Thursday 11 December 2014

Nhìn thẳng và thừa nhận sự thật về tỷ giá (Bài đăng trên TBKTSG, 12/12, tiêu đề do báo đặt lại)

 
(TBKTSG) - Trong năm nay tỷ giá tiền đồng/đô la Mỹ đã đôi lần tăng mạnh, bất chấp những khẳng định và cam kết bình ổn tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước (NHNN).
 
Điểm trùng lặp ở những đợt tăng tỷ giá này là cách thức xử lý của NHNN, với tuyên bố rằng họ sẽ không điều chỉnh tỷ giá vì không có lý do gì để điều chỉnh tỷ giá, không cần can thiệp vì cung cầu ngoại tệ cơ bản là bình thường, và rằng tỷ giá tăng là do tâm lý trước tin đồn NHNN tăng tỷ giá...
 
Những bằng chứng luôn được NHNN viện dẫn ra để cho thấy thị trường ngoại tệ vẫn ổn định, không có gì bất thường trong các giai đoạn tỷ giá biến động mạnh thường là: Việt Nam đang xuất siêu (cộng dồn trong các tháng từ đầu năm đến thời điểm đó); cán cân thanh toán tổng thể ở mức thặng dư cao; giải ngân FDI và kiều hối đều tăng so với cùng kỳ năm trước; trên thị trường ngoại tệ doanh số giao dịch, hoạt động mua bán ngoại tệ diễn ra bình thường, không có gì đột biến...
 
Thường thì tỷ giá sẽ chựng lại và/hoặc giảm đi một chút sau những tuyên bố này của NHNN. Đằng sau sự chựng lại hoặc giảm đi này, khó có thể biết được rằng thị trường đã “sợ” NHNN, “thấm” được cái sự vô lý của tỷ giá (tăng) như lời giải thích của NHNN để mà tự điều chỉnh, hay đơn giản chỉ là do NHNN đã lẳng lặng can thiệp vào thị trường ngoại hối bằng cách bán đô la Mỹ ra để bình ổn tỷ giá (NHNN thường không công bố có can thiệp hay không, và, nếu có, quy mô can thiệp là bao nhiêu).
 
Nhưng ít ra thì trong đợt tăng tỷ giá tháng 11 vừa rồi, đã có bằng chứng rõ ràng rằng NHNN đã phải can thiệp bằng cách bán ra đến 1,5 tỉ đô la Mỹ, “trong bối cảnh nhu cầu ngoại tệ cuối năm tăng cao so với trước”, như TBKTSG đưa tin tuần trước, mặc dù trước đó họ đã tái lập những tuyên bố như trên.
 
Điều rút ra từ sự kiện này là thị trường luôn có cái lý riêng của nó. Tỷ giá biến động rõ ràng thường là hậu quả của việc mất cân đối cung, cầu ngoại tệ (tạm thời hay mang tính cơ cấu), nên lời giải thích “do tâm lý” như của NHNN nếu có đúng thì chỉ ở trên góc độ rằng thị trường đã kỳ vọng NHNN phải bán đô la Mỹ ra để lập lại cân bằng cung, cầu. Và nếu NHNN không chịu làm hay không làm được việc này thì trên thị trường sẽ xuất hiện tâm lý đầu cơ, mua gom, tích trữ đô la Mỹ để đón đầu sóng tỷ giá chắc chắn sẽ phải tăng trong thời gian tới. Mà như vậy thì cái “tâm lý” này hoàn toàn không có gì là vô lý, bất bình thường, không thể trở thành nguyên nhân mang tính dài hạn hơn cho những biến động của tỷ giá nếu NHNN không can thiệp, không xử lý thích đáng vào thị trường ngoại hối.
 
Vì thế, một trong những điều NHNN cần làm ở những đợt biến động tỷ giá trong tương lai là nhìn nhận minh bạch và thẳng thắn những nguyên nhân gây biến động tỷ giá, điều mà các thành viên trên thị trường ngoại hối như các ngân hàng thương mại, công ty xuất nhập khẩu, nhà đầu tư tổ chức và cá nhân... đều nhận thấy qua những giao dịch hàng ngày trên thị trường. Thay vì đưa ra những giải thích, những tuyên bố một cách đơn giản, chiếu lệ và cũ mòn, hoàn toàn không có tính thuyết phục như vẫn làm trong thời gian qua, NHNN nên một mặt thừa nhận có chênh lệch bất thường về cung, cầu ngoại tệ (và nguyên nhân), mặt khác nên tỏ rõ lập trường chính sách của mình, ví dụ như để tỷ giá danh nghĩa ổn định về cơ bản hay để nó biến động linh hoạt theo mức chênh lệch lạm phát giữa Việt Nam với nước ngoài để hỗ trợ xuất khẩu... Đi kèm với lập trường chính sách này là hành động công khai và nhất quán của NHNN để thị trường thấy rõ là NHNN nghiêm túc, nhất quán và có đủ nguồn lực để thực thi định hướng chính sách của mình.
 
Tóm lại, nhìn thẳng và thừa nhận sự thật đồng thời hành động tương ứng để thị trường luôn thấy NHNN nói và làm đi đôi với nhau là cách truyền thông hiệu quả và cần thiết của NHNN, ít nhất là trong vấn đề chính sách tỷ giá ở Việt Nam. Với cách làm hiện thời của NHNN, nếu có chăng thì tính hiệu quả của nó cũng đã và đang mai một nhanh chóng, không thể lạm dụng thêm nữa.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).