Sau khi đã mất 1/3 giá trị, chứng khoán Trung Quốc đã
tăng giá trở lại trong 2 ngày liên tiếp cuối tuần trước nhờ những nỗ lực cứu vớt “quyết liệt” chưa từng có tiền
lệ của nhà đương cục Trung Quốc. Chỉ số chứng khoán Thượng Hải tăng 4,5% vào cuối ngày thứ 6 sau khi có lúc đã tăng tới 6,7% trong ngày. Tương tự, chỉ
số chứng khoán Thẩm Quyến cũng tăng 4,6%.
Tuy vậy, sự phục hồi này
mới chỉ là bước đầu và còn quá sớm để nói rằng chứng khoán Trung Quốc đã qua
cơn nguy kịch và sẽ tiếp tục phục hồi và lấy lại những gì đã mất trong gần 1
tháng qua. Bởi thị trường chứng khoán Trung Quốc thực tế đã tăng trưởng bùng nổ
theo kiểu bong bóng trong 1 năm qua bất chấp nền tảng kinh tế - tăng trưởng
kinh tế của nước này – đã suy yếu đi đáng kể gần đây, quanh quẩn 7%/năm so với
thời hoàng kim 9%-10% trong cả 3 thập kỷ trước. Điều này cho thấy thành công của
nhà đương cục Trung Quốc trong việc vực dậy thị trường chứng khoán nước này có
chăng cũng chỉ là ngắn hạn, và sự điều chỉnh mạnh chỉ là vấn đề thời gian mà
thôi.
Điều đáng quan tâm hơn
là nếu chứng khoán Trung Quốc tiếp tục lao dốc hoặc, may mắn hơn, dừng lại ở mức
hiện tại thì sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam như thế nào.
Ảnh hưởng kinh tế trực tiếp
Người ta có thể hình
dung trước tiên đến hậu quả thua lỗ, tổn thất nặng của những nhà đầu tư Việt
Nam vào thị trường chứng khoán Trung Quốc. Tuy nhiên, hậu quả này có lẽ chỉ ở
phạm vi rất hẹp. Điều này có thể suy ra từ danh mục đầu tư của các quỹ đầu tư
trên thế giới. Chẳng hạn, thống kê cho thấy quỹ Vanguard Total International
Stock, một quỹ được ưa thích bởi các nhà đầu tư muốn vươn ra thị trường chứng
khoán nước ngoài, chỉ có chưa đến 4% tài sản đầu tư vào các cổ phiếu Trung Quốc.
Với sự đa dạng trong danh mục đầu tư của nhiều nhà đầu tư, ít nhất vài loại cổ
phiếu trên vài thị trường, thì rủi ro mất mát đến từ thị trường chứng khoán
Trung Quốc sẽ chỉ là một phần của con số 4% này với đa phần nhà đầu tư. Tương tự
như vậy, với các nhà đầu tư Việt Nam, chắc rằng thiệt hại từ sự lao dốc của chứng
khoán Trung Quốc cũng không khác biệt thế nhiều.
Một ảnh hưởng trực tiếp
khác là sự chuyển đổi danh mục đầu tư của không chỉ các nhà đầu tư Trung Quốc
mà còn của các nhà đầu tư quốc tế khác hướng vào thị trường chứng khoán Việt
Nam. Sau khi đã thấm bài học đau đớn từ việc đầu tư vào thị trường chứng khoán
Trung Quốc, sẽ có một bộ phận nhà đầu tư, kể cả nhà đầu tư Việt Nam, tìm kiếm một
thị trường thay thế khác an toàn hơn và cũng có tiềm năng tăng trưởng tương đối
tốt. Thị trường chứng khoán Việt Nam có thể lọt vào tầm ngắm của họ, nhưng có
bao nhiêu trong số này và sẽ phân bổ bao nhiêu vốn cho thị trường này lại là một
chuyện khác, phụ thuộc trực tiếp vào tính hấp dẫn của thị trường chứng khoán Việt
Nam tương đối so với các thị trường khác trên thế giới. Tuy người viết không lạc
quan lắm trước viễn cảnh này vì quan ngại sẽ xảy ra tâm lý co cụm, bảo toàn tài
sản của nhiều nhà đầu tư sau khi vướng vào tình trạng “con chim bị tên nên sợ
cành cong”, nhưng hãy cứ hy vọng một sự khởi sắc mới, hoặc ít ra thì cũng không
bị nhiễm cơn bạo bệnh của thị trường chứng khoán Trung Quốc cho thị trường chứng
khoán Việt Nam trong thời gian tới!
Ảnh hưởng kinh tế gián tiếp
Như vậy thì các ảnh hưởng
của thị trường chứng khoán Trung Quốc lên nền kinh tế Việt Nam sẽ chủ yếu là
gián tiếp. Ảnh hưởng gián tiếp đầu tiên là qua kênh thương mại giữa Trung Quốc
và Việt Nam. Khi chứng khoán Trung Quốc tụt dốc thì giá trị tài sản của nhiều
nhà đầu tư nắm giữ chứng khoán Trung Quốc bốc hơi mạnh, sẽ ngay trực tiếp ảnh
hưởng đến tổng cầu của nước này. Mức độ tiêu dùng, mua sắm, đầu tư vào bất động
sản, mở rộng đầu tư vào các ngành và lĩnh vực kinh tế của Trung Quốc sẽ sụt giảm
khi lượng tài sản khả dụng của đa phần nhà đầu tư trở nên teo tóp. Tổng cầu của
Trung Quốc suy giảm sẽ tác động tiêu cực đến xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường
nước này. Những ngành xuất khẩu chủ chốt của Việt Nam vào Trung Quốc như nông
nghiệp, thủy hải sản, khoáng sản và các loại nguyên liệu khác sẽ bị ảnh hưởng đầu
tiên.
Ngược lại, với tổng cầu
suy yếu trong khi năng lực sản xuất vẫn đã và đang tiếp tục dư thừa thì Trung
Quốc một mặt sẽ tìm mọi cách bảo hộ thị trường nội địa trước hàng nhập khẩu, mặt
khác sẽ nỗ lực thúc đẩy xuất khẩu của họ sang các nước khác bằng nhiều chiêu
trò, kể cả gian lận, và Việt Nam sẽ là một trong số những nạn nhân đầu tiên.
Chưa hết, tổng cầu suy yếu,
tăng trưởng kinh tế giảm sút sẽ dẫn đến áp lực giảm giá đồng bản tệ của Trung
Quốc (CNY, chủ yếu so với USD). Khi CNY giảm giá so với USD, nếu Việt Nam vẫn
“quyết liệt” với chính sách neo tỷ giá VND vào USD như hiện nay thì hậu quả lên
thương mại và nhập siêu của Việt Nam sẽ càng nghiêm trọng hơn, vì Trung Quốc là
nước xuất siêu lớn nhất vào Việt Nam.
Ảnh hưởng gián tiếp thứ
hai sẽ là lên... chứng khoán Việt Nam. Như đã phân tích ở trên, một số ngành xuất
khẩu của Việt Nam có thị trường xuất khẩu chủ yếu là Trung Quốc sẽ bị tác động
tiêu cực. Tính hấp dẫn và khả năng sinh lời của những cổ phiếu của các doanh
nghiệp trong các ngành này vì thế sẽ bị suy giảm tương ứng với tình trạng sụt
giảm doanh thu và lợi nhuận của chúng. Kỳ vọng hiển nhiên sẽ là giá cổ phiếu của
nhóm doanh nghiệp này sẽ đi xuống sau đó. Ngược lại, cổ phiếu của các doanh
nghiệp nhập khẩu và phân phối, kể cả những doanh nghiệp có nguyên phụ liệu đầu
vào nhập khẩu từ Trung Quốc sẽ có cơ hội khởi sắc hơn.
Ảnh hưởng gián tiếp thứ
ba sẽ rộng hơn nhưng cũng mông lung và khó lượng hóa hơn. Suy giảm tăng trưởng
hay những biến động kinh tế lớn của Trung Quốc luôn là một nỗi quan ngại sâu sắc
mang tính toàn cầu, đơn giản vì quy mô khủng của nền kinh tế nước này, đứng thứ
2 thế giới. Viễn cảnh tiếp theo sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Trung Quốc
sẽ là áp lực giảm phát mạnh hơn trên phạm vi toàn cầu. Trong bối cảnh khủng hoảng
nợ công Hy Lạp đe dọa tính ổn định của châu Âu, và phục hồi chưa chắc chắn của
Mỹ và Nhật, sự lao đao của Trung Quốc, vốn từng là phao cứu sinh cho nền kinh tế
khu vực và toàn cầu, sẽ làm xấu thêm triển vọng tăng trưởng kinh tế thế giới
năm nay và năm tới. Và khi tăng trưởng thế giới bị giảm sút thì Việt Nam cũng
không thể đứng an toàn ngoài cuộc vì các ảnh hưởng tiêu cực sẽ xảy đến thông
qua các kênh thương mại và đầu tư nước ngoài như đã từng chứng kiến mấy năm trước.
Và ảnh hưởng chính trị?
Cũng không phải là quá
hoang đường khi kỳ vọng rằng nhà cầm quyền Trung Quốc khi đang phải nỗ lực thậm
chí đến mức tuyệt vọng để vực nền kinh tế và trấn an dân chúng của họ qua cơn
bĩ cực hiện nay sẽ có những hành động tiêu cực như kích động tính dân tộc cực
đoan hay gây hấn (trở lại) với những nước láng giềng, trong đó có Việt Nam. Mục
đích không ngoài chuyện đánh lạc hướng dư luận, làm dân chúng của họ bớt bận
tâm đến các vấn đề kinh tế trong nước, “quên” phê phán giới chóp bu nước này,
và đảm bảo sẽ không xảy ra bạo loạn xã hội do dân chúng đã bất bình với những vấn
đề chính trị và kinh tế trong nước đến mức bộc phát. Bởi vậy, trên khía cạnh
này, sẽ không có gì là ngạc nhiên nếu trong tuần này, tháng này, đột nhiên
Trung Quốc, ví dụ, lại tái khởi động việc đưa giàn khoan nổi của họ đang cắm ở
Vịnh Bắc Bộ đi sâu vào vùng biển chủ quyền của Việt Nam. Những tình huống tương
tự như vậy là không thể không xảy ra nên chúng ta cần chuẩn bị sẵn sàng.
No comments:
Post a Comment