(Mãi hôm nay tớ mới update bài này lên blog được, vì về đến VN tớ mới biết blog mình bị chặn thế nào đó mà không vào được từ notebook, mà chỉ vào được từ mobile device, chịu chẳng hiểu tại sao, vì tớ toàn nói chuyện phải quấy thế cơ mà?!
Bài này là để phang bài của đồng chí Luật sư Trương Thanh Đức trên CafeF, ở đây. CafeF từ chối đăng để giữ quan hệ nên tớ phải đăng ở báo khác, hơi trái luật chút :). Trong bài cũng có câu trả lời cho một đồng chí giấu mặt ất ơ nào đó hôm trước vặn vẹo tớ, đại loại nếu có ai sẵn sàng mua cổ phần VNCB với giá 10 VND thì sao?)
Sự kiện Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tuyên bố mua lại bắt buộc toàn bộ cổ phần của Ngân hàng Xây dựng với giá 0 đồng đã thu hút được sự chú ý của đông đảo dư luận và đặt ra một số vấn đề khúc mắc.
Khúc mắc đầu tiên là chuyện mua lại bắt buộc toàn bộ cổ phần này của NHNN có
thể coi là quốc hữu hóa hay không. Có người viện dẫn các điều luật trong Hiến
pháp năm 1992 và 2013 về việc pháp luật bảo hộ, không quốc hữu hóa tài sản hợp
pháp của cá nhân và tổ chức để nói rằng không còn hình thức quốc hữu hóa trong
chế độ hiện tại.
Đương nhiên, trên danh nghĩa, hành động mua lại bắt buộc của NHNN không được
chính NHNN hay các cơ quan có thẩm quyền gọi là quốc hữu hóa (phải chăng là họ
cũng đã tham khảo các điều luật trên trong Hiến pháp?). Nhưng trên thực tế, bất
kể hành động nào của chính phủ dùng tiền công quỹ mua lại tài sản của một cá
nhân hay tổ chức nào đó, để biến tài sản tư hữu đó thành công sản, thì về bản
chất đều phải được hiểu là hành động quốc hữu hóa. Các hành động mua lại tương
tự ở các nước tư bản khác, như Mỹ, nơi mà quyền tư hữu tài sản là bất khả xâm
phạm và còn được bảo vệ chặt chẽ hơn nhiều so với Việt Nam, cũng đều được gọi
là quốc hữu hóa (nationalization).
Trong trường hợp VNCB, rõ ràng NHNN đã tuyên bố mua lại cổ phần với giá 0 đồng,
chứ không phải là chiếm đoạt như dưới thời cải cách ruộng đất (còn tại sao lại
là 0 đồng mà không phải là một con số dương nào khác thì sẽ nói thêm ở dưới
đây), nên hành động này cũng cần phải được hiểu đích danh là quốc hữu hóa, biến
VNCB thành ngân hàng quốc doanh (do nhà nước làm chủ, và tự hoặc thuê người đại
diện cho nhà nước điều hành kinh doanh).
Khúc mắc thứ hai là liệu việc mua bắt buộc này của NHNN có phải hình thức
trưng thu tài sản không, và nếu là trưng thu thì phải mua theo giá thị trường (theo
Điều 149 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010), mà hiện tại thì chưa thấy cơ
sở pháp lý nào khẳng định rằng, giá thị trường của cổ phần VNCB là bằng 0.
Đương nhiên, hình thức trên không phải là trưng thu, mà là quốc hữu hóa như
đã nói ở trên (hoặc là “mua cổ phần bắt buộc” theo ngôn từ của NHNN hay của Quyết
định 48/2013/QĐ-TTg) . Vì thế, vận dụng Điều 149 của Luật Các tổ chức tín dụng
năm 2010 để yêu cầu NHNN phải xác định/chứng minh “giá thị trường” của cổ phần
VNCB bằng 0 đồng là không thích hợp.
Khúc mắc thứ ba, tại sao giá mua bắt buộc cổ phần của VNCB lại là 0 đồng mà
không phải là một con số nào đó như 10 đồng, 10.000 đồng, hay 100.000 đồng? Và
nhỡ có ai đó sẵn sàng mua cổ phần VNCB với giá 10.000 thì sao?
Tuy Quyết định 48 không có điều khoản nào đề cập đến chuyện xác định giá
mua bắt buộc cổ phần mà NHNN phải trả cho các cổ đông hiện hữu của ngân hàng bị
kiểm soát đặc biệt, nhưng Điều 5 của Quyết định này trao quyền cho Thống đốc
NHNN quyết định giá trị thực của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ của ngân hàng
đó. Trường hợp sau khi có kết quả kiểm toán độc lập và Thống đốc NHNN quyết định
rằng giá trị thực của vốn điều lệ của VNCB đã tụt giảm xuống 0 (không còn giá
trị), kết hợp với tính chất “mua bắt buộc” thì việc NHNN mua cổ phần của VNCB với
giá 0 đồng/cổ phần là hoàn toàn đúng luật và không có gì là bất công cho cổ
đông hiện hữu của VNCB.
Còn nếu có ai đó sẵn sàng mua cổ phần VNCB với giá cao hơn thì, với quyết định
mua bắt buộc của NHNN căn cứ Quyết định 48, các cổ đông VNCB cũng không được
quyền bán cho họ, và chỉ có NHNN được mua với giá mà NHNN xác định là hợp lý
(trong trường hợp của VNCB là 0 đồng/cổ phần). Cần luôn nhớ rằng trường hợp
VNCB là trường hợp đã bị đặt vào diện kiểm soát đặc biệt nên nhất cử nhất động
của ngân hàng đều phải được sự giám sát và đồng ý của NHNN, chứ không thể tự
tung tự tác như những ngân hàng bình thường khác.
Khúc mắc thứ tư, căn cứ vào tuyên bố mua lại của NHNN thì dường như NHNN
mua lại cổ phần từ ngân hàng VNCB. Có người viện dẫn Điều 149 của Luật Các tổ
chức tín dụng năm 2010 để lập luận rằng NHNN nếu muốn mua lại cổ phần của các cổ
đông VNCB (để loại bỏ họ với tư cách là
cổ đông) thì phải mua lại
toàn bộ số cổ phần thuộc quyền sở hữu của tất cả cổ đông, chứ không thể mua từ
ngân hàng.
Trên thực tế, NHNN chỉ tuyên bố
“mua lại bắt buộc toàn bộ vốn cổ phần của VNCB”, chứ không nói là mua số cổ phần
này từ ngân hàng VNCB. Hơn nữa, trong trường hợp này, hoàn toàn có thể công nhận/hiểu
rằng NHNN đã mua toàn bộ số cổ phần trực tiếp từ các cổ đông; đơn giản vì cho
dù họ không muốn bán với cái giá 0 đồng thì NHNN vẫn “mua bắt buộc” số cổ phần
này từ tay họ với đúng cái giá đó, không hơn, không kém. Cần nhắc lại, điều
quan trọng ở đây là VNCB rơi vào tình huống bị kiểm soát đặc biệt và vì thế phải
vận dụng các điều luật liên quan, có trong Quyết định 48, chứ không phải là các
điều luật cho một hoàn cảnh chung chung nào khác.
Khúc mắc thứ năm, nhiều người cho rằng việc cổ đông bỗng chốc không còn
nghĩa vụ và quyền lợi gì là điều rất không thoả đáng. Trên thực tế trong nước
cũng như thế giới, đã từng có rất nhiều doanh nghiệp và ngân hàng lỗ lớn quá mức
vốn điều lệ, đứng trên bờ vực phá sản, nhưng sau đó vẫn phục hồi trở lại.
Nhưng cần lưu ý lại rằng cổ đông VNCB đã không thông qua phương án bổ sung
vốn điều lệ để đảm bảo giá trị thực vốn điều lệ tối thiểu của ngân hàng bằng mức
vốn pháp định. Như thế có nghĩa là VNCB (và/hoặc cổ đông của nó) không những đã
vi phạm quy định căn bản để được phép tồn tại và hoạt động (vì giá trị thực của
vốn điều lệ tối thiểu nhỏ hơn vốn pháp định) mà còn tự từ chối cơ hội để phục hồi
trở lại (thông qua nghị quyết không góp thêm vốn). Trong bối cảnh này thì không
thể nói được rằng việc các cổ đông VNCB “trắng tay” là không thỏa đáng.
Khúc mắc thứ sáu, có ý kiến cho rằng không có quy định nào của pháp luật
cho phép chuyển đổi một công ty cổ phần thành công ty TNHH 1 thành viên (ý nói
đến việc biến VNCB từ hình thức một công ty cổ phần thành công ty một chủ sở hữu
duy nhất là NHNN).
Tuy nhiên, vì VNCB đã rơi vào tình trạng bị giám sát đặc biệt nên NHNN hành
động căn cứ vào Quyết định 48 và vì thế hành động của NHNN hoàn toàn hợp pháp,
đúng quy định của pháp luật.
Khúc mắc thứ bảy, có ý kiến tỏ rõ sự ngạc nhiên, tại sao một ngân hàng
thương mại lại có thể chuyển đổi sang một hình thức khác để tiếp tục duy trì hoạt
động với số vốn điều lệ bằng 0 hoặc là âm trong khi vốn thực có tối thiếu phải
là 3.000 tỷ đồng?
Ở đây có một sự nhầm lẫn lớn. NHNN mua lại toàn bộ cổ phần với giá 0 đồng,
nhưng điều này không có nghĩa là vốn điều lệ của VNCB sau khi NHNN mua lại chỉ
là 0 đồng. Cũng giống như những hành động mua lại tượng trưng một doanh nghiệp
nào đó với cái giá 1 USD như báo chí đã nhiều lần đưa tin, chủ sở hữu mới còn
phải/có nghĩa vụ bỏ ra nhiều tiền để bơm vốn cho doanh nghiệp hoạt động trở lại,
để thanh toán nợ nần với chủ nợ hiện hữu v.v...; NHNN trong trường hợp này cũng
sẽ phải tái cấp vốn cho VNCB để nó hoạt động lành mạnh trở lại. Tuy không rõ là
NHNN đã và sẽ tái cấp vốn bao nhiêu cho VNCB nhưng hoàn toàn có thể giả định rằng
mức này sẽ đủ lớn để VNCB đáp ứng được yêu cầu về vốn tối thiểu, vì bản thân
NHNN là cơ quan chủ quản nên biết rõ cần phải có bao nhiêu vốn mới đảm bảo được
hoạt động lành mạnh.