Saturday 27 December 2014

Những cái sai đằng sau lo ngại lạm phát thấp (Bài đăng trên CafeF, 28/12)

http://cafef.vn/kinh-te-vi-mo-dau-tu/nhung-cai-sai-dang-sau-lo-ngai-lam-phat-thap-201412280909213738ca33.chn

Lạm phát năm nay đã giảm xuống mức thấp nhất trong nhiều năm là tin vui, tốt lành với cả nền kinh tế. Tuy vậy, lạm phát thấp đồng thời cũng làm dấy lên nỗi lo của không ít người khác.

Họ cho rằng: (1) Lạm phát thấp là biểu hiện của tổng cầu yếu, giảm phát (hoặc thiểu phát); (2) Tổng cầu yếu thể hiện ở con số gần 65.000 doanh nghiệp phá sản, ngừng hoạt động, cao hơn so với năm ngoái, tình trạng thất nghiệp cao, hàng tồn kho cao, siêu thị không bán được hàng, tổng mức bán lẻ giảm mạnh; (3) Lạm phát thấp ảnh hưởng nhiều đến động lực sản xuất của doanh nghiệp. Do giá xăng giảm, chi phí đầu vào sản xuất giảm là yếu tố làm giá thành hàng hóa giảm song vấn đề then chốt sức mua người dân yếu, giá rẻ nhưng dân không mua cũng vô ích; (4) Lạm phát thấp dẫn đến việc điều chỉnh thị trường trước các cú sốc không được tốt và nhanh; (5) Lạm phát thấp, không tăng được lợi nhuận trong khi chi phí vẫn cao thì sẽ kìm hãm sản xuất trong ngắn hạn; (6) Trong ngắn hạn đặt ra mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát 3-4% thì tương đương với mức tăng trưởng dưới 6%; (7) Lạm phát thấp làm chênh lệch giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa sẽ giãn ra, dẫn đến dòng vốn đầu tư gián tiếp sẽ đổ vào Việt Nam trong bối cảnh tỷ giá Việt Nam tương đối ổn định. Ngân hàng Nhà nước cần phải đưa ra các giải pháp để vừa duy trì ổn định kinh tế vĩ mô vừa tránh được tình trạng kinh doanh chênh lệch tỷ giá và lãi suất; (8) lạm phát thấp thu ngân sách nhà nước sẽ khó khăn, Chính phủ sẽ tiếp tục thiếu tiền do đầu tư, trả nợ và thực hiện các nhiệm vụ cải cách và phát triển kinh tế - xã hội v.v...

Về ý kiến số 1 nói trên, tác giả bài viết này đã đôi lần phản biện lại rằng lạm phát thấp không nhất thiết là biểu hiện của tổng cầu yếu, bằng một ví dụ đơn giản là sốt cao không nhất thiết là biểu hiện của căn bệnh Ebola, mà có thể là do căn bệnh khác nào đó như viêm phổi.

Hơn nữa, những người lo ngại lạm phát thấp còn sai lầm về khái niệm giảm phát hoặc thiểu phát. Giảm phát là hiện tượng giá cả hàng hóa và dịch vụ nói chung giảm đi (giá cả tăng trưởng âm). Hiện tại, lạm phát tuy thấp nhưng vẫn ở mức dương, lớn hơn 0 nhiều, sao lại nói là Việt Nam đang có giảm phát? Còn nếu nói là Việt Nam đang có thiểu phát thì lại càng sai hơn nữa khi ngoài điều kiện là lạm phát âm (giảm phát), GDP phải tăng trưởng âm thì mới có thể gọi một nền kinh tế là có thiểu phát, trong khi GDP của Việt Nam đã tăng trưởng gần 6% trong năm nay!

Về ý kiến số 2, có thể dễ dàng thấy đây là ý kiến hết sức chủ quan, hời hợt và không chính xác. Ngoài những dẫn chứng thuyết phục bằng những con số cụ thể trên từng lĩnh vực mà Tổng cục Thống kê đã đưa ra gần đây để giải thích tại sao lạm phát thấp và tại sao không thể nói là tổng cầu yếu, cũng như tác giả đã đôi lần viện dẫn đến để phản biện lại luồng ý kiến sai lầm này, có thể chỉ ra thêm một số lỗ hổng trong ý kiến này. 

Ví dụ, về con số 65.000 doanh nghiệp phá sản, ngừng hoạt động, cao hơn năm ngoái tuy có thể là con số thực tế, chính xác, nhưng nêu ra như vậy chỉ là phiến diện nếu người ta quên không kể thêm rằng con số doanh nghiệp thành lập mới và hoạt động trở lại còn lớn hơn con số này. Tình trạng thất nghiệp cao cũng chỉ là một yếu tố cảm tính vì chẳng được củng cố bằng bất cứ dẫn chứng số liệu nào. Về chỉ số hàng tồn kho, tổng mức bán lẻ, doanh số của siêu thị v.v..., rất tiếc là số liệu của Tổng cục Thống kê đã cho thấy rõ là đều cải thiện hơn so với (các) năm trước.

Về ý kiến số 3, vừa không rõ ràng, vừa cảm tính và mâu thuẫn. Nói “lạm phát thấp ảnh hưởng nhiều đến động lực sản xuất của doanh nghiệp”, phải chẳng người ta ngụ ý rằng lạm phát thấp làm cho doanh nghiệp không tăng được giá bán nên không khuyến khích doanh nghiệp tăng cường sản xuất? Nếu vậy thì ý kiến này tự mâu thuẫn vì người ta cũng thừa nhận rằng lạm phát thấp làm giảm giá thành sản xuất. Do đó, biên độ lợi nhuận của nhà sản xuất vẫn được bảo đảm, bất kể họ không tăng được giá bán hàng hóa.

Nói “song vấn đề then chốt sức mua người dân yếu, giá rẻ nhưng dân không mua cũng vô ích” cũng sai vì như đã nói ở trên, chẳng có dấu hiệu nào để mà nói rằng “dân không mua”, nếu không muốn nói ngược lại rằng dân thực ra đã tăng cường mua, thể hiện qua doanh số bán lẻ ròng đã tăng 6,5% so với năm trước và là mức tăng cao nhất trong mấy năm gần đây.

Về ý kiến số 4, nói “lạm phát thấp dẫn đến việc điều chỉnh thị trường trước các cú sốc không được tốt và nhanh” là vô căn cứ và không xác đáng. Lạm phát thấp thực ra là điều tích cực cho các phản ứng chính sách vĩ mô vì nó tạo ra thêm room cho cơ quan chức năng. Ví dụ, nếu có cú sốc về tỷ giá, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có thể nâng lãi suất thêm lên từ mức lãi suất thấp (do lạm phát thấp) để bảo vệ sự ổn định của tỷ giá mà không gây ra tác động tiêu cực quá lớn lên doanh nghiệp do lãi suất vẫn ở mức vừa phải, chịu đựng được. Nếu lạm phát ở mức cao thì buộc lãi suất phải điều chỉnh lên mức cao hơn, và do đó khi NHNN thắt chặt chính sách tiền tệ để bảo vệ tỷ giá, điều đó càng làm cho lãi suất tăng cao hơn nữa, gây khó khăn hơn nhiều cho doanh nghiệp.

Về ý kiến số 5, nói “lạm phát thấp, không tăng được lợi nhuận trong khi chi phí vẫn cao thì sẽ kìm hãm sản xuất trong ngắn hạn” là sai, vì cũng như đã nói ở ý kiến số 3 bên trên, lạm phát thấp thì làm cả giá bán và giá thành hàng hóa đều không tăng mạnh được, dẫn đến biên độ lợi nhuận không thay đổi, và doanh nghiệp thậm chí lại còn có thêm động lực để mở rộng sản xuất để tăng tổng lợi nhuận (dù biên độ lợi nhuận có thể không thay đổi), nếu các tính toán lỗ lãi của họ được bảo đảm ở mức độ chắc chắn nhờ lạm phát thấp và ổn định.

Về ý kiến số 6, nói “trong ngắn hạn đặt ra mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát 3-4% thì tương đương với mức tăng trưởng dưới 6%” là sai vì có nhiều năm/thời kỳ CPI của Việt Nam chỉ ở mức 3%-4% nhưng tăng trưởng GDP vẫn đạt trên 6% như những năm 1997 và 2000-2003 (theo số liệu của ADB). Vì thế, không thể thiết lập một cách định tính tốc độ tăng trưởng GDP với mức lạm phát theo kiểu như thế này được.

Với ý kiến số 7, không thể nói “lạm phát thấp làm chênh lệch giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa sẽ giãn ra” vì, cũng như với khu vực sản xuất, lạm phát thấp làm giảm lãi suất danh nghĩa (cả lãi suất huy động và cho vay), như số liệu công bố của NHNN cho thấy. Bởi vậy, lãi suất thực cũng không thay đổi (lớn), và cũng như vậy là chênh lệch giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực. Do đó, dòng vốn đầu tư gián tiếp đổ vào Việt Nam sẽ không biến động (mạnh), khi các điều kiện khác không thay đổi. Như thế thì gánh nặng của NHNN trong việc “vừa duy trì ổn định kinh tế vĩ mô vừa tránh được tình trạng kinh doanh chênh lệch tỷ giá và lãi suất” là không có gì thay đổi.

Và cuối cùng, với ý kiến số 8, dù lạm phát thấp có thể ảnh hưởng đến (làm giảm) nguồn thu của chính phủ như luồng ý kiến này lo ngại (mặc dù không có lý do xác đáng), nhưng, cũng giống như với nhà sản xuất, lạm phát giảm làm giảm (hoặc không tăng) doanh thu của họ và cũng đồng thời làm giá thành (tức chi) của họ giảm đi (hoặc không tăng), rốt cuộc cán cân thu chi của chính phủ không thay đổi. Vì thế, không thể nói như luồng ý kiến này rằng lạm phát thấp “làm thu ngân sách nhà nước sẽ khó khăn, Chính phủ sẽ tiếp tục thiếu tiền do đầu tư, trả nợ và thực hiện các nhiệm vụ cải cách và phát triển kinh tế - xã hội”.

7 comments:

  1. Báo cáo cụ là số liệu doanh nghiệp giải thể, phá sản là doanh nghiệp chết thật còn đăng ký mới đã hoạt động hay chưa thì có trời mới biết cụ ạ. Cụ cứ như ở trên mây ấy. Còn lãi suất danh nghĩa ngân hàng công bố là lãi suất hiện tại cho vay khách hàng mới cụ ợ, cụ có biết là khách hàng cũ vẫn được "hưởng" lãi suất là bao nhiêu không.

    ReplyDelete
    Replies
    1. Báo cáo đồng chí là nếu đồng chí thích đi vào tiểu tiết kiểu này thì, cứ giả sử như đồng chí nói là có một phần nào đó doanh nghiệp mới chưa hoạt động, đồng chí cần phải hình dung thêm là sẽ có nhiều doanh nghiệp mới từ năm ngoái (hoặc những năm trước đó) nhưng năm nay mới đi vào hoạt động (theo đúng logic của đồng chí nhé), và, do đó, số lượng doanh nghiệp mới, và ĐI VÀO HOẠT ĐỘNG, trong năm nay vẫn LỚN HƠN số doanh nghiệp chết thật. Ngoài ra, cần nói thêm rằng đồng chí chẳng có số liệu nào để nói rằng số doanh nghiệp đăng ký mới nhưng nhiều trong số đó chưa hoạt động để mà phản biện lại tớ cả, mà chỉ là nghĩ như thế. Tớ thì căn cứ vào số liệu báo cáo của TCTK cho nó khách quan và... lành!

      Còn lãi suất danh nghĩa, tớ cũng dựa vào báo cáo của NHNN, về mặt bằng lãi suất (trung bình), cho thấy đã giảm theo lãi suất huy động và lạm phát. Phản biện như đồng chí không relevant gì cả.

      Delete
    2. Lãi suất các TCTD báo cáo là lãi suất thực tế đang áp dụng cho khách hàng tại thời điểm báo cáo (cấu trúc báo cáo: lãi suất VND 6%: dư nợ 7.000 tỷ, lãi suất VND 7%: dư nợ 10.000 tỷ, lãi suất USD 3%: dư nợ 1 triệu USD,... ). Nếu số này giảm => có nghĩa lãi suất danh nghĩa đang giảm thật.
      Còn nói như đồng chí trên thì cũng giống như: tao qua Mỹ thấy vẫn còn ăn mày, khác đếch gì VN đâu, thế mà dám bảo là nó giàu, văn minh lắm :))

      Delete
  2. Bác Ngọc bảo số doanh nghiệp mới thành lập còn nhiều hơn số Dn chết nên không vấn đề gì; khác nào bác nói số em bé sinh ra nhiều hơn số người đang ở tuổi lớn (tụ nhiên lăng đùng ra ) chết đi nên cũng không vấn đề gì (???). Lập luận này là rất sai vì số DN mới thành lập thì chưa co hoạt động gì đáng kể (và có thể cũng se chết yểu), trog khi những doanh nghiệp chết đi hầu hết là những DN từng hoạt động nhiều năm (đã trưởng thành), giờ lăn đùng ra chết. Vậy mà bác bảo không vấn đề gì à?

    ReplyDelete
    Replies
    1. Đồng chí lại đi vào tiểu tiết rồi. Thế thì tớ cũng có thể phang đồng chí tương tự như thế, rằng các doanh nghiệp trước khi chết trong năm 2014 thì đã ngắc ngoải, chấm dứt hoạt động (trước khi khai báo chính thức ngừng hoạt động), hoặc hoạt động cầm chừng cho đến khi chết hẳn, chẳng khác gì các doanh nghiệp mới đi vào hoạt động trong năm nay, theo lập luận của đồng chí. Nếu vậy thì đúng là ... không vấn đề gì thật còn gì nữa?

      Delete
  3. Vấn đề là vì sao nó (DN) ngắc ngoải, vì sao nó chết.. Không thể gọi hiện tượng này là "không vấn đề gì".

    ReplyDelete
    Replies
    1. Thế đồng chí (hay ai đó) có biết được tường tận tại sao không? Hay cứ đổ riệt cho khủng hoảng với tổng cầu yếu cho tiện?

      Delete

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).