Friday 31 October 2014

Rủi ro của việc tư nhân hóa cơ sở hạ tầng giao thông có thu phí (Bài đăng trên TBKTSG Online, 31/10)

http://www.thesaigontimes.vn/122090/Rui-ro-cua-viec-tu-nhan-hoa-co-so-ha-tang-giao-thong-co-thu-phi.html

Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) đang dự tính bán năm tuyến đường cao tốc (TPHCM - Long Thành - Dầu Giây, Cầu Giẽ - Ninh Bình, Nội Bài - Lào Cai, Bến Lức - Long Thành và Đà Nẵng - Quảng Ngãi) cho nhà đầu tư nước ngoài.

Chưa dừng ở những con đường cao tốc, Bộ GTVT còn có chủ trương bán cả quyền khai thác sân bay, cảng biển, đường thủy... mà đối tượng chủ yếu là nước ngoài do họ có tiềm lực tài chính.
 
Thông tin này lập tức thu hút sự chú ý của dư luận. Lợi ích rõ ràng và dễ thấy nhất của việc tư nhân hóa này là Nhà nước sẽ thu về những khoản vốn lớn dùng để đầu tư và phát triển các dự án cơ sở hạ tầng cấp thiết khác trong bối cảnh ngân sách thâm hụt và nợ công lớn.
 
Thực ra, chủ trương tư nhân hóa cơ sở hạ tầng giao thông có thu phí không phải là ý tưởng mới, ngay cả ở Việt Nam. Ví dụ, từ năm 2003, Bộ GTVT đã đề nghị cho phép bán đấu giá quyền khai thác cảng biển (Cái Lân) và các công ty tư nhân có thể tham gia đấu giá.
 
Chủ trương tư nhân hóa cơ sở hạ tầng giao thông có thu phí có thể khiến dư luận lo ngại vì hai lý do chính, việc đi lại của người dân sẽ chịu sự chi phối của nhà quản lý người nước ngoài trên chính lãnh thổ Việt Nam; và nhà quản lý người nước ngoài sẽ có xu hướng tăng liên tục phí sử dụng hạ tầng, gây thiệt hại cho dân chúng. 
 
Về lý do thứ nhất, có thể thấy sự lo ngại của dư luận là không xác đáng. Dù một tuyến đường cao tốc nào đó nằm trong tay hoặc dưới sự quản lý của người nước ngoài thì mọi đối tượng thỏa mãn được những điều kiện an toàn trong sử dụng tuyến đường đó, và tất nhiên là... có tiền và sẵn sàng trả phí sử dụng thì sẽ được lưu thông trên tuyến đường đó mà không bị trở ngại nào (nếu có thì có quyền kiện người quản lý tuyến đường).
 
Ngược lại, cho dù có nằm trong tay nhà nước, nếu người sử dụng tiềm năng không đáp ứng được những điều kiện này thì cũng không cứ thế mà được tự do đi lại.
 
Về lý do tăng phí, thực tế và chắc chắn các hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu và quyền khai thác cơ sở hạ tầng đều có những điều khoản ràng buộc để nhà đầu tư (cả người nước ngoài) không phải cứ muốn tăng phí là tăng, và tăng bao nhiêu cũng được. Điều này sẽ được nói thêm như dưới đây.
 
Nhìn rộng ra trên thế giới, chuyện chính quyền tư nhân hóa cơ sở hạ tầng giao thông có thu phí, thông qua hình thức bán hoặc cho thuê có kỳ hạn cho nhà đầu tư tư nhân (kể cả cho người nước ngoài) quyền khai thác cơ sở hạ tầng này không phải là chuyện hiếm, nhất là khi chính quyền đó đang mắc kẹt trong nợ nần và nhu cầu tài trợ khổng lồ cho các dự án phát triển hạ tầng.
 
Trong bối cảnh khó khăn về tài chính, nhất là việc chạy theo thành tích để giành điểm trong con mắt cử tri, nhiều chính quyền sẵn sàng tư nhân hóa các tài sản cơ sở hạ tầng thuộc sở hữu nhà nước để lấy vốn phát triển các dự án khác, đánh đổi lợi ích ngắn hạn (thành tích) của họ lấy gánh nặng tài chính dài hạn để lại cho người dân ở những thế hệ sau.
 
Một trong những ví dụ điển hình cho việc tư nhân hóa cơ sở hạ tầng giao thông là chuyện chính quyền bang Indiana, Mỹ, cho thuê quyền khai thác tuyến đường cao tốc thu phí Indiana Toll Road dài 157 dặm vào năm 2006 trong thời hạn 75 năm cho một liên doanh nước ngoài giữa Macquarie Group (Úc) và Cintra (Tây Ban Nha) với giá trả ngay một lần là 3,8 tỉ đô la Mỹ. Tất nhiên, liên doanh này có nghĩa vụ duy tu và nâng cấp tuyến đường này trong suốt thời hạn thuê.
 
Cho đến tận gần đây vẫn còn tranh cãi việc cho thuê quyền khai thác này là tốt hay xấu đối với chính quyền bang Indiana và người dân sử dụng tuyến đường. Trong khi có một số người cho rằng hai bên tham gia liên doanh trên đã phải trả giá quá cao cho chính quyền bang, thì nhiều người khác lại chỉ ra thực trạng là phí đi lại trên tuyến đường này đã và sẽ ngày càng đắt đỏ hơn kể từ liên doanh trên nắm quyền khai thác (trước khi về tay liên doanh thì mức phí đường đã giữ nguyên trong suốt hai thập kỷ trước đó).
 
Theo thỏa thuận, liên doanh này được phép tăng phí hàng năm theo một trong ba mức, tùy theo mức nào là lớn nhất: tăng ở mức cố định 2%, tăng theo chỉ số lạm phát CPI, và tăng theo tốc độ tăng trưởng GDP. Như vậy, bất luận trong trường hợp nào, bất luận chất lượng đường sá và dịch vụ thế nào và bất luận nền kinh tế và thu nhập của người dân có suy giảm hay không... thì người dân sử dụng tuyến đường này cầm chắc sẽ phải trả mức phí đường năm sau cao hơn năm trước tối thiểu là 2%.
 
Mức tăng theo cấp số nhân này sẽ trở nên thành gánh nặng tài chính lớn sau một hoặc vài thập kỷ nữa (cụ thể, tăng thêm 22%, 49% và 81% lần lượt sau 10, 20 và 30 năm nữa). Vì thế, điều khoản này đang được nhìn nhận là điều bất lợi, đáng tiếc trong hợp đồng mà chính quyền bang ký với liên doanh trên.
 
Tương tự như vậy, nếu việc khai thác các dự án cơ sở hạ tầng ở Việt Nam có được tư nhân hóa thì chắc chắn các nhà đầu tư tiềm năng sẽ đòi hỏi cho được điều khoản ràng buộc về một mức tăng phí định kỳ có lợi cho mình để đánh đổi lấy sự mạo hiểm đầu tư của họ.
 
Tuy nhiên, cũng cần phải nói rằng nếu Nhà nước tiếp tục quản lý và khai thác các dự án này thì việc tăng phí trong suốt vòng đời dự án là điều khó tránh khỏi (ít nhất vì lý do lạm phát), tuy có thể không đều đặn hàng năm như với trường hợp tư nhân hóa. (Dù vậy, dưới sự quản lý và khai thác của Nhà nước thì việc tăng phí sẽ được cân nhắc thận trọng vì lo ngại tác động tiêu cực của việc tăng phí này lên lạm phát và phản ứng của dư luận, và như thế thì người dân sử dụng vẫn có lợi hơn so với trường hợp tư nhân hóa).
 
Chưa kể, trong các giao dịch tư nhân hóa cơ sở hạ tầng như thế này, bao giờ phía nhà đầu tư cũng đòi hỏi (và thường được chấp nhận như một thông lệ để hấp dẫn họ) những điều khoản phòng tránh rủi ro, đảm bảo thu nhập chắc chắn cho họ, gây bất lợi cho nhà nước, tức cho ngân sách công cộng.
 
Ví dụ, trong trường hợp đường cao tốc ở Indiana nói trên, trong những trường hợp bất khả kháng làm thiệt hại cho liên doanh như lụt lội buộc phải cho phép người sử dụng được đi lại miễn phí vì lý do an toàn, chính quyền phải bồi thường cho nhà đầu tư khoản phí thất thoát do biến cố này. Hoặc có điều khoản quy định chính quyền phải bồi thường phần thu nhập dự tính bị mất đi cho nhà đầu tư nếu chính quyền cho xây hoặc cải tạo một con đường khác trong cự ly quy định, kéo bớt khách sử dụng tuyến đường của nhà đầu tư đó.
 
Khi Nhà nước bảo đảm một khoản thu nhập chắc chắn cho nhà đầu tư trong một thời gian dài (vĩnh viễn hoặc nhiều chục năm), việc này sẽ tước đi quyền lựa chọn những khả năng khác, cũng như làm thiệt hại về tài chính cho nhiều thế hệ con em trong tương lai.
 
Và đây là điều cần được nhận thức rõ ràng trong kế hoạch tư nhân hóa cơ sở hạ tầng ở Việt Nam.

Wednesday 29 October 2014

Hạ lãi suất - cần hiểu cho đúng (Bài đăng trên TBKTSG Online, 29/10, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/122008/Ha-lai-suat---can-hieu-cho-dung.html

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hôm 28/10 lại một lần nữa hạ trần lãi suất để, theo như bình luận của nhiều tổ chức và cá nhân, thúc đẩy nhu cầu tín dụng, và nhờ đó, kích thích tăng trưởng kinh tế.
Có điều, không mấy ai để ý rằng bản chất của việc hạ lãi suất này của NHNN là khác hoàn toàn với việc hạ lãi suất của các ngân hàng trung ương thế giới nhằm kích thích tăng trưởng và việc làm.

Như đã biết, NHNN tuyên bố từ ngày 29/10 sẽ điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi tối đa bằng VND của các tổ chức, cá nhân tại các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài từ mức 6%/năm xuống 5,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 đến 6 tháng, điều chỉnh giảm lãi suất huy động ngắn hạn tối đa bằng USD của cá nhân tại các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài từ mức 1%/năm xuống còn 0,75%/năm. Đồng thời, NHNN giảm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với một số lĩnh vực, ngành kinh tế từ mức 8%/năm xuống 7%/năm. Nhưng mặt khác, NHNN lại giữ ổn định các mức lãi suất điều hành (tái cấp vốn, tái chiết khấu, cho vay qua đêm).

Như vậy, trái với hành động cắt giảm lãi suất thông qua cắt giảm các lãi suất điều hành như thông thường, ở trường hợp ngân hàng trung ương các nước khác, NHNN không cắt giảm lãi suất điều hành, mà thực hiện thông qua việc bắt các ngân hàng thương mại cắt giảm lãi suất huy động (ngắn hạn) của họ. Có mấy điểm đáng nói về chuyện này.
Thứ nhất, do nhiều ngân hàng thương mại đã chủ động hạ lãi suất huy động trước đó do dư thừa thanh khoản (cũng một phần do nhu cầu vay của doanh nghiệp và dân cư còn hạn chế), nên việc NHNN hạ trần lãi suất huy động, mà lại chỉ ở kỳ hạn ngắn, sẽ không có mấy tác dụng đến việc hạ thêm mặt bằng lãi suất huy động ngắn hạn nói riêng và lãi suất huy động nói chung, và bởi vậy không hy vọng nhiều vào việc giảm lãi suất cho vay nói chung nhằm kích thích tăng trưởng như ý đồ.

Thứ hai, việc tiếp tục hạ và vẫn tiếp tục duy trì trần lãi suất tiền gửi, chứ không phải thông qua việc hạ lãi suất  điều hành của NHNN, nhằm hạ lãi suất cho vay thực chất là một cách tước đoạt tài sản của người này chia cho người khác, mà cụ thể ở đây là tước bớt thu nhập lẽ ra được hưởng của người gửi tiền tiết kiệm để trợ cấp cho các ngân hàng thương mại với hy vọng các ngân hàng chia sẻ lợi ích này cho doanh nghiệp và cá nhân vay vốn ngân hàng. Vậy thì tại sao người gửi tiền nhất định phải là đối tượng bị mang ra để hiến tế? Và ai, điều gì ngăn cấm các ngân hàng không hạ lãi suất cho vay để làm "ngư ông đắc lợi"? Hay nói cách khác, điều gì có thể giúp khẳng định được rằng lãi suất cho vay sẽ hạ (tương ứng) để kích thích tăng trưởng như kỳ vọng của NHNN?
Thứ ba, trong bối cảnh thanh khoản đang dư thừa và nhiều ngân hàng đã chủ động hạ lãi suất huy động ngắn hạn thì việc NHNN tiếp tục duy trì trần lãi suất huy động nếu có chăng chỉ là có tác dụng trừng phạt các ngân hàng nhỏ, yếu, ít uy tín và có vấn đề về thanh khoản, buộc chúng phải cạnh tranh với các đối thủ mạnh hơn bằng việc nâng lãi suất huy động. Như thế thì việc trừng phạt này là một bất công với các ngân hàng yếu thế hơn khi họ không thể cải thiện tính cạnh tranh bằng nâng lãi suất, một lẽ tự nhiên cuả quy luật thi trường. Nếu đúng thế thì tốt nhất là NHNN dẹp luôn các ngân hàng yếu thế này đi cho nhẹ gánh, chứ cứ để chúng tồn tại một cách lay lắt như vậy thì sớm muộn NHNN cũng lại phải nhảy vào giải quyết hậu quả khi chúng đã từ yếu trở nên yếu hơn nữa!

Thứ tư, xét về tổng thể, hạ trần lãi suất huy động không nhất thiết làm tăng nhu cầu tín dụng và tăng trưởng kinh tế, vì, như đã nói ở điểm thứ hai bên trên, hạ trần lãi suất tức là tước đoạt bớt đi thu nhập của một bộ phận người gửi tiền, cũng tức là làm giảm một phần tổng cầu đến từ một bộ phận người gửi tiền do thu nhập của họ bị giảm đi tương ứng, từ đó làm triệt tiêu một phần hay hoàn toàn tác động tích cực có thể có lên tổng cầu nhờ việc ngân hàng chủ động hạ lãi suất cho vay do lãi suất huy động của họ đã giảm.
Thứ năm, đành rằng NHNN cũng song song với việc hạ trần lãi suất huy động là hạ trần lãi suất cho vay. Nhưng cần lưu ý rằng đây chỉ là trần lãi suất cho vay ngắn hạn, và cũng chỉ giới hạn ở một số lĩnh vực và ngành nhất định, chứ không phải là cho toàn bộ nền kinh tế. Bởi vậy, các ngân hàng tuy được lợi từ việc hạ thấp trần lãi suất huy động nhưng lại không bị ép buộc, và không có động cơ để hạ lãi suất cho vay (trong những lĩnh vực và ngành nghề không bị khống chế bởi trần lãi suất cho vay), hạ biên độ lợi nhuận của mình. Điều này cũng có nghĩa là ý đồ hạ trần lãi suất huy động của NHNN để hạ mặt bằng lãi suất cho vay nói chung trong nền kinh tế sẽ không có hiệu quả như ý muốn.

Tóm lại, xét trên nhiều khía cạnh, hành động hạ trần lãi suất huy động của NHNN vừa sẽ không thể mang lại kết quả tích cực đúng như kỳ vọng, lại vừa gây ra thêm một số hậu quả khác do sự phân biệt đối xử vô hình mà nó mang lại cho người gửi tiền và các ngân hàng nhỏ, yếu. Bằng chứng về tác động hạn chế của việc hạ trần lãi suất huy động cũng đã thể hiện không gì rõ hơn qua tốc độ tăng trưởng tín dụng vẫn tiếp tục lẹt đẹt ở những lần hạ trần lãi suất huy động trước đây và trong năm nay.

Friday 10 October 2014

Tắc thông quan điện tử - Tại hệ thống hay tại người?


Như TBKTSG đã đưa tin, hệ thống thông quan tự động VNACCS/VCIS (được xây dựng trong 2 năm bằng vốn ODA của Nhật Bản) bắt đầu được áp dụng từ ngày 1-4-2014, nhưng đã thường bị lỗi, gây ách tắc cho việc thông quan và làm hại nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Tuy chưa có một giải thích chính thức từ phía Tổng cục Hải quan về tình trạng hoạt động “tậm tịt” này nhưng TBKTSG đã trích lời của một quan chức hải quan khi vị này có lỗi là do sự không phù hợp của hệ thống này ở Việt Nam bởi Việt Nam khác với Nhật Bản! Ngay cả Bộ tài chính cũng cho rằng hệ thống thông quan tự động đang áp dụng tại Nhật bản khi triển khai tại Việt Nam trên nền tảng pháp lý của Việt Nam thì không tránh khỏi những khó khăn.

Vậy VNACCS/VCIS là cái gì và tại sao nó lại không hoạt động tốt ở Việt Nam?
VNACCS/VCIS là hệ thống thông quan tự động phiên bản Việt Nam được xây dựng trên mô hình hệ thống thông quan điện tử của Nhật (Nippon Automated Cargo and Port Consolidated System, NACCS), và hệ thống thông tin tình báo hải quan Nhật (Customs Intelligence Database System, CIS). Tập đoàn NTT Data là đơn vị chủ thầu, phối hợp với các chuyên gia của JICA, lắp đặt, đào tạo và chuyển giao hệ thống, công nghệ, và phần mềm cho Việt Nam.

Theo thông tin phía Nhật, ngoài những chức năng tương tự như hệ thống đang hoạt động tại Nhật, hệ thống thông quan tự động này của Việt Nam còn được “Việt hóa” khi có thêm những chức năng riêng cho Việt Nam, sau khi các chuyên gia Nhật nghiên cứu và đánh giá kỹ lưỡng khuôn khổ pháp luật, thông lệ và điều kiện ở Việt Nam. Chẳng hạn, hệ thống này thực hiện được việc thông quan điện tử (tự động) trên bộ (khác với của Nhật, chỉ có thông quan đường biển và đường hàng không, vì Nhật không có biên giới trên bộ với các quốc gia khác). Hệ thống này cũng cho phép dùng chữ ký điện tử theo quy định trong Luật giao dịch thương mại điện tử. Ngoài ra, hệ thống này cũng được kết nối với hệ thống hải quan hiện tại của Việt Nam được dùng trong việc thu thuế và xác định thuế hải quan.
Ngoài chuyện “Việt hóa”, phía Nhật cũng nhấn mạnh đến việc đào tạo cán bộ hải quan Việt Nam trong các đợt tập huấn trong và ngoài nước dưới sự hướng dẫn và giám sát của các chuyên gia nước ngoài. Bên cạnh đó, Tổng cục Hải quan đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm qua các cuộc thí điểm ứng dụng thông quan điện tử ở một số địa phương và trong một số ngành, với một số doanh nghiệp trong suốt 2 năm qua.

Tóm lại, với quá trình chuẩn bị và triển khai kỹ lưỡng thật khó có thể nói một cách đơn giản rằng do sự khác biệt giữa 2 nước, 2 nền tảng pháp lý nên hệ thống hoạt động không ổn định. Bản thân hệ thống này không đơn thuần là một phần cứng máy móc bất biến mà được điều khiển bởi những quy trình và phần mềm có thể thay đổi và điều chỉnh phù hợp, tùy theo yêu cầu sở tại.
Quay trở lại với bài báo trên TBKTSG trích dẫn lý giải của vị quan chức hải quan cho một số trường hợp trục trặc trong việc thông quan tự động. Lý do đầu tiên là sự khác biệt trong các hệ thống vệ tinh đi kèm như như hệ thống kế toán thuế, hệ thống quản lý rủi ro, giá, xử lý vi phạm. Đương nhiên là các hệ thống này ở Việt Nam sẽ khác (xa) với hệ thống tương tự của Nhật, và chuyện này chắc chắn sẽ được hình dung trước khi bắt tay ký kết thực thi dự án. Nhưng vì thế mới cần đến cả mấy năm trời để chuẩn bị, xử lý và giải quyết làm sao cho hệ thống vận hành xuyên suốt. Vẫn hợp tác, vẫn nghiệm thu và tất toán dự án kể cả khi các khác biệt này không được xử lý rốt ráo chứng tỏ có vấn đề ở những người tham gia dự án này (kể cả phía Nhật).

Lý do tiếp theo mà vị quan chức hải quan nêu ra là do hệ thống kế toán, theo dõi thu nợ thuế của Việt Nam chưa tích hợp với hệ thống VNACCS/VCIS. Đây rõ ràng cũng là một lỗi chủ quan của con người, mà cụ thể là những người thực thi dự án, chứ chẳng có liên hệ gì đến sự khác biệt giữa 2 quốc gia, 2 nền tảng pháp lý cả.
Ngay cả lý do Bộ tài chính đưa ra, cụ thể do phía Nhật chưa chuyển giao hết các chức năng, một số chức năng đã chuyển giao không phù hợp với pháp luật Việt Nam, và Việt Nam không được phép hiệu chỉnh các nội dung do Nhật thiết kế... cũng đều là những lỗi chủ quan, của những người thực hiện của cả 2 phía trong quá trình đàm phán, thiết kế và thực thi dự án.

Như vậy, có thể kết luận lại rằng nguyên nhân của tình trạng hoạt động “tậm tịt” của hệ thống VNACCS/VCIS chủ yếu là do những lỗi chủ quan, và là trách nhiệm của người trong cuộc, có thể vì một lý do sâu xa nào đó, chứ không thể đổ tại cho những lý do khách quan, chung chung như sự khác biệt giữa 2 quốc gia, 2 chế độ. Điều đáng nói là nạn nhân của tình trạng này – những doanh nghiệp xuất nhập khẩu – xem ra tiếp tục sẽ phải chịu trận dài dài nếu như  nếu những “sự khác biệt” này sẽ còn tiếp tục được viện dẫn để lẩn tránh trách nhiệm, hoặc, tệ hơn, để trục lợi.

Wednesday 8 October 2014

Xử lý nợ xấu nên như thế nào? (Bài đăng trên CafeF, 8/10)

 
Mới đây chính phủ đã chính thức đề nghị Quốc hội cho phép sử dụng ngân sách để xử lý nợ xấu của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Trước đó nữa, ông Phan Trung Lý, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật gợi mở vấn đề dân góp tiền xử ký nợ xấu theo kinh nghiệm của Hàn Quốc. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng nói gần nói xa đến việc các quốc gia khác sử dụng ngân sách lớn đến mức độ nào để xử lý nợ xấu qua những con số "khủng", trong khi Việt Nam thì không có 1% nào.
 
Những đề xuất kiểu như trên đã vấp phải phản ứng mạnh từ công luận. Thứ nhất, chúng vi phạm nguyên tắc đã được thống nhất rộng rãi trong xã hội rằng không sử dụng ngân sách để xử lý nợ xấu. Thứ hai, người dân thường rõ ràng chẳng liên quan gì đến, chẳng là nguyên nhân gây ra nợ xấu, mà nay kêu gọi dân chúng quyên góp để giúp các ông chủ ngân hàng, một trong những nguồn cơn gây nên cái họa nợ xấu, là điều không thể chấp nhận được.
 
Cũng cần lưu ý rằng người dân Hàn Quốc quyên góp tiền là để giúp Chính phủ trả món nợ đã vay của IMF để thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1998 chứ chẳng phải để giải quyết nợ xấu.
 
Thứ ba, nợ xấu có thực sự lớn đến mức đáng quan ngại, đến mức nếu không có sự "vào cuộc" của các nguồn lực của chính phủ (ngân sách) và của dân chúng (tiền quyên góp) thì nền kinh tế sẽ sụp đổ hay không là điều vẫn chưa rõ ràng. Cứ theo giải trình có tính làm yên lòng người nghe của Thống đốc NHNN trước Ủy ban kinh tế Quốc hội vừa qua thì tình hình nợ xấu xem ra không đến nỗi... xấu khi tỷ lệ nợ xấu chỉ khoảng vài phần trăm và tình hình xử lý nợ xấu đang khả quan với triển vọng giảm đáng kể nợ xấu vào cuối năm nay.
 
Nay đã có những đề xuất như trên có nghĩa là tình hình nợ xấu hoàn toàn không thể lạc quan như đã được cho biết. Trong bối cảnh của một đám cháy nhà hàng xóm có khả năng lan ra cả xóm thì mỗi nhà cũng phải ra tay cứu giúp, dù không trực tiếp gây ra đám cháy, việc kêu gọi dùng ngân sách hay "phản cảm" hơn, kêu gọi dân đóng góp, là điều có thể thông cảm được, và thậm chí cũng nên xem xét thực hiện. Nhưng để thực hiện thì phải vạch ra những nguyên tắc và quy trình rõ ràng, hợp lý.
 
Việc đầu tiên cần làm là phải công khai, minh bạch hóa toàn bộ các khoản nợ xấu và sẽ thành nợ xấu (do phân loại lại nghiêm túc hơn, do không che giấu, "treo" nữa), để biết chính xác mức độ nợ xấu có thực trong hệ thống ngân hàng, từ đó mới có căn cứ để bốc thuốc. Về chuyện này, xem ra có nhiều việc cần phải làm khi NHNN thỉnh thoảng lại cho ra một con số nợ xấu khác nhau, đôi khi gây giật mình như con số 500 ngàn tỷ mới tiết lộ gần đây; và chính phủ vẫn cho phép treo, khoanh các khoản nợ xấu của DNNN như Vinashin và Vinalines.
 
Việc cần làm thứ hai là thực hiện nguyên tắc ai làm thì người đó phải chịu trách nhiệm trước hết. Nếu là các khoản nợ xấu do ngân hàng cho vay theo chỉ đạo thì chính phủ phải chịu trách nhiệm. Trong trường hợp này, nếu cần thiết và có thể thì chính phủ phải dùng ngân sách để xóa nợ cho ngân hàng.
 
Nhưng để không tái diễn sau này sự vô trách nhiệm và yếu kém trong quản lý, điều hành thì những cá nhân và cơ quan chính phủ nào liên quan trực tiếp đến chỉ đạo cho vay gây hậu quả nợ xấu cần bị xử lý, quy trách nhiệm cá nhân và tập thể, chứ không thể đổ do lỗi khách quan, ví dụ như khủng hoảng kinh tế. Tương tự, lãnh đạo của những DNNN nào gây ra nợ xấu cũng cần bị quy trách nhiệm và xử lý nghiêm túc, chứ không thể đổ tại khủng hoảng kinh tế là xong. Với những doanh nghiệp "vô phương cứu chữa" thì phải cho phá sản để giải quyết dứt điểm tình trạng nợ nần, chứ không để mãi cái thây ma đó nhằm trốn trách nhiệm.
 
Nếu nợ xấu là do bản thân các ngân hàng và trong hệ thống ngân hàng tạo ra thì các ngân hàng phải là người gánh chịu hậu quả duy nhất. Thực tế, rõ ràng một phần lớn nợ xấu là do bản thân lãnh đạo và nhân viên ngân hàng tạo ra. Nên đương nhiên các ngân hàng phải trích lập dự phòng, cắt giảm lợi nhuận, và nếu vẫn không đủ thì dùng cả vốn chủ sở hữu mà xử lý. Trường hợp nếu vẫn không đủ (vốn chủ sở hữu là âm) thì cần cho ngân hàng này phá sản hoặc bị mua, sát nhập, hoặc NHNN tái cấp vốn và thay thế cơ cấu cổ đông.
 
Về nguồn lực và cách thức xử lý, cần đảm bảo nguyên tắc phát huy tối đa mọi công cụ hiện có, giảm thiểu việc dùng ngân sách và tiền rót ra từ NHNN. Phần lớn các ngân hàng hiện đều có các công ty chuyên xử lý nợ xấu (AMC) và Bộ tài chính cũng có AMC của mình là DATC. Các công ty này nên và phải phát hành trái phiếu để xử lý nợ xấu và mua bán nợ theo nguyên tắc mua đứt bán đoạn và tự chủ về tài chính. Việc đã trót tạo ra VAMC rồi thì hãy để nó hoạt động như một AMC khác, của NHNN, chứ không nên vì mục đích để nó tồn tại một cách có ý nghĩa hơn nhằm biện minh cho chủ trương thành lập ra nó nên trao cho nó những quyền lực đặc biệt mà các AMC khác không có.
 
Một trong những nguyên nhân làm cho các AMC và VAMC hoạt động không hiệu quả là các ràng buộc về pháp lý liên quan đến định giá, phát mại và mua bán lại tài sản thế chấp. Về điểm này, cần có một số động thái về pháp lý từ chính phủ và Quốc hội để khai thông thị trường mua bán tài sản thế chấp nói riêng và nợ xấu nói chung, để cho tất cả AMC, chứ không trở thành đặc quyền riêng có của VAMC như nhiều người đang đề xuất có thể tự thân chúng giải quyết hữu hiệu nợ xấu của các ngân hàng.
 
Cũng thật ngạc nhiên với đề xuất của nhiều người về vay nước ngoài, và thậm chí sử dụng các quỹ dự trữ quốc gia để xử lý nợ xấu. Tại sao phải vay nước ngoài khi thị trường mua bán nợ chưa thông, khi các nguồn lực trong nước chưa được huy động? Tại sao phải vay nước ngoài để rồi đương nhiên trút tất cả trách nhiệm giải quyết nợ xấu cũng như trách nhiệm trả nợ vay này lên chính phủ, lên ngân sách?
 
Còn về việc sử dụng các quỹ dự trữ quốc gia, cứ cho là chúng đang nhàn rỗi, nhưng bản thân cái tên quỹ dự trữ cũng cho thấy chúng được lập ra và duy trì để sử dụng trong những hoàn cảnh đặc biệt đột xuất mà không ai có thể lường trước được khi nào những bất trắc này sẽ xảy ra. Bởi thế thật nực cười khi đề xuất sử dụng chúng bây giờ chỉ vì chúng đang tạm thời nhàn rỗi, chưa kể đến chuyện sử dụng chúng lại thành "công cộng hóa" nợ xấu, tương tự như vay nước ngoài để giải quyết nợ xấu.
 
Chỉ khi nào biết rõ nợ xấu thực sự quá lớn, các nguồn lực trong nước không thể giải quyết được hữu hiệu, nền kinh tế thực sự có khả năng rơi vào khủng hoảng và đổ vỡ nếu nợ xấu không được xử lý rốt ráo, thì lúc đó có thể mới phải cân nhắc đến những nguồn lực này, kể cả kêu gọi dân chúng đóng góp (và nếu vậy thì phải đổi lấy cho người dân một công cụ nhận nợ nào đó, chẳng hạn tạm gọi là công trái xử lý nợ xấu v.v..., chứ không nên kêu gọi dân quyên góp kiểu cho không!).

Monday 6 October 2014

Lạm phát bao nhiêu là đủ? (Bài đăng trên CafeF, 6/10)

 
Lạm phát ở Việt Nam đã xuống khá thấp trong suốt 9 tháng đầu năm nay, ở mức 3,62% vào tháng 9 so với cùng kỳ năm trước. Do đó, lạm phát dự tính cho cả năm nay chỉ vào khoảng dưới 5% (thậm chí chỉ 3-4%) so với năm trước.
 
Trong khi đó, tăng trưởng GDP trong 9 tháng ước đã đạt 5,62% so với cùng kỳ năm trước, và dự tính vượt mục tiêu 5,8% trong cả năm nay. Kể cả theo dự đoán chặt chẽ hơn, trong điều kiện không có kích thích “tổng cầu” thì, như trong một báo cáo của Ủy ban giám sát tài chính quốc gia (UBGSTCQG) trước đây, tăng trưởng GDP vẫn có khả năng đạt 5,6% năm nay (tức chỉ kém 0,2 điểm phần trăm so với mục tiêu).
 
Tuy vậy, vẫn có nhiều cá nhân và tổ chức, ví dụ như UBGSTCQG, cho rằng “tổng cầu” đang yếu do lạm phát (lõi) thấp. Do đó, họ lên tiếng khuyến nghị chính phủ và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nới lỏng chính sách tiền tệ hơn nữa để hạ lãi suất, kích thích “tổng cầu”, và sẵn sàng đánh đổi lấy một mức lạm phát cao hơn (dự đoán) hiện tại.
 
Chưa nói đến sự vô nghĩa của việc cứ phải chạy theo tăng trưởng và đánh đổi lấy lạm phát cao hơn để sao cho tăng được tăng trưởng GDP lên thêm 0,2 điểm phần trăm nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng 5,8%, chủ trương tăng trưởng bằng lạm phát hình như chỉ nhìn thấy duy nhất một con đường dẫn đến tăng trưởng là thông qua nới lỏng chính sách tiền tệ hơn nữa. Có lẽ tư duy tăng trưởng kiểu này đã được thể hiện bằng diễn biến thực tế về tăng trưởng và lạm phát trong quá khứ.
 
Nếu nhìn vào bảng so sánh với các nước trong khu vực dưới đây (dựa trên số liệu của ADB), có thể thấy Việt Nam đã quá lạm dụng lạm phát, và tức là nới lỏng chính sách tiền tệ quá mức, để tăng trưởng. Theo bảng này thì Việt Nam đứng thứ hạng cao nhất (hạng 10 trong tổng số 10 nước Đông Nam Á) về lạm phát, trong khi đứng thứ 7 (xếp từ thấp lên cao) về thứ hạng tăng trưởng GDP (Cột “T.bình” ở đây chỉ tính trung bình cộng đơn giản của giá trị trong các năm.)
 
Nói cách khác, mặc dù có và duy trì một mức lạm phát cao nhất trong khu vực nhưng tăng trưởng của GDP ở Việt Nam vẫn không bứt phá để lên được vị trí hàng đầu trong khu vực được, thậm chí còn thua cả những nước ở trình độ phát triển kém hơn Việt Nam như Lào, Campuchia và Myanmar (đều có tốc độ tăng trưởng GDP trung bình cao hơn Việt Nam trong cùng thời kỳ).
 
Đáng chú ý hơn, nếu tính theo tỷ lệ lạm phát trên tăng trưởng GDP thì tỷ lệ này của Việt Nam là cao nhất (thứ 10) và đạt mức 1,7, bỏ xa những nước láng giềng khác. Điều này chứng tỏ Việt Nam đã trở thành “con nghiện” lạm phát quá nặng, đến mức nếu không có liều doping lạm phát này thì tăng trưởng sẽ trở nên hụt hơi.
 
Trở lại với tình hình hiện tại ở Việt Nam. Với mức lạm phát được khống chế ở mức thấp sau nhiều năm chao đảo với bất ổn vĩ mô, nhưng tốc độ tăng trưởng GDP năm nay, ước tính ở mức kém lạc quan nhất là 5,6%, vẫn cao hơn tốc độ 2 năm trước (tương ứng là 5,2% và 5,4% trong năm 2012 và 2013). Điều này chứng tỏ còn có hơn một con đường để dẫn đến cải thiện tốc độ tăng trưởng GDP và điều này bước đầu và phần nào đã được thể hiện trong 9 tháng qua.
 
Bởi vậy, điều cần làm hiện nay không phải là loay hoay với hết “kích cầu” rồi thậm chí là “kích cung” (hay “trọng cung”) bằng nới lỏng chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, và can thiệp hành chính, để hy vọng thúc tăng trưởng thêm một chút nữa, mà thay vào đó là tiếp tục đẩy mạnh các biện pháp cải cách, tái cơ cấu nền kinh tế như đã đặt ra để nâng cao hiệu suất sử dụng của các nguồn lực trong xã hội.
 
 Lạm phát tương đối thấp và ổn định là một trong những điều kiện cần để các tín hiệu thị trường được phản ánh một cách chính xác và có thể tiên liệu được, tạo điều kiện cho các nguồn lực được phân bổ một cách hiệu quả nhất theo đúng địa chỉ cần đến.
 
Nói cách khác, lạm phát ở mức thấp tương đối như hiện nay tỏ ra là phù hợp với Việt Nam, và cần duy trì triển vọng ổn định lạm phát trong các tháng còn lại của năm cũng như sang những năm sau để tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng một cách lành mạnh, dựa trên một cơ cấu kinh tế hiệu quả hơn và cách thức tăng trưởng có tính bền vững hơn. Trên hết, cần nhớ rằng lạm phát không phải là con đường (duy nhất) dẫn đến cải thiện tăng trưởng kinh tế, kể cả trong ngắn hạn!

Friday 3 October 2014

Đằng sau đợt tăng tỷ giá lần này thực sự là gì? (Bài đăng trên CafeF, 4/10)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/dang-sau-dot-tang-ty-gia-lan-nay-thuc-su-la-gi-201410040829363837ca34.chn

Mấy ngày gần đây tỷ giá USD liên tục tăng sau một thời gian khá dài tương đối ổn định. Đã có nhiều giải thích cho đợt tăng tỷ giá mới này. Còn cơ quan chủ quản, như thường lệ, quy cho sự tăng tỷ giá chủ yếu là do tâm lý. Nhưng rõ ràng đang nhiên đang lành thì làm sao mà tự dưng có cái “tâm lý” này được. Không có lửa sao có khói? Vậy lửa ở đây là gì?
 
Một số người thì, theo thói quen, vẫn tiếp tục đưa ra những lý do cũ mòn, như cán cân thương mại đạt thặng dư trong 9 tháng đầu năm. Lý do này rõ ràng không thích hợp khi không xét đến trạng thái cán cân thanh toán. Hơn nữa, việc cộng gộp 9 tháng thế này đã bỏ qua tính thời điểm, mà vì đó có thể gây nên áp lực tăng tỷ giá (ví dụ, nếu cán cân thanh toán trong mấy tháng vừa qua trở nên âm).
 
Bởi vậy, có thể nói nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp làm tăng tỷ giá là phát ngôn của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Văn Bình trong phiên trả lời chất vấn tại UBTVQH. Ông Bình khẳng định, năm nay sẽ điều chỉnh tỷ giá tối đa từ 1-1,43%.
Do trước đó, ngày 19/6, NHNN đã nâng tỷ giá thêm 1 điểm phần trăm, nên dễ hiểu là thị trường lập tức đồ đoán rằng NHNN sẽ có khả năng điều chỉnh thêm 43 điểm cơ bản nữa từ nay đến cuối năm. Mức này càng có cơ sở, theo dư luận, vì thay vì một con số tròn trịa nào đó, lần này ông Bình đưa ra một con số rất… lẻ (1,43%) như để minh họa cho sự tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng mức độ phá giá (điều chỉnh) phù hợp nhất có thể có của NHNN.
 
Nhưng điều gì làm cho ông Bình phải chọn thời điểm này để tuyên bố khả năng điều chỉnh tỷ giá? Những lý do cho việc này cũng là những lý do để ta có thể kết luận phát ngôn của ông Bình là nguyên nhân chính và trực tiếp làm tỷ giá tăng, chứ không phải vì những lý do khác.
 
Có thể kể ra đây mấy lý do. Lý do thứ nhất, cần lưu ý quy mô dự trữ ngoại hối đã ngừng tăng hoặc tăng không đáng kể. Mặc dù ông Bình cho biết trong phiên chất vấn vừa rồi, dự trữ ngoại hối đã đạt kỷ lục 35 tỷ đôla, cao nhất từ trước đến nay, nhưng cần lưu ý rằng hồi tháng 6, ông Bình cũng tuyên bố dự trữ ngoại hối đã đạt kỷ lục, khoảng 35 tỷ đôla. Như vậy, trong 3 tháng qua, dự trữ ngoại hối nếu có tăng thì chỉ là con số lẻ, không đáng kể. Điều này có nghĩa là cái “gối đỡ” cho tỷ giá – dự trữ ngoại hối – đã không được bổ sung tích cực thêm độ dầy, làm cho sự tự tin về ổn định tỷ giá của NHNN suy giảm phần nào.
 
Lý do thứ hai, vốn đã từng thừa nhận tác dụng tích cực của phá giá (“điều chỉnh” tỷ giá) lên xuất khẩu, nhưng trước bối cảnh sau khi phá giá 1% vào tháng 6, tỷ giá thực tế có thời điểm dài lại giảm xuống thấp hơn cả trước lúc phá giá, nên NHNN có lẽ cũng tỏ ra sốt ruột, hoặc bị một áp lực nào đó phải làm giảm giá VND, cộng thêm với thời điểm cuối năm đã đến gần nên đây cũng là thời điểm tỏ ra khá thích hợp để NHNN tuyên bố lập trường tỷ giá của mình.
 
Lý do thứ ba, cung tiền M2 đã có bước tăng mạnh đáng kể trong 2 tháng qua. Cụ thể, M2 trong tháng 9 tăng 9,93% so với cuối năm 2013, tháng 8 tăng 8,66%, trong khi đó tháng 7 mới chỉ tăng 7,36% so với cuối năm 2013. Dư thừa thanh khoản trong hệ thống đã trầm trọng hơn với sự gia tăng các đợt phát hành tín phiếu NHNN để hút bớt tiền về. Dư thừa thanh khoản đồng nghĩa với áp lực giảm giá VND. Nhưng cũng cần phải lưu ý rằng việc đẩy mạnh tăng cung tiền để tăng thanh khoản cũng có thể nằm trong ý đồ của NHNN muốn phá giá VND như nói ở điểm thứ hai bên trên.
 
Lý do thứ tư, và cũng liên quan đến điểm thứ hai và ba nêu trên, là lãi suất tiền gửi VND đã giảm đáng kể gần đây, làm thu hẹp giãn cách lãi suất giữa VND và USD, và do đó làm giảm tính hấp dẫn của VND so với USD, gây thêm áp lực lên tỷ giá.
 
Với ít nhất 4 lý do như nêu trên, rõ ràng có thể thấy áp lực lên tỷ giá là đã dồn nén trong thời gian qua, dẫn đến lời tuyên bố của ông Bình như là một sự bật đèn xanh cho việc phá giá nhẹ VND.
 
Đến đây, điều gây ngạc nhiên là tuyên bố của Vụ chính sách tiền tệ NHNN rằng NHNN chưa có chủ trương điều chỉnh tỷ giá. Tuyên bố này có thể hiểu ở dưới 2 góc độ. Thứ nhất, Vụ này chỉ cho biết là chưa, chứ không khẳng định rằng NHNN sẽ không điều chỉnh tỷ giá như khả năng nêu ra trong tuyên bố của ông Bình. Có thể NHNN chưa điều chỉnh tỷ giá vào tháng 10 này, nhưng sự việc có thể sẽ không phải vậy trong các tháng sau.
 
Thứ hai, NHNN có thể đang chơi chò “ú tim” với những tuyên bố không đồng nhất với nhau, nhằm tạo ra một sự mù mờ về chính sách mà mục đích cuối cùng là nhằm dẹp nạn đầu cơ đón đầu xu hướng tỷ giá của giới đầu tư, vốn là nguy cơ dẫn đến đánh mất sự kiểm soát tỷ giá của NHNN. Điều này thể hiện qua giãn cách khá rộng giữa giá mua vào và bán ra USD trong hệ thống ngân hàng và trên thị trường tự do, cho thấy một mức độ bất trắc đáng kể trong giới đầu tư về một khả năng đảo chiều của tỷ giá như đã thấy sau đợt phá giá hồi tháng 6.

Wednesday 1 October 2014

Giật mình về con số nợ xấu (Bài đăng trên TBKTSG Online, 2/10, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/120726/No-xau-Co-so-tinh-cua-Moody

Trước tiên, phải nói ngay rằng vì đọc thấy con số nợ xấu 500 nghìn tỷ đồng mà Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới thừa nhận trong cuộc trả lời chất vấn Ủy ban Thường vụ Quốc hội về nợ xấu nên tác giả đã thử ngồi xem lại các số liệu liên quan và giật mình vì phát hiện ra một nhầm lẫn lớn mà không ai, kể cả tác giả, nhận ra cho đến nay.
Đó là con số ước tính tỷ lệ nợ xấu ít nhất là 15% do hãng xếp hạng tín nhiệm Moody’s đưa ra hôm 18/2. Lưu ý rằng đây là tỷ lệ nợ xấu tính trên tổng tài sản, theo thông báo của Moody’s. Và Moody’s thêm rằng: “(tỷ lệ này) cao hơn nhiều tỷ lệ nợ xấu 4.7% được NHNN báo cáo vào tháng 10/2013”.

Thế nhưng, điều đáng nói là từ trước đến nay, NHNN hình như chỉ báo cáo tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay, chứ chưa bao giờ họ báo cáo tỷ lệ nợ xấu trên tổng tài sản như Moody’s nói ở bên trên cả. Điều này có nghĩa là Moody’s đã “nhét chữ” vào miệng của người phát ngôn NHNN!
Và cũng đáng nói là NHNN cũng đã không để ý đến chi tiết về tỷ lệ nợ xấu trên tổng tài sản của Moody’s, mà lại phản bác luôn Moody’s trong một thông cáo báo chí hôm 21/2 với ý rằng con số tỷ lệ nợ xấu do NHNN công bố mới là con số “đáng tin cậy và có cơ sở pháp lý hơn”.  Nói cách khác, cả Moody’s và NHNN đã lâm vào tình trạng “ông nói gà, bà nói vịt”!

Điều giật mình thứ hai là quy mô nợ xấu theo ước tính của Moody’s. Nếu tính trên tổng tài sản và với tỷ lệ nợ xấu mà họ ước tính là trên 15% thì con số nợ xấu tuyệt đối của hệ thống ngân hàng Việt Nam phải lên tới 860 nghìn tỷ đồng vào cuối năm 2013 (tổng tài sản của hệ thống ngân hàng Việt Nam theo báo cáo là hơn 5,7 triệu tỷ đồng vào thời điểm này).
Nếu đem con số 860 nghìn tỷ trên chia cho tổng dư nợ cho vay của Việt Nam vào cuối năm 2013 là 3.876 nghìn tỷ đồng (theo số liệu của ADB) thì tỷ lệ nợ xấu của Việt Nam sẽ là trên 22% của tổng dư nợ cho vay, tức còn cao hơn rất nhiều những tỷ lệ nợ xấu mà NHNN công bố/thừa nhận từ trước đến nay (trong thông cáo báo chí ngày 21/2, NHNN cho biết tính thận trọng bao gồm cả nợ xấu được cơ cấu lại cao nhất thì cũng chỉ lên đến 9%).

Quay trở lại với con số nợ xấu 500 nghìn tỷ đồng mà ông Bình mới thừa nhận, bản thân con số này cũng đã là một điều gây giật mình vì từ trước đến nay người ta chưa bao giờ được nghe báo cáo về một khối lượng nợ xấu nào hình như quá 200-300 nghìn tỷ đồng. Tuy có bán tín bán nghi nhưng người ta buộc phải tin những con số nợ xấu “đẹp” hơn do NHNN công bố, để rồi đến nay mới hay thực tế phũ phàng hơn thế nhiều!
Sự giật mình còn chưa dừng ở đó. Tuy con số 500 nghìn tỷ này không rõ là tính đến thời điểm nào, nhưng giả sử là tính đến cuối năm. Dựa theo tổng dư nợ cho vay cuối năm trong các năm 2011-2013 mà ADB có số liệu thì tỷ lệ nợ xấu lần lượt là 16,3%, 13,4%, và 12,9% trong các năm 2011, 2012, và 2013 (tỷ lệ nợ xấu giảm dần vì mẫu số là tổng dư nợ tăng dần). Kể cả tính đến thời điểm nửa năm 2014 với tổng dư nợ tăng thêm 4% thì tỷ lệ nợ xấu vẫn phải là 12,4%. Tất cả những mức này vượt khá xa con số tỷ lệ nợ xấu cao nhất mà NHNN từng thừa nhận (9%) và còn cao hơn thế nữa nếu so với những con số NHNN thường báo cáo là dưới 5% cho đến nay.

Thực tế trên còn có nghĩa là từ trước đến nay NHNN vẫn che giấu nợ xấu, và không hiểu vì lý do nào đó mà con số nợ xấu 500 nghìn tỷ gần sự thật hơn bây giờ mới được tiết lộ. Ở đây, NHNN có một khoảng trống để tự bào chữa bằng cách cung cấp thêm thời điểm của khoản nợ xấu 500 nghìn tỷ này để công luận có thể biết chính xác tỷ lệ nợ xấu thực sự là bao nhiêu, có thể thấp hơn đáng kể những con số mà ta ước tính như trên.
Và cũng từ thực tế về con số nợ xấu làm bao người phải giật mình như trên nên NHNN đã làm sứt mẻ đáng kể uy tín và mức độ tin cậy của mình. Do đó, cho dù Thống đốc có cố gắng làm yên lòng công luận về vấn đề nợ xấu thế nào chăng nữa, sẽ không ít người đặt câu hỏi, liệu đến một ngày đẹp trời nào đó, một con số thực và “khủng” hơn về nợ xấu mới được thừa nhận một lần nữa? Hy vọng rằng nếu có một con số nợ xấu mới thì nó cũng không quá lớn, đến 860 nghìn tỷ đồng như Moody’s ước tính!

Và suy cho cùng, hiện nay nợ xấu đang và đã được xử lý bao nhiêu, như thế nào, bằng công cụ gì v.v... như NHNN đang giải trình nghe rất ... khả quan để làm yên lòng dân chúng thì chỉ có NHNN mới biết, và NHNN nói thế nào thì dân chúng đành biết thế, đành tin thế, chứ có cách gì kiểm chứng được, trừ sự “tự giác” của NHNN?

Diễn đàn kinh tế mùa thu – Chắp vá một bức tranh

Có lẽ cũng không bất ngờ khi Diễn đàn kinh tế mùa thu năm nay vẫn tiếp tục vẽ ra một bức tranh chắp vá, vụn vặt về nền kinh tế khi mà mỗi diễn giả hay đại biểu tham gia đều có xuất phát điểm chuyên môn trong một mảng nào đó của nền kinh tế nên thường mang đến hội thảo những ý kiến về mảng đó, với nhiều ý kiến trùng lặp, không có gì mới, chỉ như kiểu tổng hợp lại những gì đã biết mà thiếu đi yếu tố “giá trị gia tăng” mà công luận chờ đón. Và chưa kể là nhiều ý kiến mang nặng cảm tính, không rõ ràng, nhất quán, thiếu tính học thuật và chiều sâu kiến thức. Bởi vậy, có lẽ cũng không lạ khi báo chí buộc phải chắt lọc trong những lời phát biểu tại hội nghị để trích ra được một hai từ nào đó mà dường như theo họ là đắt giá nhất để giật “tít” cho các bài tường thuật tại diễn đàn nhằm thu hút người đọc mà đến khi đọc thì chắc không ít người đọc phải thất vọng vì nội dung nghèo nàn của chúng.

Về chủ đề tái cơ cấu
Có đại biểu cho rằng tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế diễn ra rất chậm, kết quả thực tiễn không nhiều và không cơ bản, và câu hỏi được đại biểu đặt ra rằng chậm vì cách làm đúng mà chưa chịu làm hay sai nên làm mãi không được? Tự trả lời câu hỏi này, đại biểu này cho rằng có nguyên nhân khách quan đây là việc quá trọng đại, nhưng ý kiến trái nhau cũng nhiều, thậm chí có ý kiến “chọc ngoáy”. Còn lý do chủ quan là do đánh giá thấp nguy cơ. Bên cạnh đó còn có lý do không “đánh” đúng nguyên nhân, dẫn tới không có đề án khả thi, giải pháp hữu hiệu.

3 nguyên nhân chính, theo đại biểu này, là do (i) duy trì mô hình tăng trưởng bị lệch, dựa vào vốn “dễ” đánh đổi lạm phát nên đã trói doanh nghiệp trong nước, lúc nào cũng phải đương đầu với lãi suất cao, giúp cho doanh nghiệp nước ngoài chả cần nỗ lực cũng vượt xa doanh nghiệp nội; (ii) cơ chế cạnh tranh yếu, gây méo mó giả cả đưa ra tín hiệu sai, hay nói cách khác là chưa thay đổi cơ chế cạnh tranh, chưa xác lập giá thị trường cho các loại giá cơ bản; và (iii) định hướng xã hội chủ nghĩa trong cơ chế thị trường chưa rõ, xin - cho vẫn được duy trì và can thiệp bằng hành chính  vẫn được ưa thích. Đặc biệt là bộ máy vẫn duy trì cơ chế trách nhiệm tập thể, mà kinh tế thị trường là cơ chế trách nhiệm cá nhân. Để xoay chuyển tình hình, cần gắn trách nhiệm cá nhân với từng công việc cụ thể.
Về những phát biểu trên, có thể thấy rằng câu hỏi mà đại biểu này nêu ra đã không được (tự) trả lời thỏa đáng, cụ thể không làm rõ được là tái cơ cấu kinh tế chậm là do cách làm đúng hay sai, đã chịu làm hay chưa chịu làm. Việc có nhiều ý kiến “chọc ngoáy” là chuyện đương nhiên trước bất cứ một chính sách (lớn) nào của quốc gia, nhất là khi chưa có một nhận thức chung rộng rãi trong xã hội. Ý kiến “chọc ngoáy” không thể bị đổ lỗi là nguyên nhân làm chậm tái cơ cấu kinh tế khi nó có thể coi là ý kiến phản biện và không ít khi là đúng, có giá trị tham khảo. Nói cách khác, tái cơ cấu nếu nhanh chỉ vì không có ý kiến “chọc ngoáy” thì chỉ là chuyện hoặc là tưởng tượng, hoặc chỉ có trong xã hội độc tài tuyệt đối, và nhanh trong những trường hợp như thế này không phải là điều đáng mừng.

Chuyện đánh giá thấp nguy cơ cũng không liên quan gì đến tiến trình cải cách kinh tế (chậm chạp), trừ khi những người có trách nhiệm trước đó có đặt ra một mục tiêu tham vọng nào đó chẳng hạn như phải hoàn thành tái cơ cấu kinh tế trong vòng 3 năm, bất chấp thực tế là tái cơ cấu là việc rất khó khăn, phức tạp, tốn thời gian (nhiều hơn 3 năm). Mà hình như là cho đến nay các cơ quan hữu quan chưa hề đưa ra một lộ trình rõ ràng với những mốc thời gian cụ thể để hoàn thành tái cơ cấu. Bởi thế, việc quy cho tái cơ cấu chậm là do đánh giá thấp nguy cơ là không thỏa đáng.
Về 3 nguyên nhân chính nêu trên. Dựa vào mô hình tăng trưởng kinh tế bị “lệch”, dựa vào vốn “dễ”, tức là chính sách tiền tệ nới lỏng, để tăng trưởng đương nhiên sẽ dẫn đến lạm phát cao nếu nới lỏng quá mức và quá lâu, làm doanh nghiệp phải đối mặt với lãi suất cao. Nhưng lãi suất cao chỉ đồng nghĩa với việc doanh nghiệp Việt Nam đánh mất tính cạnh tranh so với doanh nghiệp nước ngoài khi mà chính sách tỷ giá cứng nhắc, không chịu nới lỏng tỷ giá một cách tương ứng với mức lạm phát nên làm cho VND lên giá thực, ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam. Bởi vậy, nếu muốn nói đến cái sự “lệch” ở đây thì chỉ có thể nói rằng chính sách tỷ giá đã “lệch” (pha) với chính sách tiền tệ (nới lỏng), và chỉ thế thôi, chứ không thể khái quát chung thành “mô hình tăng trưởng lệch” được.

Lập luận về cơ chế cạnh tranh yếu, gây méo mó giả cả đưa ra tín hiệu sai, hay nói cách khác là chưa thay đổi cơ chế cạnh tranh, chưa xác lập giá thị trường cho các loại giá cơ bản thì trên cơ bản là đúng với thực trạng ở Việt Nam. Nhưng tự thân điều này lại không cho biết gì mấy về chuyện tiến trình tái cơ cấu kinh tế cả, như đề cập bên trên. Ngược lại, cơ chế cạnh tranh yếu mới chính là đối tượng và mục tiêu của tái cơ cấu kinh tế.
Chuyện về định hướng xã hội chủ nghĩa trong cơ chế thị trường chưa rõ, xin - cho vẫn được duy trì và can thiệp bằng hành chính vẫn được ưa thích cũng không phải là nguyên nhân thỏa đáng giải thích tại sao tái cơ cấu lại chậm. Định hướng xã hội chủ nghĩa thì đương nhiên đi kèm với cơ chế “trình và duyệt”, tức nghĩa đen là xin – cho, (kèm với) can thiệp hành chính, để sao cho việc phân bổ nguồn lực đúng với sách lược và ý đồ của các nhà làm chính sách. Nói cách khác, chừng nào Việt Nam vẫn còn theo đuổi định hướng xã hội chủ nghĩa thì chừng đó cơ chế thị trường vẫn “chưa rõ”, và tái cơ cấu kinh tế đã và sẽ phải được thiết kế theo thực tế này. Do đó, điều chỉ có thể nói được ở đây là tái cơ cấu kinh tế đã không được thiết kế đúng, phù hợp theo định hướng này nên tất nhiên là sẽ chậm chạp, không đúng kỳ vọng của nhà hoạch định chính sách.

Cũng tương tự vậy là chuyện trách nhiệm tập thể (tức chẳng ai chịu trách nhiệm) với tái cơ cấu. Cần hiểu rằng chuyện trách nhiệm tập thể là thuộc về bản chất của cơ chế (chính trị, kinh tế, xã hội) hiện tại được xây dựng ra và hoạt động trên nguyên tắc này. Bởi vậy, cũng giống như với định hướng xã hội chủ nghĩa, tái cơ cấu phải được thiết kế và hoạt động trên nguyên tắc này (trách nhiệm tập thể), chứ không phải quy cho việc chậm tái cơ cấu là do trách nhiệm tập thể. Nếu muốn khai thông, chỉ còn cách là thay đổi tận gốc rễ của vấn đề và thiết kế lại quy trình và mục tiêu của tái cơ cấu.
Một đại biểu khác thì nêu ý kiến về xây dựng thể chế kinh tế thị trường hiện đại, nhấn mạnh vai trò của xã hội dân sự trong xây dựng kinh tế thị trường. Đi xa hơn, đại biểu này còn nhấn mạnh đến 3 trụ cột của thể chế kinh tế thị trường là thị trường, nhà nước và xã hội dân sự để buộc các ngành và doanh nghiệp tái cấu trúc để tồn tại. Nhưng cũng lại giống như luồng ý kiến nêu bên trên, ý kiến này cũng chỉ động chạm đến phần ngọn của vấn đề. Chừng nào mà thể chế hiện tại vẫn tồn tại và không (muốn) thay đổi thì mọi chiến lược và giải pháp chính sách phải được thiết kế trên cái nền móng quy định đó. Nói cách khác, không thể kỳ vọng mọi sự sẽ hanh thông với quả ngọt nếu cấy ghép tùm lum thân và cành của một giống khác vào gốc rễ của một cái cây nào đó.

Về chủ đề ngân hàng và nợ xấu
Có đại biểu nêu rằng tốc độ xử lý nợ xấu chậm hơn quá trình phát sinh nợ xấu là cực kỳ đáng báo động. Về ý kiến này, cần hiểu rằng một trong những lý do chính để nợ xấu phát sinh nhanh hơn nợ xấu xử lý được là vì cơ chế phân loại và cho phép trì hoãn phân loại nợ xấu trong một thời gian và “thả” ra sau đó, làm cho nợ xấu tăng mạnh kể từ tháng 6. Do đó, nếu so sánh việc xử lý nợ xấu với nợ xấu mới được báo cáo trong thời điểm hiện tại thì đương nhiên nợ xấu phát sinh là lớn hơn nợ đã được xử lý, chứ không phải là nợ xấu đột nhiên tăng lên do một nguyên nhân kinh tế nào đó. Nói cách khác, nợ xấu (cao) đã tồn tại từ trước rồi và gần đây mới lộ ra, nên có đáng báo động thì đã phải báo động từ lâu rồi.
Một đại biểu khác trong diễn đàn cho rằng cho rằng các nước trong khu vực đi vay 40 - 50 tỷ USD về xử nợ xấu, còn ta chả có tỷ nào. Về lãi suất, ông này nói hiện nay lãi suất của Việt Nam vào hàng cao nhất thế giới, lãi suất cơ bản là 9%, còn lãi suất cho vay 10 đến 13% trong khi lãi suất ở châu Âu là âm, ở Nhật và Mỹ đều là 0, rồi kết luận với lãi suất cao như thế thì doanh nghiệp làm gì cũng “chết”, không thể cạnh tranh được. Phản biện lại ý kiến của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) rằng lãi suất đã hợp lý, ông này bình luận rằng trước đây lãi suất 18% hay cao hơn nhưng vẫn là thấp là bởi vì so với lạm phát là âm, còn hiện nay lãi suất 6% nhưng vẫn cao là vì lạm phát có 2%.

Về những ý kiến này có thể nói luôn chúng vừa không chính xác, vừa phiến diện. Sự không chính xác thể hiện ở những con số nêu ra. Không rõ “các nước trong khu vực” là nước nào mà đi vay (vay ai? – người viết) tới 40-50 tỷ USD (trong thời gian nào? – NV). Lãi suất (cho vay) ở châu Âu, Mỹ, Nhật là âm hoặc 0 cũng là không có cơ sở, không chính xác nốt. Trong khi đó, không hiểu con số lạm phát 2% đại biểu này lấy ở đâu ra, tại thời điểm nào? Phiến diện vì tại sao cứ phải nhất thiết đi vay (hàng tỷ USD) để xử lý nợ xấu? Và, như đã nói ở trên, lãi suất ở Việt Nam cao làm doanh nghiệp “chết” chỉ vì chính sách tỷ giá cứng nhắc, chứ không phải vì bản thân lãi suất (danh nghĩa) cao.
Một luồng ý kiến chung khác trong diễn đàn là triển vọng của nền kinh tế sẽ phụ thuộc vào xử lý nợ xấu và nếu không xử lý được nợ xấu thì nền kinh tế khó có thể tăng trưởng được. Về ý này cũng có thể nói luôn là rất cảm tính, và rất... nhàm. Như đã thấy, nền kinh tế vẫn tăng trưởng đến 5,6% trong 9 tháng và còn có khả năng đạt được trên thế cho cả năm nay, trong khi xử lý nợ xấu thì dường như vẫn dẫm chân tại chỗ, với lượng nợ xấu thậm chí còn tăng lên. Nên nếu có muốn cảnh báo về nguy cơ nợ xấu thì phải cảnh báo từ một góc độ khác, chứ không phải là từ góc độ tăng trưởng như thế này.

Trong diễn đàn còn có những bài phát biểu khác có thể xem như khá lạc với chủ đề chính của diễn đàn là tái cơ cấu, ví dụ như những nghiên cứu về áp lực lạm phát của chính sách tài khóa và tiền tệ, và hậu quả của việc can thiệp vào tổng cầu.
Tóm lại, Diễn đàn kinh tế  mùa thu lần này đã không đưa ra được một thông điệp mạnh mẽ, nhất quán, và có giá trị (cả về học thuật và thực tiễn) về tái cơ cấu kinh tế nói riêng và một bức tranh khái quát về nền kinh tế nói chung. Nếu cố gắng tìm một điểm tích cực trong diễn đàn thì đó có thể là ngầm ý (nếu có) về sự thay đổi cơ sở hạ tầng thể chế để hướng tới một xã hội dân sự và một nền kinh tế thị trường (hiện đại).

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).