Saturday 21 February 2015

7 khúc mắc quanh việc quốc hữu hóa VNCB (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân, 14/2/2015, bản gốc)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=341620

(Mãi hôm nay tớ mới update bài này lên blog được, vì về đến VN tớ mới biết blog mình bị chặn thế nào đó mà không vào được từ notebook, mà chỉ vào được từ mobile device, chịu chẳng hiểu tại sao, vì tớ toàn nói chuyện phải quấy thế cơ mà?!

Bài này là để phang bài của đồng chí Luật sư Trương Thanh Đức trên CafeF, ở đây. CafeF từ chối đăng để giữ quan hệ nên tớ phải đăng ở báo khác, hơi trái luật chút :). Trong bài cũng có câu trả lời cho một đồng chí giấu mặt ất ơ nào đó hôm trước vặn vẹo tớ, đại loại nếu có ai sẵn sàng mua cổ phần VNCB với giá 10 VND thì sao?)


Sự kiện Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tuyên bố mua lại bắt buộc toàn bộ cổ phần của Ngân hàng Xây dựng với giá 0 đồng đã thu hút được sự chú ý của đông đảo dư luận và đặt ra một số vấn đề khúc mắc.


Khúc mắc đầu tiên là chuyện mua lại bắt buộc toàn bộ cổ phần này của NHNN có thể coi là quốc hữu hóa hay không. Có người viện dẫn các điều luật trong Hiến pháp năm 1992 và 2013 về việc pháp luật bảo hộ, không quốc hữu hóa tài sản hợp pháp của cá nhân và tổ chức để nói rằng không còn hình thức quốc hữu hóa trong chế độ hiện tại.
Đương nhiên, trên danh nghĩa, hành động mua lại bắt buộc của NHNN không được chính NHNN hay các cơ quan có thẩm quyền gọi là quốc hữu hóa (phải chăng là họ cũng đã tham khảo các điều luật trên trong Hiến pháp?). Nhưng trên thực tế, bất kể hành động nào của chính phủ dùng tiền công quỹ mua lại tài sản của một cá nhân hay tổ chức nào đó, để biến tài sản tư hữu đó thành công sản, thì về bản chất đều phải được hiểu là hành động quốc hữu hóa. Các hành động mua lại tương tự ở các nước tư bản khác, như Mỹ, nơi mà quyền tư hữu tài sản là bất khả xâm phạm và còn được bảo vệ chặt chẽ hơn nhiều so với Việt Nam, cũng đều được gọi là quốc hữu hóa (nationalization).


Trong trường hợp VNCB, rõ ràng NHNN đã tuyên bố mua lại cổ phần với giá 0 đồng, chứ không phải là chiếm đoạt như dưới thời cải cách ruộng đất (còn tại sao lại là 0 đồng mà không phải là một con số dương nào khác thì sẽ nói thêm ở dưới đây), nên hành động này cũng cần phải được hiểu đích danh là quốc hữu hóa, biến VNCB thành ngân hàng quốc doanh (do nhà nước làm chủ, và tự hoặc thuê người đại diện cho nhà nước điều hành kinh doanh).
Khúc mắc thứ hai là liệu việc mua bắt buộc này của NHNN có phải hình thức trưng thu tài sản không, và nếu là trưng thu thì phải mua theo giá thị trường (theo Điều 149 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010), mà hiện tại thì chưa thấy cơ sở pháp lý nào khẳng định rằng, giá thị trường của cổ phần VNCB là bằng 0.

Đương nhiên, hình thức trên không phải là trưng thu, mà là quốc hữu hóa như đã nói ở trên (hoặc là “mua cổ phần bắt buộc” theo ngôn từ của NHNN hay của Quyết định 48/2013/QĐ-TTg) . Vì thế, vận dụng Điều 149 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 để yêu cầu NHNN phải xác định/chứng minh “giá thị trường” của cổ phần VNCB bằng 0 đồng là không thích hợp.
Khúc mắc thứ ba, tại sao giá mua bắt buộc cổ phần của VNCB lại là 0 đồng mà không phải là một con số nào đó như 10 đồng, 10.000 đồng, hay 100.000 đồng? Và nhỡ có ai đó sẵn sàng mua cổ phần VNCB với giá 10.000 thì sao?

Tuy Quyết định 48 không có điều khoản nào đề cập đến chuyện xác định giá mua bắt buộc cổ phần mà NHNN phải trả cho các cổ đông hiện hữu của ngân hàng bị kiểm soát đặc biệt, nhưng Điều 5 của Quyết định này trao quyền cho Thống đốc NHNN quyết định giá trị thực của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ của ngân hàng đó. Trường hợp sau khi có kết quả kiểm toán độc lập và Thống đốc NHNN quyết định rằng giá trị thực của vốn điều lệ của VNCB đã tụt giảm xuống 0 (không còn giá trị), kết hợp với tính chất “mua bắt buộc” thì việc NHNN mua cổ phần của VNCB với giá 0 đồng/cổ phần là hoàn toàn đúng luật và không có gì là bất công cho cổ đông hiện hữu của VNCB.
Còn nếu có ai đó sẵn sàng mua cổ phần VNCB với giá cao hơn thì, với quyết định mua bắt buộc của NHNN căn cứ Quyết định 48, các cổ đông VNCB cũng không được quyền bán cho họ, và chỉ có NHNN được mua với giá mà NHNN xác định là hợp lý (trong trường hợp của VNCB là 0 đồng/cổ phần). Cần luôn nhớ rằng trường hợp VNCB là trường hợp đã bị đặt vào diện kiểm soát đặc biệt nên nhất cử nhất động của ngân hàng đều phải được sự giám sát và đồng ý của NHNN, chứ không thể tự tung tự tác như những ngân hàng bình thường khác.

Khúc mắc thứ tư, căn cứ vào tuyên bố mua lại của NHNN thì dường như NHNN mua lại cổ phần từ ngân hàng VNCB. Có người viện dẫn Điều 149 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 để lập luận rằng NHNN nếu muốn mua lại cổ phần của các cổ đông VNCB  (để loại bỏ họ với tư cách là cổ đông) thì  phải mua lại toàn bộ số cổ phần thuộc quyền sở hữu của tất cả cổ đông, chứ không thể mua từ ngân hàng.
Trên thực tế, NHNN chỉ tuyên bố “mua lại bắt buộc toàn bộ vốn cổ phần của VNCB”, chứ không nói là mua số cổ phần này từ ngân hàng VNCB. Hơn nữa, trong trường hợp này, hoàn toàn có thể công nhận/hiểu rằng NHNN đã mua toàn bộ số cổ phần trực tiếp từ các cổ đông; đơn giản vì cho dù họ không muốn bán với cái giá 0 đồng thì NHNN vẫn “mua bắt buộc” số cổ phần này từ tay họ với đúng cái giá đó, không hơn, không kém. Cần nhắc lại, điều quan trọng ở đây là VNCB rơi vào tình huống bị kiểm soát đặc biệt và vì thế phải vận dụng các điều luật liên quan, có trong Quyết định 48, chứ không phải là các điều luật cho một hoàn cảnh chung chung nào khác.    

Khúc mắc thứ năm, nhiều người cho rằng việc cổ đông bỗng chốc không còn nghĩa vụ và quyền lợi gì là điều rất không thoả đáng. Trên thực tế trong nước cũng như thế giới, đã từng có rất nhiều doanh nghiệp và ngân hàng lỗ lớn quá mức vốn điều lệ, đứng trên bờ vực phá sản, nhưng sau đó vẫn phục hồi trở lại.
Nhưng cần lưu ý lại rằng cổ đông VNCB đã không thông qua phương án bổ sung vốn điều lệ để đảm bảo giá trị thực vốn điều lệ tối thiểu của ngân hàng bằng mức vốn pháp định. Như thế có nghĩa là VNCB (và/hoặc cổ đông của nó) không những đã vi phạm quy định căn bản để được phép tồn tại và hoạt động (vì giá trị thực của vốn điều lệ tối thiểu nhỏ hơn vốn pháp định) mà còn tự từ chối cơ hội để phục hồi trở lại (thông qua nghị quyết không góp thêm vốn). Trong bối cảnh này thì không thể nói được rằng việc các cổ đông VNCB “trắng tay” là không thỏa đáng.

Khúc mắc thứ sáu, có ý kiến cho rằng không có quy định nào của pháp luật cho phép chuyển đổi một công ty cổ phần thành công ty TNHH 1 thành viên (ý nói đến việc biến VNCB từ hình thức một công ty cổ phần thành công ty một chủ sở hữu duy nhất là NHNN).
Tuy nhiên, vì VNCB đã rơi vào tình trạng bị giám sát đặc biệt nên NHNN hành động căn cứ vào Quyết định 48 và vì thế hành động của NHNN hoàn toàn hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.

Khúc mắc thứ bảy, có ý kiến tỏ rõ sự ngạc nhiên, tại sao một ngân hàng thương mại lại có thể chuyển đổi sang một hình thức khác để tiếp tục duy trì hoạt động với số vốn điều lệ bằng 0 hoặc là âm trong khi vốn thực có tối thiếu phải là 3.000 tỷ đồng?
Ở đây có một sự nhầm lẫn lớn. NHNN mua lại toàn bộ cổ phần với giá 0 đồng, nhưng điều này không có nghĩa là vốn điều lệ của VNCB sau khi NHNN mua lại chỉ là 0 đồng. Cũng giống như những hành động mua lại tượng trưng một doanh nghiệp nào đó với cái giá 1 USD như báo chí đã nhiều lần đưa tin, chủ sở hữu mới còn phải/có nghĩa vụ bỏ ra nhiều tiền để bơm vốn cho doanh nghiệp hoạt động trở lại, để thanh toán nợ nần với chủ nợ hiện hữu v.v...; NHNN trong trường hợp này cũng sẽ phải tái cấp vốn cho VNCB để nó hoạt động lành mạnh trở lại. Tuy không rõ là NHNN đã và sẽ tái cấp vốn bao nhiêu cho VNCB nhưng hoàn toàn có thể giả định rằng mức này sẽ đủ lớn để VNCB đáp ứng được yêu cầu về vốn tối thiểu, vì bản thân NHNN là cơ quan chủ quản nên biết rõ cần phải có bao nhiêu vốn mới đảm bảo được hoạt động lành mạnh.

Wednesday 4 February 2015

Quốc hữu hóa VNCB – ném chuột không để vỡ bình (Bài đăng trên CafeF, 4/2/2015)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/quoc-huu-hoa-vncb-nem-chuot-khong-de-vo-binh-2015020408382286.chn

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã tuyên bố quyết định sẽ mua lại bắt buộc toàn bộ vốn cổ phần của Ngân hàng Xây dựng (VNCB) với giá bằng 0 đồng/cổ phần. Như vậy, VNCB đã bị quốc hữu hóa, và NHNN đại diện cho Nhà nước Việt Nam trở thành chủ sở hữu hoàn toàn VNCB (100% vốn điều lệ), chấm dứt toàn bộ quyền, lợi ích và tư cách cổ đông đối với các cổ đông hiện hữu của ngân hàng này.

Lý do sâu xa đằng sau việc quốc hữu hóa này có lẽ nằm ở chỗ VNCB được cho là đã mất sạch vốn chủ sở hữu do kết quả hoạt động yếu kém và không có khả năng tự tái cấu để tồn tại và đáp ứng được các tiêu chuẩn hoạt động an toàn trong ngành.

NHNN cũng tuyên bố rằng khi họ nắm quyền sở hữu toàn bộ, và Vietcombank tham gia quản trị, điều hành VNCB, thì ngân hàng này sẽ có điều kiện thuận lợi hơn trong việc triển khai thành công phương án tái cơ cấu được duyệt và phát triển hoạt động kinh doanh theo hướng an toàn, hiệu quả hơn.

Tuy nhiên, cần nhớ lại rằng hồi tháng 8 năm ngoái, cũng chính Vietcombank đã được NHNN giao tham gia tái cơ cấu VNCB theo đề án tái cơ cấu được NHNN phê duyệt, với tư cách là đầu mối hỗ trợ toàn diện, từ tài chính cho đến nhân lực, cho ngân hàng này. Vậy hành động quốc hữu hóa của NHNN với VNCB lần này cho thấy dường như một mình Vietcombank đã không thể đảm nhận tốt được vai trò hỗ trợ này.

Lý do có thể là VNCB là một “ca” quá nặng, và hậu quả do nó gây ra sẽ là quá lớn với một ngân hàng tuy lớn như Vietcombank nhưng lại là một ngân hàng cổ phần, không chỉ có nhà nước là cổ đông, nên không thể tự do hành động theo chỉ đạo của NHNN. Và vì NHNN với tư cách là chủ sở hữu mới của VNCB, nhưng không cử người tham gia điều hành, quản trị VNCB, nên có thể suy ra thêm rằng nguyên nhân làm VNCB, rồi VNCB với sự tham gia của Vietcombank, đã và vẫn thất bại trong việc tái cơ cấu và vực dậy VNCB là do thiếu trầm trọng một nguồn lực tài chính mạnh, là cái mà NHNN – chủ sở hữu mới – có thể cung cấp một cách dồi dào theo nhu cầu.

Lật ngược lại vấn đề, tại sao NHNN không để VNCB phá sản, theo chủ trương đã được cả Thủ tướng từng tuyên bố rõ, để vừa trừng phạt cổ đông các ngân hàng yếu kém, vừa chấm dứt được một sự mặc định bấy lâu nay rằng cứ làm ẩu cũng không sao vì nhà nước rốt cuộc sẽ cứu vớt?

Một trong những khúc mắc chính là chuyện đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền. Theo quy định hiện hành về chi trả bảo hiểm tiền gửi ban hàn từ năm 2005, khi một ngân hàng phá sản thì người gửi tiền chỉ được bồi thường ở mức tối đa là 50 triệu đồng bất kể gửi bao nhiêu tiền. Trong bối cảnh hiện nay, rõ ràng mức bảo hiểm tối đa này là quá ít, gây thiệt hại lớn cho không ít người gửi tiền khi VNCB bị cho phá sản.

Quan trọng hơn, VNCB nếu bị cho phá sản sẽ là một tiền lệ để dân chúng thấy rằng những ngân hàng yếu kém khác cũng có thể theo vết xe đổ đó, để rồi một nỗi sợ hãi mang tính dây chuyền sẽ được kích hoạt trong cộng đồng những người đang gửi tiền vào hệ thống ngân hàng và thúc giục họ đổ xô rút tiền ra sớm để bảo toàn tài sản của mình. Nếu không kiểm soát kịp thời thì nạn dịch đổ xô rút tiền sẽ lây lan rộng, kéo theo nhiều ngân hàng khác vốn đang khỏe mạnh cũng lâm vào khủng hoảng thanh khoản, đe dọa đến tính ổn định của toàn hệ thống ngân hàng.

Do đó, trong chừng mực luật lệ hiện hành về bảo hiểm tiền gửi chưa được sửa đổi và cho đến nay ở Việt Nam chưa từng có một tiền lệ công khai về việc cho ngân hàng phá sản, giải pháp đỡ xấu hơn là NHNN đứng ra quốc hữu hóa VNCB, để nó tiếp tục tồn tại dưới cái bóng của NHNN làm yên tâm người gửi tiền. Quốc hữu hóa cũng còn là một cách trừng phạt các cổ đông của những ngân hàng yếu kém một cách hòa bình mà không sợ “ném chuyện vỡ bình” như trong trường hợp để cho chúng phá sản. Trong trường hợp VNCB, cổ đông của ngân hàng này trở nên tay trắng ngay sau hành động tuyên bố mua lại VNCB với giá 0 đồng của NHNN, và cả hệ thống vẫn hầu như không bị ảnh hưởng gì.


Cần lưu ý rằng giải pháp quốc hữu hóa ngân hàng có vấn đề không phải là hiếm trên thế giới, vì nó là một giải pháp có hiệu quả tức thì trong việc ổn định tâm lý thị trường và ngăn chặn cơn hoảng loạn đổ xô rút tiền của dân chúng. Trong cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008, chính phủ Anh đã phải mua lại ngân hàng Northen Rock, Bradford & Bingley và Royal Bank of Scotland. Cũng thời gian này, Mỹ đã thực hiện một chương trình mua lại các tài sản và cổ phần của các ngân hàng có vấn đề ở nước này với trị giá ban đầu tới 700 tỷ USD. Sau một thời gian khá ngắn, phần lớn những ngân hàng có vấn đề này đã hồi phục và mua lại cổ phần của họ do chính phủ Mỹ nắm giữ, và chính phủ Mỹ cũng đã thu được lợi nhuận từ những thương vụ này.

Tuy vậy, đương nhiên phí tổn của việc quốc hữu hóa này là tổn thất tiền thuế của dân chúng góp để nuôi những “con nợ”, là những ngân hàng có vấn đề này, trong đó có VNCB. Nếu may mắn thì các ngân hàng này sẽ có một ngày nào đó phục hồi lại được sức khỏe và làm ra lãi để trả nợ lại NHNN, dưới hình thức NHNN bán lại những ngân hàng này cho các nhà đầu tư – các cổ đông mới – thu về một khoản lãi như trong trường hợp của Mỹ. Còn nếu không may mắn thì có lẽ NHNN sẽ để chúng “tan biến” vào các ngân hàng khác với cái giá như cho không, còn hơn là để chúng tồn tại như một cái gai trong hệ thống ngân hàng.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).