Hơn một tháng
qua, Chính phủ Trung Quốc đã có những biện pháp can thiệp trực tiếp và mạnh mẽ
đến mức thái quá vào thị trường chứng khoán nước này như: cấm các cổ đông lớn
bán cổ phiếu, cấm bán khống cổ phiếu, bơm tiền với quy mô lớn cho các quỹ và
các công ty môi giới mua lại cổ phiếu, đình chỉ các vụ chào bán ra công chúng
lần đầu (IPO) mới và hạ lãi suất. Trong khi đó, các phương tiện thông tin đại
chúng tích cực tuyên truyền những điều lạc quan, tốt đẹp về tình hình thị
trường chứng khoán cũng như những lời trấn an của giới chức nước này. Chính
quyền Trung Quốc thậm chí còn hướng chú ý của dư luận sang những hành vi “phá
hoại”, làm giá trên thị trường như là nguyên nhân chính của sự suy sụp chứng
khoán chứ không phải là bản thân những bất ổn nội tại và những sai lầm của
chính quyền Trung Quốc.
Bằng hàng loạt
những biện pháp như vậy, Trung Quốc đã phần nào thành công với việc vực lại thị
trường chứng khoán (tuy vậy, thị trường cũng chỉ tăng điểm được một tuần trước
khi rơi mạnh trở lại vào đầu tuần này). Điều đáng nói ở đây là sự can thiệp
thành công, nếu có, của Chính phủ Trung Quốc đang phải trả một cái giá gián
tiếp khá đắt mà có thể bây giờ họ mới nhận thấy. Đó là sự đánh mất hình ảnh của
một Trung Quốc đang nỗ lực cải cách kinh tế theo hướng một nền kinh tế thị
trường đầy đủ và hoàn thiện. Đó là sự sứt mẻ về niềm tin của nhà đầu tư nước
ngoài vào thị trường Trung Quốc khi mà tiền của họ dễ dàng bị tước đoạt bằng
những mệnh lệnh của chính quyền; và niềm tin của nhà đầu tư nội địa vào sức
mạnh và khả năng của Chính phủ Trung Quốc. Đó là khả năng Trung Quốc sẽ thất
bại trong tham vọng quốc tế hóa đồng nhân dân tệ của họ, trong đó có những việc
biến nó thành đồng tiền dự trữ của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF).
Với Việt Nam,
tuy mọi việc xem ra vẫn đang trong tầm kiểm soát, nhưng cũng đã có một vài dấu
hiệu cho thấy đây đó đang có những chính sách đi ngược lại các quy luật thị
trường, mang nặng dấu ấn can thiệp của Chính phủ. Chẳng hạn mới đây nhất thì có
kế hoạch Bộ Tài chính vay 30.000 tỷ đồng từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Tuy Bộ
Tài chính tuyên bố rằng hành động vay mượn này là hoàn toàn bình thường, đúng
luật (vì Luật Ngân sách cho phép làm vậy). Đúng là có điều luật như vậy. Điều
đáng nói là hành động “vay” NHNN là một hành động mang tính phi thị trường, vì
về bản chất là ngân hàng trung ương in tiền cho Chính phủ chi tiêu, và đây sẽ
là nguồn gốc của những bất ổn vĩ mô và những sự không minh bạch trong chi tiêu
ngân sách.
Ngoài ra, hành
động kiềm chế tỷ giá của NHNN chủ yếu vì mục đích bảo đảm cho nợ công (tính bằng
tiền đồng) của Chính phủ và các doanh nghiệp, chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước,
không tăng vọt, trong khi đó lại gây tổn hại cho xuất khẩu, cho sản xuất nội
địa nói riêng và toàn nền kinh tế nói chung (do tiền đồng lên giá và lãi suất
đứng ở mức cao để bảo vệ tỷ giá) cũng là một hành động đi ngược lại quy luật
thị trường, tạo ra những bất trắc và rủi ro cho nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Tất cả những
chính sách trên sẽ góp phần làm tăng khó khăn cho Việt Nam khi muốn trở thành
một địa chỉ hấp dẫn cho đầu tư nước ngoài, khi muốn được phần còn lại của thế
giới công nhận là một nền kinh tế thị trường hoàn thiện và đích thực để không
còn bị áp đặt những biện pháp chống bán phá giá như đang phải chứng kiến.
Bởi vậy, bài
học can thiệp thô bạo vào thị trường ở Trung Quốc cần được quán triệt ngay và
đầy đủ ở Việt Nam.