Saturday 14 March 2015

Chính sách tỷ giá của NHNN: Tiến thoái lưỡng nan (Bài đăng trên CafeF, ngày 14/3/2015)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/chinh-sach-ty-gia-cua-nhnn-tien-thoai-luong-nan-20150313233538702.chn
 
Tin tức về sự mất giá của đồng nội tệ so với USD của khu vực và trên thế giới, đặc biệt là sự lao dốc của đồng euro, đến liên tục và dồn dập trong thời gian ngắn gần đây đã làm không ít quốc gia khác chưa phá giá nội tệ ngày càng lo ngại. Một số trong số này, như Thái Lan mới hôm trước đây, cuối cùng thì cũng đã nhận thấy cái giá phải trả nếu không gia nhập cuộc chơi phá giá, và đã có những động thái nới lỏng chính sách tiền tệ thông qua hạ lãi suất để làm yếu đồng nội tệ của mình nhằm thúc đẩy xuất khẩu và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Nhưng tình hình ở Việt Nam xem ra lại khá im ắng một cách bất ngờ và đáng…khâm phục! Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thì đương nhiên là vẫn “kiên định” với chính sách tỷ giá ổn định (tỷ giá VND/USD không biến động quá 1-2% trong cả năm 2015) mà ông Thống đốc đã đặt ra từ đầu năm, làm cho tỷ giá VND/USD cứ rập rình lúc tăng, lúc lại giảm, không thể bứt phá lên được. Trong khi đó, một kiến nghị từ một tổ chức nghiên cứu đề xuất phá giá VND, dù chỉ là ở mức rất nhỏ, một vài điểm phần trăm cho cả 2,3 năm tới, đã bị dư luận và giới chuyên gia “quật” cho không thương tiếc, làm cho một vài tiếng nói tương tự từ một vài cá nhân khác rơi tõm vào hư không…

Điều hài hước là những ý kiến phản bác phá giá VND tuy đã rất cũ và sai lầm nhưng vẫn cứ “bổn cũ soạn lại”, được các chuyên gia có tiếng tăm đem ra để trấn áp cái kiến nghị phá giá xem ra nhiều phần yếu thế hơn.

Ngoài những sai lầm hiển nhiên từ góc độ kiến thức kinh tế học cơ bản, kiểu như tỷ trọng đầu vào nhập khẩu của hàng hóa Việt Nam lớn nên phá giá không có lợi ích gì cho xuất khẩu v.v…cũng có vài ý kiến phản bác mang tính ngụy biện cao mà bình thường nếu nghe lướt qua thì cứ tưởng là đúng. Chẳng hạn như ý kiến cho rằng tỷ giá bây giờ là phù hợp, không cần phá giá nữa, vì tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam vẫn ở mức khả quan, Việt Nam vẫn đạt thặng dư thương mại trong thời gian qua. Tính ngụy biện nằm ở chỗ, nếu VND yếu hơn nữa so với USD thì xuất khẩu của Việt Nam còn tăng trưởng mạnh hơn thế nữa, và/hoặc thặng dư thương mại còn lớn hơn nữa. Chẳng lẽ Việt Nam không cần tăng trưởng xuất khẩu nhanh hơn, thặng dư thương mại lớn hơn ư?

Cũng có những phân tích mang tính cơ bản hơn một chút khi đưa ra những căn cứ để cho thấy tỷ giá ổn định là có cơ sở, chủ yếu xuất phát từ quan hệ cung cầu USD (được dự đoán là ổn định trên thị trường Việt Nam). Nhưng kiểu phân tích này mới chỉ nhìn từ góc độ phòng bị, bảo vệ tỷ giá mà bỏ qua góc độ chủ động dùng tỷ giá như một công cụ chính sách kinh tế sắc bén. Cụ thể hơn, trong bối cảnh các nước trong khu vực và trên thế giới, bao gồm cả những đối thủ trường kỳ và nặng ký của Việt Nam như Trung Quốc và ASEAN, thi nhau hạ giá nội tệ của họ để dành thị phần xuất khẩu, không lẽ Việt Nam nên chăm chăm bảo vệ sự ổn định của tỷ giá, không có chủ động phá giá để cho các đối tác này giành mất thị trường xuất khẩu hay sao?

Tất nhiên, NHNN và những người ủng hộ chủ trương không phá giá có thể trưng ra cái lý do là ổn định tỷ giá sẽ ổn định niềm tin vào VND và, tức là, ổn định được lạm phát và kinh tế vĩ mô. Trong khi đó, nếu phá giá VND sẽ mang đến kết cục ngược lại, dù xuất khẩu và, do đó, tăng trưởng GDP sẽ tăng lên. Nói cách khác, có thể với họ, đây là 2 mục tiêu có tính đánh đổi, chứ không thể có sự dung hòa với nhau; và với họ thì mục tiêu ổn định vẫn là ưu tiên hơn nên họ muốn/phải chọn giữ ổn định tỷ giá.

Nhưng nếu thực sự họ quan niệm như thế thì hoàn toàn sai lầm. Ổn định tỷ giá VND trong bối cảnh các nước đang thi nhau phá giá bản tệ (mà theo kinh tế học gọi là hành vi xuất khẩu thất nghiệp sang các nước khác) sẽ tác động tiêu cực trực tiếp lên xuất khẩu của Việt Nam, đồng thời lại khuyến khích nhập khẩu, đè chết doanh nghiệp/hàng hóa nội địa. Một loạt hậu quả nguy hại sẽ nảy sinh, bao gồm tăng trưởng GDP chậm lại, thất nghiệp gia tăng, thâm hụt thương mại gia tăng gây áp lực phá giá lên ngay chính VND v.v… Liệu pháp điều trị căn bản cho nền kinh tế trong tình huống này chủ yếu vẫn chỉ là phải chấp nhận phá giá VND, theo cuộc chơi của các đối thủ để lấy lại những gì đối thủ đã lấy từ phía mình. Nói cách khác, trong bối cảnh các nước khác đang phá giá bản tệ thì sự ổn định tỷ giá nói riêng và ổn định tỷ giá vĩ mô nói chung ở Việt Nam, nếu có, chỉ là một hiện tượng mang tính tạm thời, chắc chắn sẽ sớm mất đi.

Ngoài lý do trên, cũng có thể còn một lý do nữa để NHNN lựa chọn giữ ổn định tỷ giá vì muốn tái khẳng định và duy trì lòng tin của dân chúng vào chính sách của NHNN, vào uy tín của cơ quan này, với phương châm “nói là làm” (họ nói ổn định tỷ giá thì họ sẽ ổn định tỷ giá). Nếu đúng vậy thì đây chính là một nguồn cơn cho tình trạng “tiến thoái lưỡng nan” của NHNN. Một mặt như trên đã phân tích, có thể bản thân NHNN cũng đã nhận ra sự bất ổn của cái thế “ổn định” hiện nay, nhưng, mặt khác họ lại bị mắc kẹt vào cam kết không phá giá VND quá 2% của chính mình, nên dù biết là cần thiết thì NHNN cũng không thể phá giá VND ở mức đáng kể như các nước khác đã làm.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).