Friday 21 November 2014

Tỷ giá tăng không chỉ do tâm lý (Bài đăng trên CafeF, 21/11)

 
Tỷ giá VND/USD đã liên tục tăng mạnh suốt từ đầu tháng 11 này và có thời điểm đã gần chạm tỷ giá trần của NHNN (21.458 VND/USD). Đợt tăng tỷ giá lần gần đây nhất mới cách xảy ra hồi đầu tháng 10. Điểm trùng lặp ở 2 đợt tăng tỷ giá lần này (và cả một vài lần trước đó nữa) là tuyên bố của NHNN không điều chỉnh tỷ giá vì không có lý do gì để điều chỉnh tỷ giá, và rằng tỷ giá tăng là do tâm lý trước tin đồn NHNN tăng tỷ giá v.v…
 
NHNN tiếp tục viện dẫn ra những bằng chứng để cho thấy thị trường ngoại tệ vẫn ổn định, không có gì bất thường như: trong 10 tháng đầu năm cả nước đã xuất siêu, cán cân thanh toán tổng thể ở mức thặng dư cao, giải ngân FDI và kiều hối đều tăng so với cùng kỳ năm trước, trên thị trường ngoại tệ doanh số giao dịch, hoạt động mua bán ngoại tệ diễn ra bình thường không có gì đột biến...


Mặt khác, một số chuyên gia và tổ chức đã đưa ra thêm một số lý do khác như nhu cầu thanh toán nhập khẩu tăng do Việt Nam nhập siêu 2 tháng gần đây, nhu cầu trả nợ tín dụng ngoại tệ đáo hạn vào cuối năm, nhu cầu nhập vàng lậu do chênh lệch giá vàng thế giới và trong nước đã tăng mạnh trong tháng 11, USD đã lên giá mạnh so với các đồng tiền chủ chốt gần đây...

Tỷ giá tăng không chỉ do tâm lý (1)
Diễn biến tỷ giá của ngân hàng thương mại từ đầu tháng 11 tới nay
 
Công bằng mà nói, lý giải của các chuyên gia và tổ chức như nói ở trên có tính thuyết phục hơn vì phản ánh đúng tình hình thực tế hơn.
Về lý do xuất siêu của NHNN nhưng lưu ý là NHNN lại tính gộp cả 10 tháng đầu năm để ra được con số xuất siêu 2,36 tỷ USD, có thể nói con số xuất siêu này không mấy liên quan đến chuyện tỷ giá tăng đột biến, mang tính thời điểm. Bởi thế, dễ thấy giải thích của các chuyên gia và tổ chức có tính thuyết phục hơn khi gắn kết hiện tượng nhập siêu quay trở lại, đặc biệt trong 2 tháng liên tiếp gần đây, với nhu cầu USD tăng mạnh hơn.
Cũng trên giác độ tính thời điểm này, ta có thể loại ra lý do của NHNN về giải ngân FDI và kiều hối tăng trong 10 tháng năm nay so với cùng kỳ năm trước, vì chúng cũng chỉ là những số liệu tính gộp, không phản ánh thời điểm tháng 11 là tháng xảy ra biến động tỷ giá.
Mặt khác, về lý do về nhu cầu trả nợ tín dụng ngoại tệ đáo hạn vào cuối năm và nhu cầu USD để nhập vàng lậu mà các chuyên gia và tổ chức đưa ra, tuy có lý nhưng do không có mấy số liệu chính thức để kiểm chứng nên ta không xét đến ở đây.
 
Đối với lý do USD đã lên giá mạnh gần đây so với các đồng tiền chủ chốt, đây là một lý do khá hợp lý và cần kể đến vì nó chắc chắn đã làm tăng áp lực tỷ giá VND/USD khi nhu cầu USD trên thế giới tăng cao, hút bớt luồng USD chảy vào Việt Nam hoặc nếu tiếp tục có chảy vào như cũ thì giá (tức tỷ giá VND/USD) phải cao hơn để hấp dẫn và giữ chân nhà đầu tư nắm giữ USD.
 
Ngoài ra, chắc chắn có thêm những yếu tố khác mang tính thời điểm có thể đã dẫn đến tình trạng mất cân bằng tạm thời giữa cung và cầu ngoại tệ mà chính vì thế làm tỷ giá tăng như vừa qua.
 
Một trong những yếu tố cơ sở quyết định hướng đi của tỷ giá và mang tính thời điểm có thể chỉ ra là tổng phương tiện thanh toán, còn được biết là cung tiền, đã tăng mạnh trong tháng 10 so với các tháng trước đó (mặc dù tháng 9 cũng đã tăng mạnh và vì thế có thể là một trong những nguyên nhân gây ra đợt tăng tỷ giá đầu tháng 10). Cụ thể, theo số liệu công bố của NHNN thì tính đến ngày 24/10 cung tiền đã tăng tới 11,88% so với cuối tháng 12/2013, trong khi đó con số này trong tháng 9, tháng 8 và tháng 7 lần lượt là 9,93%, 8,66% và 7,36% (bình quân tăng khoảng 1,05 điểm %/tháng trong suốt 7 tháng đầu năm). Có nghĩa là sau khi đã tăng mạnh 1,27 điểm % trong tháng 9 so với tháng 8 (là tháng cũng đã tăng mạnh hơn mức trung bình 7 tháng trước đó), cung tiền tiếp tục tăng đột biến thêm 1,95 điểm phần trăm nữa trong tháng 10, tức gần gấp đôi mức tăng trung bình trong 7 tháng đầu năm.
 
Cung tiền tăng vọt cũng là nguyên nhân đằng sau đợt giảm lãi suất VND (mạnh hơn sự giảm lãi suất USD) mới đây của các ngân hàng thương mại do thanh khoản tiếp tục dư thừa. Và cũng một phần chính vì lãi suất VND giảm mạnh hơn lãi suất USD nên tính hấp dẫn của VND không thể không thừa nhận rằng đã bị giảm thêm một bước nữa.
 
Kết hợp với việc Việt Nam quay trở lại nhập siêu trong 2 tháng liên tiếp qua cũng như việc USD lên giá so với các ngoại tệ khác như nói ở trên thì bức tranh về biến động tỷ giá đã hầu như bộc lộ hoàn toàn một cách rõ ràng và dễ hiểu. Nếu có thể gọi cái gì đó ở đây là yếu tố tâm lý như NHNN tuyên bố thì đó chỉ có thể là tâm lý kỳ vọng tỷ giá sẽ phải tăng trước những biến động gần đây nếu như NHNN không can thiệp bằng cách bán ra USD.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).