đỡ phải chia sẻ quyền phủ quyết với bất cứ ai, để đảm bảo có được một "thương hiệu quốc gia mạnh"! Nhưng tự thân việc phải đưa VNA ra để cổ phần hóa cho thấy doanh nghiệp này đang hoạt động không  hiệu quả, chưa xứng đáng là một thương hiệu quốc gia mạnh, và/hoặc chưa có số lượng và chất lượng dịch vụ cần thiết với tư cách là một hãng hàng không quốc gia.
Nói cách khác, khi đã đặt vấn đề cổ phần hóa VNA tức là người ta đã nghĩ rằng chỉ có sự tham gia của các cổ đông phi nhà nước mới có thể giúp VNA hoạt động khởi sắc, và sự tham gia của cổ đông nhà nước trong các quyết định liên quan đến hoạt động kinh doanh của VNA càng giảm thiểu càng tốt, vì sự có mặt của chủ sở hữu nhà nước từ trước đến nay trong hoạt động của VNA có thể nói là thất bại, hoặc nói một cách nhẹ nhàng hơn, không hiệu quả. Khi đã nghĩ được như vậy rồi thì cần giảm thiểu cổ phần của nhà nước trong VNA, chứ không nên khăng khăng đòi giữ ít nhất 65% cổ phần để được quyền bắt cổ đông khác phải nghe mình.

Điểm không thuyết phục tiếp theo trong lý do trên của Bộ GTVT là quan niệm đã là hãng hàng không mang thương hiệu quốc gia (hãng hàng không quốc gia) thì nhất thiết nó phải thuộc sở hữu nhà nước hoặc chí ít thì nhà nước phải nắm sở hữu chi phối. Trên thế giới có nhiều nước có các hãng hàng không quốc gia thuộc sở hữu tư nhân. Chẳng hạn, theo Wikipedia, các hãng hàng không  lớn trên thế giới như Pan Am, TWA, Cathay Pacific, Union de Transports Áeriens, Canadian Pacific Airlines, và Olympic Airlines v.v... đều là các hãng thuộc sở hữu tư nhân, mặc dù phần lớn chúng được coi là hãng hàng không quốc gia, với cái nghĩa là "hãng hàng không chính của quốc gia" và là biểu trưng cho sự hiện diện của quốc gia đó ở nước ngoài. Trong danh sách các hãng hàng không quốc gia trên thế giới mà Wikipedia liệt kê, có nhiều hãng hàng không quốc gia hoặc không có sở hữu nhà nước, hoặc sở hữu nhà nước chỉ chiếm tỷ lệ không chi phối.
Cũng chính từ thực tế này (nhiều hãng hàng không quốc gia thuộc sở hữu tư nhân) cho thấy việc gắn sở hữu nhà nước với những vấn đề như thương hiệu/hình ảnh quốc gia, và to chuyện hơn, các vấn đề liên quan đến quốc phòng, anh ninh chỉ là một sự khiên cưỡng, quan trọng hóa vấn đề. Cụ thể hơn, vấn đề đảm bảo quốc phòng, an ninh (quốc gia) chắc chắn không phải là quả bóng nằm dưới chân các hãng hàng không dân dụng, mà là trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc đề ra các quy định, luật lệ và chế tài để buộc các hãng hàng không, bất kể là hãng hàng không quốc gia hay phi quốc gia, phải tuân thủ nghiêm ngặt.

Chuyển sang điểm thứ hai và thứ ba, VNA kiến nghị được giữ lại thặng dư vốn sau phát hành thêm cổ phần và tiếp tục được duy trì bảo lãnh. Tất nhiên là đằng sau những kiến nghị này luôn có những lý do mà người trong cuộc đưa ra để hợp thức yêu cầu của mình, và chúng có thể nghe rất hợp lý, chính đáng. Nhưng đứng từ góc độ pháp lý, những hành động đòi ưu đãi này là những ngoại lệ, hầu như không được phép trong các văn bản luật hiện hành, ngoài sự cho phép phá cách của chính phủ. Điều đáng nói là với VNA là như vậy, còn những doanh nghiệp nhà nước khác, nhất là những doanh nghiệp lớn, khi cổ phần hóa thì sẽ như thế nào? Chắc chắn là họ sẽ "noi gương" VNA để đòi hỏi những quyền lợi, những ưu đãi cho riêng mình mà bất chấp những quy định hiện hành của pháp luật. Và rồi thì chính phủ cũng rất có thể lại phải theo tiếp cuộc chơi, tiếp tục đáp ứng những đòi hỏi này (và với lý do rất xác đáng, tất nhiên).
Chưa nói đến chuyện gây ra bất bình đẳng trong đối xử với các doanh nghiệp khác, việc cho phép và đáp ứng những đòi hỏi ưu đãi như trên sẽ là một tiền lệ nguy hiểm để các doanh nghiệp nhà nước khác, đặc biệt là những doanh nghiệp lớn, có sức ảnh hưởng mạnh đến giới làm chính sách, "mặc cả" với nhà nước trước khi bắt tay vào thực hiện cổ phần hóa. Và sẽ không lấy gì làm lạ nếu có doanh nghiệp nhà nước nào đó lấy lý do là sẽ gặp khó khăn, hoăc bị thiệt hại to lớn sau cổ phần hóa (thực chất là nhà nước không đáp ứng những đòi hỏi không hợp pháp, hơp lý của họ) nên nói không với cổ phần hóa, hoặc lấy đó làm cớ để dây dưa, chậm chễ, trì hoãn cổ phần hóa, một vấn đề vốn đã và đang không hoàn toàn thuận buồm xuôi gió như ý chí chính trị của các nhà lãnh đạo.

Tổng cục thống kê phang (đích đáng) Ủy ban giám sát tài chính quốc gia

Hôm trước, trong bài về tổng cầu với lạm phát và lạm phát lõi, nhiều đồng chí vẫn cứ lăn tăn chuyện tớ phang UBGSTCQG rằng lạm phát thấp không nhất thiết phản ánh tổng cầu yếu. Nay thì có ngay người trong cuộc, tức Tổng cục thống kê (TCTK), phang (như tớ phang) thêm một nhát vào ý kiến nguy hiểm kiểu này của UBGSTCQG (xem tại đây).

Nói ngoài lề, riêng chuyện biết tổng cầu tăng lên hay giảm đi, mạnh như thế nào thì chỉ có TCTK mới là nơi biết rõ nhất, vì là nơi làm ra con số này, chứ không phải là UBGSTCQG hay bất cứ một tổ chức nào khác, là những nơi sử dụng/được cung cấp con số này.

-----------------------
Oooppssss!

Đính chính: Tớ nhìn gà hóa cuốc, không nhìn ngày tháng trên bài đã dẫn của TCTK, cứ tưởng là mới ra hôm nay vì đọc nó trên "báo mới" chiều nay. Nhìn lại, hóa ra là bài từ 29/3!

Nhưng dù sao tinh thần phang như của TCTK vẫn không thay đổi, tức là có nhiều nguyên nhân làm cho lạm phát thấp, chứ không phải tổng cầu yếu, như UBGSTCQG nói ấm ớ.

Sunday 24 August 2014

Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước – đã “quyết liệt” sao vẫn chậm? (Bài đăng trên Cafef, 25/8, bản gốc)

http://cafef.vn/kinh-te-vi-mo-dau-tu/tai-co-cau-doanh-nghiep-nha-nuoc-da-quyet-liet-sao-van-cham-201408250635105131ca33.chn

Từ đầu năm đến nay đã không ít lần người đứng đầu chính phủ chỉ đạo “quyết liệt” tái cơ cấu, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) nhưng tiến trình này xem ra vẫn khá ì ạch. Ngay Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp một mặt đánh giá rằng kết quả cổ phần hóa DNNN trong các tháng đầu năm là khả quan, có thể hoàn thành mục tiêu cổ phần hóa 432 DNNN từ nay đến hết năm 2015, nhưng mặt khác vẫn thừa nhận rằng nhiều Bộ và địa phương vẫn chậm tiến độ trong tái cơ cấu.
Ngoài nhiều lý do như đã được phân tích mổ xẻ, có thể liệt kê ra đây thêm một số nguyên nhân khác góp phần dẫn đến sự chậm chễ này.

Thứ nhất, mục tiêu tái cơ cấu không được xác định rõ ràng. Có thể hiểu rằng tái cơ cấu DNNN có phạm vi rộng hơn cổ phần hóa DNNN, hay nói cách khác, cổ phần hóa DNNN chỉ là một trong những biện pháp tái cơ cấu DNNN.
Nếu để ý thì sẽ thấy nhiều ý kiến vẫn có sự nhầm lẫn khi đánh đồng tái cơ cấu với cổ phần hóa, và bởi vậy mới có sự khác biệt trong đánh giá tiến trình và kết quả tái cơ cấu DNNN. Nếu chỉ nhìn vào con số DNNN đã và sẽ (có khả năng thực hiện) được cổ phần hóa thì nhiều người đã và đang cho rằng tái cơ cấu đang đi đúng hướng, đúng tiến độ và sẽ hoàn thành được mục tiêu (cổ phần hóa 432 DNNN). Sự hiểu lầm này dẫn đến sự tự bằng lòng, thái độ chây ì, không cần nhiệt tình trong việc tái cơ cấu các DNNN nằm ngoài danh sách cổ phần hóa này ở nhiều Bộ, ngành, địa phương. Trên thực tế, sự chú trọng của nhà làm chính sách lẫn công luận dường như dồn cả vào tiến trình cổ phần hóa và thậm chí là IPO của 432 DNNN mà khá xao nhãng những mặt khác của tái cơ cấu DNNN.

Nhưng nếu hiểu đúng rằng tái cơ cấu DNNN không chỉ là cổ phần hóa mà còn bao gồm thoái vốn, thay đổi ban quản trị và lề lối quản trị, giải thể, sáp nhập, thay đổi lĩnh vực sản xuất kinh doanh, đặt DNNN trong môi trường cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác v.v... thì quả thật tái cơ cấu DNNN vẫn còn cả chặng đường chông gai phía trước, với đủ nguyên nhân và lý do cả chủ quan lẫn khách quan làm trì hoãn tiến trình này.
Thứ hai, bản thân những chỉ đạo “quyết liệt” của chính phủ tuy có thể đã thể hiện ý chí và quyết tâm chính trị mạnh mẽ nhưng lại thiếu một cơ chế “chiếc gậy và củ cà rốt” rõ ràng, đủ sức khuyến khích thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình tái cơ cấu và răn đe, trừng phạt những hành động, những cá nhân và tập thể cản trở tiến trình.

Xét về “củ cà rốt”, khi các Bộ, ngành, cơ quan hữu trách, địa phương và người đứng đầu DNNN thực hiện tốt tái cơ cấu thì sự “tưởng thưởng” cho thành tích của họ có lẽ chỉ dừng lại ở mức độ được đánh giá là “hoàn thành nhiệm vụ”, vốn không mang lại mấy lợi ích (quy ra) vật chất cho họ, so với những lợi ích khác họ có thể thu được nếu “không hoàn thành nhiệm vụ”.
Mặt khác, “chiếc gậy” trong trường hợp bị đánh giá là “không hoàn thành nhiệm vụ” dường như mới chỉ dừng lại ở lời đe dọa sẽ bị mất chức, chính xác hơn là “tự nguyện từ chức”. Nhưng ở Việt Nam cho đến nay thì chuyện bị miễn nhiệm, cắt chức vốn đã khó, không mấy khi xảy ra, nói gì đến chuyện “tự nguyện từ chức”? Nói cách khác, tuy những cá nhân và tổ chức liên quan đến tái cơ cấu DNNN về nguyên tắc có thể chịu hậu quả của việc không đáp ứng được yêu cầu về tái cơ cấu nhưng hậu quả này không đủ sức răn đe vì khá mơ hồ, không có tính khả thi cao.

Thứ ba, những “quyết liệt” liên quan đến tái cơ cấu DNNN cho đến nay chủ yếu được thể hiện trong các Nghị quyết hoặc qua các phát biểu của người đứng đầu chính phủ trong các cuộc họp. Như quan chức của một Bộ bình luận thẳng thừng với người viết gần đây, Nghị quyết có tính áp đặt pháp lý yếu ớt so với các văn bản pháp luật khác của nhà nước. Nên sẽ là không khó hiểu nếu có khoảng cách lớn giữa ý chí và quyết tâm của lãnh đạo cấp trên với sự tuân thủ, thực thi của cấp dưới như đã thấy cho đến nay.
Thứ tư, trong những chỉ đạo thúc đẩy tái cơ cấu của chính phủ, mục tiêu tái cơ cấu (hoặc hẹp hơn, cổ phần hóa) lại được đặt song song với hàng loạt mục tiêu khác không kém tham vọng như phải đẩy mạnh hoạt động kinh doanh; thoái vốn song phải được tiến hành một cách chặt chẽ, không được tùy tiện, không để nảy sinh tiêu cực, thất thoát; giải quyết lao động dôi dư v.v... Đây là những thách thức, đúng hơn, có thể bị lợi dụng để biến thành cái cớ cho trì hoãn tái cơ cấu.

Chẳng hạn, với lý do đẩy mạnh hoạt động kinh doanh thì các DNNN đang kinh doanh tốt sẽ chẳng mặn mà, tự nguyện tái cơ cấu hoặc cổ phần hóa. Ngược lại, với cùng lý do này, các DNNN đang khó khăn sẽ có cớ để trì hoãn tái cơ cấu, viện cớ rằng họ đang tập trung cải thiện kinh doanh, nếu tái cơ cấu thì sẽ làm đảo lộn, phá vỡ kế hoạch của họ. Với những lý do phải chặt chẽ, thận trọng, không để thất thoát, các DNNN sẽ có cớ để đổ lỗi cho sự chậm chễ trong tái cơ cấu của mình (và bản thân các cá nhân và tổ chức liên đới cũng sợ bị quy cho những tội này nên tự mình cũng co vào thế thủ).
Cuối cùng, có một lý do rất thực tế thông qua các cuộc tiếp xúc của người viết với một số DNNN là chuyện các DNNN tuy rất quán triệt tinh thần tái cơ cấu, cổ phần hóa bản thân mình, nhưng họ như những con cá vốn chỉ quen bơi trong ao tù, này được thả ra trước biển lớn hoàn toàn không biết được mình sẽ bơi đi đâu, và làm gì. Nếu có hỏi họ về, ví dụ, nguyện vọng tìm đối tác chiến lược cụ thể như thế nào để cùng làm cái gì thì câu trả lời thường rất chung chung, theo kiểu tôi có như thế và sẵn sàng bán mình, anh thấy tôi có giá trị thì mua tôi rồi thì muốn làm gì cũng được, tùy anh. Thái độ như vậy đương nhiên không thu hút được sự quan tâm cần thiết của các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài, và bởi vậy sự thoái vốn, tìm đối tác để liên doanh, sáp nhập, thay đổi lĩnh vực sản xuất kinh doanh v.v... của những DNNN loại này sẽ thêm phần nan giải.

Saturday 23 August 2014

Argentina vỡ nợ - Vì đâu nên nỗi? (Bài đăng trên Cafef, 24/8, bản gốc)

http://cafef.vn/tai-chinh-quoc-te/argentina-vo-no-vi-dau-nen-noi-2014082409195732018ca32.chn

Vụ việc bắt đầu từ hôm 30/7 khi những cuộc thương lượng với một nhóm chủ nợ yêu cầu nước này trả toàn bộ 1,3 tỷ USD mệnh giá trái phiếu họ nắm giữ thất bại. Sau đó, một tòa án ở New York theo dõi vụ việc đã tuyên bố Argentina vỡ nợ vì đã không thanh toán khoản lợi tức trái phiếu đến hạn hồi tuần đầu tháng 8.
Nhóm chủ nợ nói trên là một số quỹ đầu cơ ở New York đã mua lượng trái phiếu này với giá rẻ mạt vào thời điểm nền kinh tế Argentina rơi vào khủng hoảng năm 2002. Lúc đó, chính phủ Argentina buộc phải phá giá đồng peso vì đã cạn kiệt dự trữ ngoại hối và tuyên bố không chi trả được khoản nợ trái phiếu nước ngoài của mình lên tới 105 tỷ USD, khoản vỡ nợ lớn nhất trong lịch sử tài chính thế giới, và chỉ mới bị vượt mặt gần đây trong cuộc khủng hoảng nợ công Hy Lạp.

Vài năm sau khi vỡ nợ khoản nợ trái phiếu 105 tỷ USD, Argentina trong năm 2005 và 2010 đã đạt được thỏa thuận với 93% chủ nợ nắm giữ lượng trái phiếu này đồng ý nhận lại 33 xu cho mỗi USD mệnh giá trái phiếu họ nắm giữ. Số chủ nợ còn lại không chấp nhận thỏa thuận này và cuối cùng đã bán lại lượng trái phiếu này cho một quỹ đầu cơ và những nhà đầu tư khác với giá chiết khấu lớn chỉ bằng phần nhỏ mệnh giá trái phiếu. Các quỹ đầu cơ nói trên đã trả có 48 triệu USD để mua lượng trái phiếu có mệnh giá 1,3 tỷ USD với hy vọng rằng họ sẽ buộc Argentina trả đủ theo mệnh giá thông qua con đường pháp lý (kiện cáo ra tòa) dù có thể mất nhiều năm.
Argentina đã nhanh chóng từ chối chi trả theo mệnh giá cho khoản trái phiếu còn lại. Nhưng dù có muốn chi trả thì họ vấp phải một vấn đề lớn, trong thỏa thuận với 93% chủ nợ có điều khoản quy định rằng nếu chính phủ đồng ý trả cho nhóm 7% chủ nợ còn lại với số tiền cao hơn số đã trả cho nhóm 93% chủ nợ thì chính phủ cũng phải trả số tiền tương ứng cho mọi chủ nợ khác. Như thế, thỏa thuận về giá chiết khẩu 33 xu cho 1 USD mệnh giá sẽ không còn giá trị nữa.

Và vừa rồi tòa án ở New York đã ra phán quyết rằng Argentina không được chi trả lợi tức thông thường định kỳ cho 93% chủ nợ trừ khi nước này chi trả toàn bộ theo mệnh giá cho nhóm chủ nợ còn lại. Bất chấp phán quyết này, Argentina vẫn cố gắng chi trả lợi tức định kỳ - việc đã thực hiện nhiều năm nay – cho một nhóm chủ nợ với số tiền 563 triệu USD vào tuần đầu tháng 8. Cuối cùng, các tòa án Mỹ đã ngăn cản việc này, và Argentina bị tuyên bố vỡ nợ.
Argentina phản đối, cho rằng họ không vỡ nợ vì đã cố gắng chuyển 563 triệu USD lợi tức cho nhóm chủ nợ đã đồng ý nhận lại một phần trong số mệnh giá trái phiếu họ nắm giữ trong các đợt thương lượng hồi 2005 và 2010. Nhưng một số hãng xếp hạng tín dụng quốc tế thì không nghĩ thế, ít nhất là về mặt kỹ thuật, và bởi vậy đã đánh tụt hạng trái phiếu của nước này xuống hạng mất khả năng thanh toán (vỡ nợ).

So sánh với đợt vỡ nợ năm 2001, Argentina hiện nay hoàn toàn có đủ nội lực để không bị gọi là “vỡ nợ”. Năm 2001, Argentina không đủ khả năng chi trả 81 tỷ USD nợ nước ngoài. Hiện nay, nợ của nước này là chỉ là 29 tỷ USD, hoàn toàn nằm trong khả năng chi trả của họ. Ngược lại, dự trữ ngoại hối của Argentina năm 2001 chỉ đạt 14,5 tỷ USD so với mức 29,7 tỷ USD hiện nay.
Argentina hiện nay cũng đang trong điều kiện kinh tế và chính trị tốt hơn nhiều so với 2001 là năm thứ 3 liên tục nước này có tăng trưởng GDP âm. Nhờ phá giá và cải cách kinh tế, nền kinh tế Argentina đã đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, trung bình trên 8%/năm trong giai đoạn 2003-2011, với tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống còn 7% so với mức trên 20% năm 2001. Về chính trị, nếu năm 2001 nước này đã chứng kiến 2 tổng thống phải ra đi thì tổng thống hiện nay, Cristina Fernandez de Kirchner, đã ở nhiệm kỳ thứ 2 của mình.

Tuy vậy, đợt vỡ nợ mang tính kỹ thuật lần này làm chi phí bảo hiểm cho trái phiếu của Argentina vì thế mà tăng vọt, đồng thời gây tổn hại nặng nề lên nền kinh tế nước này và triển vọng tái cơ cấu nợ nước ngoài của Argentina. Với tuyên bố bị vỡ nợ, Argentina sẽ bị xa lánh bởi nhà đầu tư nước ngoài hoặc phải đi vay với lợi suất tăng vọt, ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế, suy giảm nhanh chóng dự trữ ngoại hối, lạm phát tăng vọt (và thực tế đã thuộc hàng đầu trên thế giới).
Mặc dù Argentina đã phá giá đồng peso tới 20% hồi tháng 1 năm nay, nhưng trước áp lực tỷ giá đang gia tăng, thể hiện ở khoảng cách chênh lệch lớn giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên chợ đen, và áp lực từ phía doanh nghiệp đòi phải phá giá thêm nữa vì peso đã lên giá thực quá lớn (do lạm phát cao) làm suy giảm tính cạnh tranh xuất khẩu của họ, thị trường đang kỳ vọng Argentina sẽ phải tiếp tục phá giá thêm hàng chục % nữa. Và một vòng luẩn quẩn sẽ tiếp tục được lặp lại khi sẽ có thêm nhiều cuộc biểu tình gây áp lực tăng lương, làm tăng lạm phát, dẫn đến tăng áp lực phá giá, nâng lãi suất, tăng trưởng kinh tế suy giảm, thất nghiệp gia tăng, vỡ nợ, chảy máu ngoại tệ, tiếp tục phá giá...

Cho dù chính phủ Argentina mới hôm 21/8 tuyên bố chủ trương không phá giá trong năm nay nữa, nhưng thị trường vẫn có những lý do của nó để đặt cược vào một tương lai tiếp tục bất ổn ở Argentina trong một vài năm tới.

Nỗi hoài nghi về GDP ở Việt Nam (Bài đăng trên Tuổi trẻ cuối tuần, 22/8, bản gốc)

Trong năm nay nhiều lần Tổng cục Thống kê (TCTK) đã phải đăng đàn giải thích tính khả tín của chỉ số GDP mà họ tính toán và công bố hàng quý, hàng năm trước nghi vấn của dư luận về chỉ số này.
 
Mới đây nhất, TS Nguyễn Bích Lâm, Tổng cục trưởng TCTK cũng một lần nữa phủ nhận nỗi hoài nghi về chỉ tiêu GDP khi cho rằng TCTK đã áp dụng các khái niệm, nguyên tắc, nguồn thông tin và phương pháp tính GDP theo đúng quy định trong hệ thống tài khoản quốc gia của thống kê Liên hợp quốc. Ông cũng cho biết thêm rằng trước đây những năm 90, hàng năm Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) đến Việt Nam kiểm tra nguồn thông tin và phương pháp tính chỉ tiêu GDP do TCTK thực hiện và các tổ chức này đều khẳng định phương pháp tính của thống kê Việt Nam theo đúng phương pháp của thống kê Liên hợp quốc. Hiện nay họ không đặt vấn đề kiểm tra đối với thống kê Việt Nam mà hoàn toàn tin tưởng, sử dụng số liệu GDP do TCTK tính toán và công bố.
Khách quan mà nói, lý giải như trên vẫn sẽ là chưa đủ để thuyết phục dư luận. Việc có phương pháp và quy trình đúng, và “làm đúng quy trình” cũng không luôn đảm bảo cho kết quả đúng, như kỳ vọng! Có lẽ dư luận hoài nghi về tính chính xác trong tính toán GDP của TCTK không phải xuất phát chủ yếu từ sự hoài nghi vào phương pháp và quy trình tính toán mà TCTK đang sử dụng hiện nay. Họ hoài nghi về sự “bẻ cong” số liệu vì một số lý do khách quan hoặc chủ quan nào đó.
Minh họa dễ thấy nhất về chất lượng tính toán GDP là ở con số GDP do các tỉnh tự tính toán, mà TCKT gọi là tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP). Rất thường xuyên là nếu cộng dồn GRDP của tất cả các địa phương trong cả nước thì con số GDP gộp này sẽ lớn hơn nhiều con số GDP cả nước do TCTK công bố. TCTK đã phải thừa nhận tình trạng này, và quy cho rằng do bệnh thành tích của các địa phương, hoặc do khó khăn khi áp dụng nguyên tắc “đơn vị cơ sở thường trú”, hoặc do vấn đề về số liệu ở cấp doanh nghiệp.
Điều đáng nói là ông Lâm cũng khẳng định rằng các địa phương đã áp dụng thống nhất cách tính chỉ tiêu GRDP theo hướng dẫn của TCTK. Nhưng thực tế trên đã cho thấy dù phương pháp và quy trình có đúng mấy thì vẫn kết quả vẫn có thể sai như thường!        
Bởi vậy, suy ngược ra, ngay bản thân con số GDP cả nước do TCTK công bố cũng vẫn có khả năng không chính xác, không bởi vì phương pháp và quy trình sai, mà có thể bởi chất lượng công tác thu thập và xử lý dữ liệu ngay từ địa phương. Ông Lâm cho biết rằng hiện nay, TCTK trực tiếp tính chỉ tiêu GDP của toàn bộ nền kinh tế chứ không dựa trên cơ sở cộng đơn thuần số liệu GRDP của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Như vậy điều này cũng có nghĩa là trước đây TCTK rất có thể đã tính GDP cả nước dựa trên GRDP vốn là cái đã bị bóp méo. Bởi thế, suy diễn về khả năng không chính xác của GDP do TCTK tính toán không phải là không có cơ sở.
Một lý do nữa càng làm tăng tính hoài nghi vào chất lượng tính toán GDP của TCTK đến từ việc TCTK hồi năm ngoái điều chỉnh tăng quy mô giá trị tăng thêm của hoạt động ngân hàng và dịch vụ nhà ở tự có của dân cư. Câu hỏi đặt ra là nếu đúng như TCTK nói, rằng đã áp dụng thống nhất khái niệm, nội dung, phương pháp tính hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) 1993 của Liên hiệp quốc để biên soạn số liệu tổng sản phẩm trong nước (GDP), thì tại sao TCTK lại phải “điều chỉnh” như vậy?
TCTK lúc đó có lý giải rằng trong quá trình điều tra thu thập thông tin, xử lý, biên soạn và phân tích số liệu GDP từ phương pháp sản xuất và phương pháp sử dụng, họ nhận thấy hoạt động ngân hàng và dịch vụ nhà tự có tự ở của dân cư chưa được phản ánh đầy đủ trong GDP. Điều này có nghĩa là mặc dù đã có quy trình và “làm đúng quy trình” nhưng từ trước đến năm 2012 hóa ra TCTK vẫn tính sai GDP!
Và cuối cùng, một lần nữa TCTK gián tiếp thừa nhận vấn đề chất lượng tính toán GDP của mình khi trả lời câu hỏi làm gì để nâng cao chất lượng các chỉ tiêu thống kê. TCTK cho biết sẽ nâng cao chất lượng thu thập, xử lý, tổng hợp số liệu thống kê; “đề nghị” các đơn vị sản xuất kinh doanh, các đơn vị hành chính sự nghiệp và hộ dân cư cung cấp thông tin đúng thực trạng sản xuất kinh doanh, đảm bảo thời gian; kêu gọi các bộ ngành cần quan tâm hơn nữa đến chia sẻ thông tin cho TCTK; tiếp tục hoàn thiện bộ tổ chức bộ máy thống kê từ Trung ương xuống địa phương; nâng cao năng lực chuyên môn, tinh thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ công chức làm công tác thống kê; và đặc biệt, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để nâng cao chất lượng trong từng công đoạn của hoạt động thống kê v.v...
Với một loạt đầu công việc cần phải làm như thế này thì có thể suy ra hiện đang có rất nhiều vấn đề trong công tác thống kê nói chung và tính toán GDP nói riêng!

Friday 22 August 2014

Phá giá ở Argentina

Mới đây có nhiều đồng chí phang tớ và cứ lăn tăn chuyện tại sao lại phá giá, và nếu phá giá có lợi hơn thì tại sao không phá luôn lấy vài chục phần trăm cho đã. Tưởng nói đùa thế mà chuyện xảy ra với Argentina trong năm nay đúng hệt như vậy. Nước này đã phá giá tới 20% hồi tháng 1 và còn (được kỳ vọng) phá tiếp vài chục phần tram nữa cho cân bằng với tỷ giá chợ đen và mức lạm phát được cho là thuộc dạng cao nhất thế giới làm suy yếu nghiêm trọng xuất khẩu nước này.

Các bài viết về Argentina trong cơn vỡ nợ và phải phá giá vì lạm phát cao ảnh hưởng đến xuất khẩu của nước này có rất nhiều trên internet, các đồng chí vào đọc để tham khảo thêm, và sau này đừng có phang tớ về chuyện phá giá nữa nhé.

Friday 15 August 2014

Có nên đưa tăng trưởng GDP thành chỉ tiêu pháp lệnh hay không? (Trả lời phỏng vấn báo Đại biểu Nhân dân, 16/8/2014)

http://www.daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=324343

08:46 | 16/08/2014
Những hoài nghi về tính chính xác của chỉ tiêu GDP (tổng sản phẩm trong nước) một lần nữa dấy lên sau hội nghị của ngành kế hoạch và đầu tư hôm 7.8. Trong bối cảnh này, chúng tôi trao đổi với TS PHAN MINH NGỌC, hiện đang làm việc tại Ngân hàng Sumitomo chi nhánh Singapore về việc: có nên đưa tăng trưởng GDP trở thành chỉ tiêu pháp lệnh hay không?
Nguồn: vietbao.vn

Nhiều biến số kinh tế không thuộc phạm vi kiểm soát được của Chính phủ
- Ông bình luận như thế nào về nghịch lý tồn tại lâu nay: tất cả các địa phương đều báo cáo tăng trưởng cao hơn mức trung bình của cả nước; từ đó mà đóng góp vào tăng trưởng GDP của 20% số tỉnh đã lớn hơn của cả nước.
- Số liệu GDP của các địa phương cộng lại không giống với số liệu GDP của cả nước là điều hiển nhiên vì Tổng cục Thống kê cho biết các địa phương thu thập thông tin, biên soạn chỉ tiêu tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) chứ không phải là chỉ tiêu GDP như áp dụng trên phạm vi cho cả nước. Theo giải thích mới đây của Tổng cục Thống kê, điểm tạo nên khác biệt giữa 2 chỉ số này là nguyên tắc thường trú, vốn khó được áp dụng để thu thập thông tin tính GRDP. Ngoài ra, cũng theo Tổng cục Thống kê, áp lực chạy theo mục tiêu KT - XH buộc các địa phương phải biến báo GRDP cũng là một trong những lý do cho sự sai khác trên.
 
Nếu đã hiểu bản chất rồi thì sẽ không thấy vấn đề trên là nghịch lý nữa. Nhưng lại cần phải nói thêm rằng 2 chỉ tiêu này do không có tính tương thích - tổng GRDP các địa phương không bằng GDP cả nước, cũng như xu hướng biến báo GRDP của các địa phương đã đặt ra vấn đề: có cần thiết phải duy trì việc thu thập và biên soạn chỉ tiêu GRDP nữa hay không?
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, do bệnh thành tích đã quá nặng mà không có cơ chế và năng lực phát hiện, xử lý nên tốt nhất là bỏ chỉ tiêu GRDP, hoặc để cho Tổng cục Thống kê tiến hành một cách thống nhất, trung lập, khách quan cho các địa phương.
 
- Vậy còn trong cách tính GDP cả nước hiện có vấn đề gì không, thưa Ông?
- Tổng cục Thống kê luôn khẳng định phương pháp tính GDP của họ là theo chuẩn mực quốc tế, kết quả tính toán đã được các tổ chức quốc tế công nhận để lấy đó làm lý do thuyết phục rằng số liệu GDP của cả nước do đơn vị này công bố là chính xác, chuẩn mực. Nhưng có điều không ai có thể kiểm tra chéo được chất lượng tiến hành thu thập thông tin và xử lý số liệu để biết được chất lượng thống kê ra sao. Người ta vẫn nghe đây đó việc các cán bộ thống kê điều tra mà ngồi ở nhà, giao các phiếu điều tra cho ai đó tự điền vào.
 
Hơn nữa, mặc dù cứ cho là Tổng cục Thống kê có quy trình và làm đúng quy trình, nhưng họ sẽ giải thích ra sao khi từ năm ngoái họ lại điều chỉnh tăng quy mô giá trị tăng thêm của hoạt động ngân hàng và dịch vụ nhà ở tự có của dân cư trên vào đầu năm 2013 đồng thời với việc áp dụng tính toán theo năm gốc 2010 và tính chuyển từ ngành kinh tế (VSIC) 1993 sang VSIC 2007? Tổng cục Thống kê nói rằng đã áp dụng thống nhất khái niệm, nội dung, phương pháp tính hệ thống tài khoản quốc gia 1993 của Liên Hiệp Quốc để biên soạn số liệu GDP nhưng vẫn phải thừa nhận rằng trong quá trình điều tra thu thập thông tin, xử lý, biên soạn và phân tích số liệu GDP từ phương pháp sản xuất và phương pháp sử dụng, họ nhận thấy hoạt động ngân hàng và dịch vụ nhà tự có tự ở của dân cư chưa được phản ánh đầy đủ trong GDP. Điều này có nghĩa là mặc dù đã làm đúng quy trình, nhưng từ trước đến năm 2012, có thể thấy, hóa ra Tổng cục Thống kê vẫn tính sai GDP!
 
- Tại các Kỳ họp cuối năm, Quốc hội cân nhắc và biểu quyết chỉ tiêu tăng trưởng GDP cho năm tới, hoặc cho giai đoạn 5 năm tiếp theo. Theo Ông, có nên đưa tăng trưởng GDP thành chỉ tiêu pháp lệnh như vậy hay không?
- Câu trả lời phụ thuộc vào việc chỉ tiêu GDP có thực sự là pháp lệnh không, Chính phủ có bị trừng phạt khi không thực hiện được chỉ tiêu này hay không?
 
Nếu câu trả lời là có thì theo tôi không nên coi chỉ tiêu GDP là chỉ tiêu pháp lệnh. Có nhiều biến số kinh tế không thuộc phạm vi kiểm soát, điều chỉnh được bởi Chính phủ. Bản thân việc lập ra mục tiêu tăng trưởng GDP của Quốc hội cũng đa phần là định tính nên sẽ là không công bằng lắm khi bắt buộc Chính phủ phải thực hiện được chỉ tiêu này bằng mọi giá, chưa kể những hậu quả xấu lên môi trường, lên bất ổn vĩ mô và xã hội một khi Chính phủ phải hoàn thành kế hoạch này.
 
Còn nếu câu trả lời là không thì tính pháp lệnh của chỉ tiêu này không còn quan trọng nữa. Và thực tế thường là khả năng này, khi Chính phủ luôn có lý do để giải trình, trình bày với Quốc hội để xin giảm chỉ tiêu tăng trưởng GDP mỗi khi có khả năng không hoàn thành, và Quốc hội thường sau một hồi nâng lên đặt xuống thì cũng nhất trí cao với đề xuất của Chính phủ cho giảm chỉ tiêu tăng trưởng. 
 
GDP không phản ánh được mặt trái của tăng trưởng
- GDP ở nước ta được coi là chỉ số đo lường kết quả kinh tế quan trọng nhất của địa phương cũng như cả nước. Các nước khác có quan niệm như vậy không, thưa Ông?
- Theo Tổng cục Thống kê, có một số nước cũng áp dụng tính GDP cho địa phương. Trong số các nước đó thì tôi biết Trung Quốc vẫn đang duy trì từ lâu việc tính GDP cho các địa phương, và có lẽ chỉ duy nhất Trung Quốc và Việt Nam coi trọng chỉ tiêu GDP địa phương, thậm chí lấy đó làm thước đo chính đánh giá mức độ thành công của các địa phương này, cũng như mức độ hoàn thành nhiệm vụ và là cơ sở để đề bạt, thăng chức cho cán bộ lãnh đạo các địa phương đó.
 
Các nước khác, chỉ có một chỉ tiêu GDP cho cả nền kinh tế, cũng vẫn có xu hướng coi trọng tốc độ tăng trưởng GDP. Tăng trưởng GDP chậm lại, hoặc nghiêm trọng hơn, tăng trưởng âm trong quý nào đó thì lập tức chính quyền phải đau đầu họp bàn, tìm nguyên nhân và giải pháp khắc phục. Thậm chí GDP trồi sụt sẽ là cơ sở để một đảng nào đó lên cầm quyền hoặc ra đi, và các thị trường tiền tệ tài chính chao đảo. Điều này chứng tỏ rằng hiện nay và trong thời gian sắp tới, chỉ tiêu GDP vẫn có sức chi phối rất lớn đến hoạch định chính sách của nhà cầm quyền và sự chú ý của xã hội.
 
- Có nghĩa GDP vẫn là một chỉ tiêu quan trọng, thưa Ông?
- Theo tôi, trong bối cảnh các nước chưa thống nhất, chưa tìm được một chỉ tiêu thay thế cho GDP để đánh giá hiệu quả mức độ thịnh vượng, sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế thì GDP vẫn sẽ tồn tại và là một chỉ tiêu quan trọng hàng đầu cần xem xét trong hoạch định chính sách của Chính phủ. Nhưng tôi nhắc lại rằng chỉ tiêu GRDP như ở Việt Nam và Trung Quốc là không cần thiết, cần loại bỏ, ít nhất chừng nào chưa khắc phục được những lý do chính làm cho nó không chính xác như nói ở trên.
 
- Như vậy, việc có một thước đo GDP chính xác có ý nghĩa như thế nào?
- Nếu GDP được tính chính xác thì đương nhiên nó sẽ là thước đo tốt nhất (tính đến hiện tại) sự thịnh vượng và phát triển của một quốc gia theo thời gian. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng hiện nay có một số nước, một số tổ chức lên tiếng kêu gọi thế giới tìm kiếm và xây dựng một vài chỉ tiêu thay thế GDP, với những lý do như GDP không phản ánh được những mặt trái của câu chuyện tăng trưởng kinh tế như giãn cách giàu nghèo tăng lên, hủy hoại môi trường để chạy theo con số tăng trưởng GDP, sự không hài lòng, bất hạnh của người dân trong một xã hội chạy theo chủ nghĩa vật chất v.v...
 
Ngay ở Trung Quốc, gần đây đã có một số địa phương, đặc biệt những nơi có tỷ lệ người nghèo khổ lớn và ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, chuyển sang dùng những chỉ tiêu thay thế cho GDP địa phương, như chỉ tiêu xóa đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường, lấy đó làm cơ sở đánh giá cán bộ lãnh đạo địa phương. Kinh nghiệm của Trung Quốc cũng là điều nên tham khảo cho một số địa phương của Việt Nam.
 
- Xin cảm ơn Ông!
Hồng Loan thực hiện

Thursday 14 August 2014

Nên mạnh tay tái cơ cấu các đơn vị sự nghiệp công lập (Bài đăng trên TBKTSG, ngày 14/8/2014, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/118798/Nen-manh-tay-tai-co-cau-cac-don-vi-su-nghiep-cong-lap.html

Đặc tính chung của các đơn vị sự nghiệp công lập, hưởng ngân sách là người làm việc không có mấy động cơ làm việc tận tụy, vì thu nhập được xây dựng trên cơ sở của và bị khống chế bởi thang lương, bảng lương do nhà nước quy định cứng nhắc. Còn các đơn vị sự nghiệp thì có xu hướng đẻ ra thêm về số lượng, phình to ra về biên chế vì không có động cơ cắt giảm chi phí, mà chỉ cần giải trình xin được ngân sách là sống khỏe.

Nên sẽ không có gì là ngạc nhiên khi, trái ngược với xu hướng co hẹp lại của khối doanh nghiệp nhà nước (DNNN), khu vực đơn vị sự nghiệp đã không những không giảm mà còn tăng mạnh trong những năm qua. Cụ thể, theo Tổng cục Thống kê, số lượng các đơn vị sự nghiệp tăng từ 63.054 đơn vị năm 2007 lên đến 69.735 đơn vị năm 2012, loại trừ mức tăng của ngành y tế và giáo dục thì con số đơn vị sự nghiệp khác vẫn tăng mạnh từ 8.770 lên 11.341 đơn vị. Đi kèm với việc phình to về quy mô đương nhiên là gánh nặng bao cấp đè lên ngân sách.

Về giá dịch vụ do các đơn vị sự nghiệp cung cấp các dịch vụ công, về cơ bản là do hoặc dựa trên mức nhà nước quy định. Giá này thường hoặc là thấp hơn giá thị trường (để đảm bảo sự tiếp cận cho các đối tượng thu nhập thấp) hoặc là cao hơn giá thị trường (có thể vì được hưởng sự độc quyền trong khu vực địa lý hoặc trong phạm vi ngành nghề). Với trường hợp giá thấp hơn giá thị trường (chẳng hạn dịch vụ y tế, đào tạo), nhà nước phải bao cấp và bù lỗ, và như thế có nghĩa là kể cả đối với những đối tượng có thu nhập cao hơn cũng được bao cấp. Với trường hợp giá dịch vụ cao hơn giá thị trường (chẳng hạn giá các dịch vụ bến xe, cảng, sân bay), chi phí và sức cạnh tranh của các người dân và doanh nghiệp bị ảnh hưởng.

Về chất lượng dịch vụ do các đơn vị sự nghiệp cung cấp, nhìn chung là yếu kém, không có động lực được cải thiện trong hầu hết các trường hợp, do hoặc được bao cấp hoặc được độc quyền. Với những dịch vụ được bao cấp về giá (và chi phí), các đơn vị sự nghiệp và người lao động không cần, không có động lực phấn đấu nâng chất lượng và giảm giá thành dịch vụ của mình. Tương tự, với những dịch vụ mang tính độc quyền nhà nước, chất lượng và chi phí dịch vụ cũng không được chú trọng cải thiện vì người dân và doanh nghiệp không có lựa chọn nào khác.

Về số lượng và phạm vi dịch vụ cung cấp bởi các đơn vị sự nghiệp, thực tế xã hội phát triển và thay đổi có thể làm nảy sinh những nhu cầu dịch vụ mới và co hẹp những dịch vụ hiện tại do các đơn vị sự nghiệp cung cấp. Nhưng sự cứng nhắc trong các ràng buộc về cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập làm cho các dịch vụ mới phát sinh không được đáp ứng một cách hiệu quả, còn các dịch vụ có xu hướng bị đào thải cũng không được “chôn” một cách hiệu quả (chẳng hạn đóng cửa, giải thể hoặc chuyển đổi ngành nghề các đơn vị cung cấp những loại hình dịch vụ này), ít gây phí tổn cho ngân sách và toàn xã hội.

Để khắc phục tất cả những hạn chế và tồn tại nói trên, cần cấp thiết cải tổ, sắp xếp, xốc lại và cổ phần hóa, “doanh nghiệp hóa”, “thị trường hóa” tất cả các đơn vị sự nghiệp công lập và dịch vụ của chúng. Đây cần được coi là nhiệm vụ cấp bách, đặc biệt trong bối cảnh ngân sách đang phải gắng sức gồng mình mà thâm hụt dường như chỉ có tăng.

Tuy vậy, so với việc tái cơ cấu DNNN, việc tái cơ cấu các đơn vị sự nghiệp công lập hầu như chưa có động tĩnh gì đáng kể. Quá trình này có lẽ được khởi động rõ nét nhất với dự thảo trước đây của Bộ Tài chính về “Quy chế thí điểm chuyển đơn vị sự nghiệp công lập có thu thành công ty cổ phần”.  Nhưng rốt cuộc dự thảo này bị bỏ ngang không rõ lý do. Có phân tích đã chỉ ra rằng do mọi người chỉ chú ý đến một đối tượng “sự nghiệp công lập có thu” là các trường đại học, nên đa phần ý kiến là phản đối và vì thế dự thảo bị rút lại.

Hồi tháng 4 năm nay Bộ Tài chính lại đưa ra dự thảo tương tự, nhưng với đối tượng hạn hẹp hơn: Quyết định về thí điểm chuyển đổi một số đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc thành công ty cổ phần khi cổ phần hóa các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước. Theo đó, dự thảo này giới hạn đối tượng cổ phần hóa chỉ là các đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước được cổ phần hóa, chứ không phải là các đơn vị sự nghiệp công lập có thu chung chung.

Có thể thấy đây chỉ là một bước đi bắt buộc. Dự thảo này lựa chọn đối tượng là các đơn vị sự nghiệp công lập có thu trực thuộc các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước được cổ phần hóa rất có thể đơn giản vì khi các tập đoàn và tổng công ty đưa ra cổ phần hóa thì các công ty, đơn vị con của chúng không thể để tồn tại như hiện tại được, tức cũng phải cổ phần hóa theo (thậm chí là trước khi cổ phần hóa tập đoàn và tổng công ty mẹ).

Mới đây nhất, chính phủ đã bắt tay xây dựng Nghị định thay thế Nghị định 43/2006/NĐ-CP về đổi mới cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập, nhằm tạo lộ trình xoá bỏ bao cấp nhà nước qua giá, phí dịch vụ sự nghiệp công như hiện nay theo hướng tính đủ tiền lương, chi thường xuyên phù hợp với khả năng của NSNN và thu nhập của người dân, đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các đơn vị sự nghiệp nói chung, đồng thời chấp nhận giải thể các đơn vị sự nghiệp công lập không hiệu quả. Nhà nước sẽ tiến tới đấu thầu, đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công dựa trên cơ sở định mức kinh tế, kỹ thuật. Để đảm bảo công bằng cho đối tượng chính sách, Nhà nước sẽ hỗ trợ trực tiếp khi đối tượng này sử dụng dịch vụ sự nghiệp công.

Tuy nhiên, dự thảo Nghị định trên mới chỉ đề cập chủ yếu đến việc tự do hóa giá dịch vụ công lập, tức là, về nghĩa đen, nâng giá dịch vụ công lập lên bằng giá thị trường cho các loại hình dịch vụ đó. Điều này mới chỉ giải quyết được một phần trong những vấn đề tồn tại nói trên liên quan đến các đơn vị sự nghiệp công lập. Nó sẽ không giải quyết được triệt để những vấn đề khác, ví dụ như tình trạng độc quyền trong cung cấp dịch vụ với giá độc quyền, sự thiếu vắng cạnh tranh giữa các đơn vị sự nghiệp với các doanh nghiệp/đơn vị phi nhà nước trong cùng lĩnh vực, và về gánh nặng ngân sách nhằm duy trì hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập này v.v...

Bởi vậy, giải pháp về lâu dài và cơ bản nhất cho khu vực này vẫn là phải tích cực “doanh nghiệp hóa” các đơn vị sự nghiệp công lập, tự do hóa thị trường dịch vụ công lập, song song với duy trì và tăng cường các chính sách xã hội trợ giúp cho các đối tượng cần trợ giúp trong việc sử dụng các dịch vụ đang được cung cấp bởi các đơn vị sự nghiệp công lập.

Wednesday 13 August 2014

Khi người lao động sợ tăng lương! (Bài đăng trên TBKTSG, 14/8/2014, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/118817/Khi-nguoi-lao-dong-so-tang-luong!.html

Thoạt nghe tưởng là chuyện đùa, vậy mà người lao động ở Việt Nam hiện nay lại sợ được tăng lương!

Ngày 6/8 vừa qua, Hội đồng tiền lương quốc gia đã thống nhất phương án tăng lương tối thiểu khối doanh nghiệp lên 15,1% so với năm 2014 để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. 
Phản ứng với tin tức tưởng như tốt lành này, báo chí đã đưa tin không ít người lao động bày tỏ nguyện vọng “xin” nhà nước đừng tăng lương! Lý do chung được đưa ra là lương được tăng lên một ít nhưng giá cả “té nước theo mưa” tăng lên còn nhiều hơn, càng làm cho đời sống công nhân khốn khó hơn. Một số người lao động khác thì cho rằng tăng lương tối thiểu chỉ làm tăng gánh nặng đóng bảo hiểm xã hội, vì mức đóng bảo hiểm xã hội họ phải đóng hàng năm đều tăng lên về tỷ lệ và lại dựa vào mức lương tối thiểu, trong khi thu nhập của họ dựa vào hệ số nhân với lương cơ bản (1,150 triệu đồng), là thứ không đổi, nên quy ra thu nhập vào tay họ hàng tháng lại giảm đi.

Thực ra, những lý do trên nếu được viện dẫn ra để phản đối tăng lương tối thiểu thì hơi... oan cho (việc tăng) lương tối thiểu. Cụ thể, lương tối thiểu hiện nay, kể cả có được tăng như đề xuất thì vẫn được thừa nhận là thấp hơn mức đảm bảo cho người lao động một mức sống tối thiểu. Như thế, nếu cứ chiểu theo quy luật cung cầu thì có lẽ chỉ có một rất ít ngành, bộ phận doanh nghiệp, vẫn trả lương bằng hoặc thấp hơn lương tối thiểu cho một bộ phận công việc, một bộ phận lao động ở một số nơi nào đó. Trong khi đó, lương thực tế của người lao động đa phần hoặc là dựa vào lương cơ bản nhân với hệ số nào đó hoặc là được trả theo công việc, theo sản phẩm, lương khoán do thị trường quyết định và thường cao hơn lương tối thiểu (đơn giản vì không ai đi làm trong một thời hạn đủ lâu mà chỉ để hưởng một mức lương chết đói). Vì vậy, nếu có một bộ phận nào đó được tăng lương thực tế do tăng lương tối thiểu thì số này chỉ như muối bỏ bể, không thể gây ảnh hưởng lớn đến cung-cầu hàng hóa và thu nhập làm giá cả tăng “té nước theo mưa” như nhiều người vẫn quy kết.

Ngoài ra, phần tiền lương tăng thêm này là do doanh nghiệp trả, trích từ lợi nhuận hoặc chi phí hoạt động của họ, chứ không phải xin/lấy từ ngân sách để rồi nghĩ rằng nhà nước in tiền để trả lương, làm tăng lạm phát (vì cung tiền tăng). Có chăng là sự trùng hợp ngẫu nhiên nào đó giữa thời điểm tăng lương với sự tăng lên của giá cả ở một số nơi, một số mặt hàng nên làm cho người lao động có ấn tượng rằng hễ cứ tăng lương là giá cả sẽ tăng theo.

Về chuyện thu nhập ròng giảm đi sau đóng bảo hiểm do tiền lương tối thiểu tăng cũng tương tự. Đúng là thu nhập còn lại của người lao động sau đóng bảo hiểm giảm đi, nhưng phần đóng góp bảo hiểm này không bị ai lấy đi mất, mà nó là cơ sở để tính lương hưu và các chế độ phúc lợi khác cho người lao động sau này. Tuy nhiên, vẫn phải thừa nhận rằng mặc dù hiểu được nguyên tắc trích nộp bây giờ càng nhiều thì sau này hưởng càng nhiều nhưng nhiều người lao động vẫn muốn cầm ngay tiền trong tay để chi cho đủ thứ nhu cầu cấp thiết trước mắt mà không muốn đợi đến một ngày nào đó xa xôi.

Xét như trên thì có thể nói tăng lương tối thiểu là vô hại với đa phần người lao động hiện nay. Nhưng ngược lại, liệu lương tối thiểu và tăng lương tối thiểu có cần thiết?
Lương tối thiểu thường được nhiều nước quy định nhằm đảm bảo cho người lao động không bị giới chủ bóc lột đến mức phải sống một cuộc sống dưới mức tối thiểu, cơ bản. Trở lại với ví dụ trên, sẽ có thêm một bộ phận người lao động ở Việt Nam đang được hưởng mức (bằng hoặc thấp hơn) lương tối thiểu, dù có thể là không đáng kể, được hưởng lợi nhờ tăng lương tối thiểu.

Tuy nhiên, lương tối thiểu nhiều lúc sẽ làm cho thị trường lao động xơ cứng, kém linh hoạt, không kịp điều chỉnh kịp thời với những diễn biến về cung và cầu lao động. Chẳng hạn, khi thị trường lao động nóng lên, tức công ăn việc làm dồi dào do nền kinh tế đang tăng trưởng mạnh, thì sẽ có ít nhà tuyển dụng dám trả cho người lao động một mức lương dưới hoặc bằng mức cơ bản nếu không muốn đánh mất nhân công. Nói cách khác, trong trường hợp này, quy định lương tối thiểu (và tăng lương tối thiểu) là không cần thiết vì thị trường tự điều chỉnh được.

Ngược lại, khi nền kinh tế trầm lắng, thất nghiệp có xu hướng gia tăng, tiền lương cơ bản, đặc biệt nếu được xác định ở mức khá cao như khi nền kinh tế vẫn còn thịnh vượng, sẽ là rào cản để tạo thêm công ăn việc làm, để giới làm thuê gặp được giới chủ vì lúc này giới chủ phải tính toán và cắt giảm tối đa chi phí, trong đó có chi phí nhân công, để tồn tại và cạnh tranh được. Trước áp lực thất nghiệp và nghèo đói, nhiều người lao động sẵn sàng chấp nhận một mức lương thấp hơn cả lương tối thiểu. Như thế cũng có nghĩa là lương tối thiểu (và tăng lương tối thiểu) là không cần thiết trong hoàn cảnh này.

Mặt khác, như thừa nhận của Hội đồng Tiền lương Quốc gia, lương tối thiểu (sau tăng) vẫn thấp hơn mức/nhu cầu sống tối thiểu. Giải thích chuyện này, hội đồng cho rằng cần phải có một lộ trình tăng lương tối thiểu nhằm đáp ứng 100% nhu cầu sống tối thiểu. Nhưng mục đích này vẫn có thể đạt được bằng cách xây dựng và công bố mức/nhu cầu sống tối thiểu hiện nay (và cơ chế điều chỉnh nó theo thời gian, vì những lý do chẳng hạn như lạm phát) và thông báo trước cho giới doanh nghiệp lộ trình cụ thể năm nào sẽ áp dụng mức lương tối thiểu này, mà không cần phải áp dụng “thí điểm” một mức lương tối thiểu “lửng lơ” ngay từ bây giờ chỉ nhằm để làm cho giới chủ “quen” với sự tăng lên theo lộ trình của lương tối thiểu.

Và hiện tại, với những người lao động đang bị trả lương ở mức tối thiểu (tức thu nhập quá thấp, có thể xác định thuộc diện nghèo) thì có thể giải quyết thông qua những biện pháp trợ cấp xã hội khác, chứ không sợ bị xã hội bỏ mặc.

Tóm lại, lương tối thiểu không phải là điều nhất thiết phải có. Và tăng lương tối thiểu như hiện nay nếu có thì chỉ gây ra một tác động tích cực hạn chế đến một bộ phận thiểu số người lao động, trong khi sẽ là một cái vòng kim cô trên thị trường lao động, ngăn không cho cung và cầu lao động tự do gặp nhau. Còn nếu vẫn muốn áp dụng lương tối thiểu và tăng lương tối thiểu thì chỉ nên làm vậy khi đã có mức sống tối thiểu/cơ bản theo lộ trình một thời gian sau này.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).