Saturday 29 August 2015

Thay đổi để đối phó với biến động thị trường (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân, 30/8)


Ngày 11.8 Trung Quốc đã bất ngờ phá giá CNY 1,9%. Hành động này đã tạo ra một chấn động lan rộng với bản tệ của nhiều nước cũng nhanh chóng mất giá theo CNY. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng lập tức phản ứng vào hôm 12.8 bằng cách nới biên độ tỷ giá thêm 1%, thay vì tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng VNĐ như vẫn thường làm. Nhưng điều bất ngờ chưa dừng lại vì Trung Quốc lại tiếp tục phá giá CNY trong 2 ngày kế tiếp sau đó lần lượt với 1,6% và 1,1%. 2 đợt phá giá này cũng lại gây ra làn sóng phá giá ở một số nước. Tuy vậy, NHNN lần này đã không có phản ứng gì, cho đến tận 20.8 khi họ không những phải nới biên độ tỷ giá thêm 1% mà còn tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng thêm 1% nữa.

Tuy đợt phá giá lần 2 này của NHNN chỉ là để giải tỏa bớt áp lực từ sự phá giá liên tiếp CNY trong khi tỷ giá VNĐ mới chỉ tăng 1% trong đợt điều chỉnh hôm 11.8 nhưng NHNN lại giải thích rằng họ phá thêm là để “chủ động dẫn dắt thị trường, đón đầu các tác động bất lợi của khả năng Fed tăng lãi suất”. Thế nhưng, dù Fed chưa tăng lãi suất và Trung Quốc cũng tuyên bố không phá giá CNY nữa nhưng tỷ giá VNĐ vẫn liên tục kịch trần trong những ngày sau đó, còn tỷ giá ngoài chợ đen thì cao hơn trong ngân hàng từ 200 - 300 đồng/USD. Điều này cho thấy NHNN phá giá VNĐ là chưa “đủ độ”. Dẫu vậy, trước sự căng thẳng này của tỷ giá, NHNN lại quay lại với cách làm cũ, tuyên bố đã điều chỉnh tỷ giá VNĐ đủ rồi và không có lý do gì để điều chỉnh nữa trong thời gian từ nay đến cuối năm và kể cả đầu năm sau.


Tạm không bàn đến tính hợp lý trong giải thích của NHNN về việc phá giá của họ và cũng giả sử rằng 2 đợt phá giá vừa rồi là đủ để giải tỏa áp lực lên VNĐ đến từ việc CNY mất giá và khả năng Fed tăng lãi suất đúng như NHNN tính toán cho đến ngày 20.8 là ngày họ tiến hành phá giá lần thứ 2. Như thế, trong bối cảnh không có thay đổi về các điều kiện thị trường bên ngoài - Trung Quốc không phá giá CNY nữa, và Fed tăng lãi suất vẫn chỉ là khả năng - thì quả đúng như NHNN nói là chẳng có lý do gì để điều chỉnh tỷ giá VNĐ nữa, và VNĐ đang ở thế ổn định tương đối.

Nhưng trên thực tế, điều kiện thị trường bên ngoài đã có thay đổi quan trọng so với tính toán của NHNN, với việc Trung Quốc tiếp tục tiến hành phá giá thêm CNY trong 3 ngày qua từ 25 - 27.8 (tuy mỗi ngày chỉ phá giá ở mức 0,7% - 0,9%). Quan trọng hơn mức độ phá giá CNY là chuyện Trung Quốc dường như luôn không giữ lời (trong đợt phá giá từ 11 - 13.8 họ cũng đều tuyên bố không phá giá nữa sau mỗi lần phá giá), nên khả năng Trung Quốc ngày mai, tuần sau, tháng sau lại tiếp tục phá giá CNY là điều không thể phủ nhận một cách chắc chắn như một số chuyên gia trong nước đã khẳng định. Nguy hiểm hơn, nếu Trung Quốc phá giá tiếp thì sẽ có khả năng lôi kéo các nước khác vào một cuộc chiến phá giá và điều này cũng tác động tiêu cực tới Việt Nam.

Như vậy, khi Trung Quốc đã và có khả năng tiếp tục phá giá CNY nữa thì áp lực lên VNĐ chắc chắn sẽ lại tăng lên từ điểm cân bằng hiện tại. Đấy là vẫn chưa kể đến việc Fed có thể sẽ nâng lãi suất trong tháng 9 hoặc tháng 12 này. Trong bối cảnh này, việc NHNN tiếp tục tuyên bố một mục tiêu cứng về tỷ giá (không phá giá nữa từ nay đến đầu năm sau), vô hình trung đặt NHNN vào tình thế khó như đã xảy ra trước đây không lâu. Nếu Trung Quốc (và các nước khác) tiếp tục phá giá bản tệ đủ lớn thì NHNN vẫn tiếp tục điệp khúc “không có lý do gì để điều chỉnh tỷ giá VNĐ”?

Đương nhiên, nếu muốn thực hiện cho bằng được mục tiêu không điều chỉnh tỷ giá thì NHNN sẽ phải tiếp tục dùng đến dự trữ ngoại hối. Nhưng theo báo chí cho biết thì trong thời gian qua NHNN đã phải dốc ra đến 4 tỷ USD trong số 37 tỷ USD dự trữ (lưu ý, 37 tỷ USD chưa bằng 12 tuần nhập khẩu của Việt Nam, là con số tối thiểu cần duy trì). Điều này cho thấy phải dùng đến dự trữ ngoại hối là giải pháp cực chẳng đã, và chỉ là mua thêm thời gian.

Từ phân tích trên, NHNN nên có động thái chuyển hướng lập trường về chính sách tỷ giá của mình để tự tạo ra nhiều không gian chính sách cho mình nhằm đối phó hữu hiệu và dễ dàng hơn những biến cố và bất trắc đến từ bên ngoài, không thuộc tầm kiểm soát của Việt Nam nói chung và NHNN nói riêng. Một chính sách tỷ giá không có những cam kết cứng, để ngỏ khả năng cho phép thay đổi theo điều kiện thị trường tỏ ra là điều cần thiết trong lúc này.

Thursday 27 August 2015

Tỷ giá: Nên thuận theo thị trường! (Bài đăng trên Doanh nhân Sài gòn, 27/8/2015, bản gốc)

http://www.doanhnhansaigon.vn/van-de/ty-gia-nen-thuan-theo-thi-truong/1091159/

Sau nhiều năm trồi sụt mạnh, tỷ giá VND đã hưởng một thời kỳ vài năm tương đối ít biến động cho đến nửa đầu năm trước. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thì coi sự bình ổn tương đối này của tỷ giá là thành tích của mình, chủ yếu nhờ vào những tuyên bố chắc như đinh đóng cột rằng sẽ không điều chỉnh tỷ giá quá 2-3% trong năm.

Thực ra, mấy năm trước là thời kỳ có thể nói là khá “thiên thời địa lợi” cho NHNN. Thứ nhất, lạm phát ở Việt Nam sau nhiều năm như con ngựa bất kham, là hậu quả của chiến lược tăng trưởng dựa vào mở rộng mạnh chính sách tiền tệ và tài khóa, đã bị kìm chân, và đã giảm từ mức 2 con số xuống còn 1 con số, chủ yếu nhờ sự thay đổi trong chiến lược của chính phủ, chuyển từ ưu tiên tăng trưởng cao sang ưu tiên ổn định vĩ mô. Lạm phát giảm đã làm giảm đáng kể áp lực lên tỷ giá VND.

Thứ hai, đồng USD đã suy yếu đáng kể so với các bản tệ chính trên thế giới, trong khi lãi suất của Mỹ xuống mức gần 0 đã làm giới đầu tư mang USD đi tìm những thị trường mới nổi, trong đó có Việt Nam, để đầu tư hưởng lãi suất cao hơn. Điều này là nguyên nhân quan trọng để NHNN vừa có điều kiện mua bổ sung quỹ dự trữ ngoại hối, vừa không phải vất vả chống đỡ cho VND như trước, khi cung USD luôn thiếu hụt.

Chưa kể đến việc tiếp tục siết chặt các quy định về quản lý ngoại hối (để hạn chế thị trường tự do, hạn chế cầu USD của nền kinh tế), chỉ với 2 yếu tố thuận lợi trên đã giúp NHNN “ghi điểm” với bàn dân thiên hạ khi cả năm có khi chỉ phải điều chỉnh tỷ giá 1 lần ở mức nhỏ. Thậm chí nhiều người còn hối hận vì đã trót không tin vào lời cam kết (không phá giá) của NHNN để phải chịu thiệt hại, ví dụ, do “ôm” vào USD thay vì gửi tiết kiệm bằng VND.

Nhưng tình hình đã có những thay đổi căn bản kể từ giữa năm 2014 đến nay. Đầu tiên là Mỹ rục rịch chuẩn bị cho việc nâng lãi suất USD khi bắt đầu thấy có những dấu hiệu tích cực trong sự phục hồi của nền kinh tế nước này. Mặc dù mới chỉ là “rập rình” tăng lãi suất USD mà mãi vẫn chưa kết được thời điểm thực hiện, nhưng việc này của Mỹ đã lập tức tạo ra những đợt sóng bán tháo tài sản và chuyển vốn sang USD hoặc vào các tài sản niêm yết bằng USD. Hậu quả là sự mất giá mạnh của hàng loạt bản tệ trên thế giới và trong khu vực so với USD. Hậu quả tiếp theo là xuất khẩu của Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề, do VND bị neo chặt vào USD, và do đó lên giá thực so với nhiều bản tệ khác. Chưa kể là VND còn lên giá thực ngay với chính USD, vì tuy lạm phát ở Việt Nam đã giảm mạnh nhưng vẫn còn cao hơn lạm phát ở Mỹ, trong khi tỷ giá danh nghĩa VND/USD đã thay đổi không đáng kể. Nhập siêu đã vì thế mà quay lại từ đầu năm nay và đã liên tục tăng lên cho đến hiện tại.

Nhập siêu ngày càng tăng đã tạo ra  áp lực lớn lên tỷ giá VND, đòi hỏi NHNN phải có những điều chỉnh kịp thời. Nhưng NHNN đã không những bỏ lỡ cơ hội để chủ động điều chỉnh tỷ giá vào những thời điểm thuận lợi mà còn tự làm khó mình thêm bằng sự lặp đi lặp lại cam kết và quyết tâm không phá giá quá mức đã tuyên bố từ đầu năm 2014-15 (2-3%). Những lý do đằng sau chuyện cam kết này có thể là do NHNN không đánh giá đúng được sức mạnh của thị trường, hay quá tự tin vào khả năng của mình, và/hoặc xem thường tác động bất lợi gây ra bởi VND mạnh cho cả nền kinh tế. Dù là lý do nào chăng nữa thì kết cục thị trường vẫn luôn đúng, và NHNN đã phải dùng hết hạn mức phá giá 2% trong chưa hết nửa đầu năm.

Rồi một thay đổi bất lợi khác xảy đến bất ngờ, mà có thể coi là cú đấm bồi mang tính quyết định lên chính sách tỷ giá của NHNN là chuyện Trung Quốc phá giá Nhân dân tệ (CNY), mà lại còn phá liên tiếp 3 lần trong 3 ngày kế tiếp nhau trong tháng 8 với cường độ lớn. Ngay sau đợt phá giá lần thứ nhất của Trung Quốc (11/8), NHNN đã phải tuyên bố nới rộng biên độ biến động tỷ giá quanh tỷ giá bình quân liên ngân hàng thêm 1 điểm %, mà thực chất là việc chấp nhận cho VND mất giá thêm 1%. NHNN lý giải hành động này là để đối phó với hành động phá giá của Trung Quốc.

Nhưng có lẽ không chỉ NHNN mà còn rất nhiều người không thể ngờ được là Trung Quốc lại tiếp tục phá giá lần 2 và lần 3 trong 2 ngày kế tiếp sau đó. So với mức mất giá của CNY thì 1% mất giá của VND là quá nhỏ. Hơn nữa, các bản tệ khác trên thế giới lại tiếp tục mất giá thêm sau những hành động này của Trung Quốc, càng làm tăng áp lực lên VND. Kết cục là NHNN lại một lần nữa ngay trong tháng 8 phải không chỉ tăng thêm biên độ biến động tỷ giá thêm 1% mà còn nâng cả tỷ giá bình quân liên ngân hàng thêm 1% nữa.

Điều đáng nói là trong lần phá giá VND lần 2 vừa qua (tuy vẫn quá nhỏ), NHNN lý giải là chủ động và linh hoạt đón trước việc Mỹ tăng lãi suất. Thế nhưng, lưu ý là trong suốt cả giai đoạn dài trước đó mặc dù có nhiều khuyến nghị NHNN phá giá VND do tác động của khả năng Mỹ tăng lãi suất làm các bản tệ khác mất giá so với VND, nhưng NHNN đã hầu như bỏ qua yếu tố này. Bởi vậy, có thể nói, cả 2 đợt điều chỉnh tỷ giá VND chẳng qua chỉ là phản ứng thụ động, đối phó với tình hình, đặc biệt xuất phát từ cái thế cố gắng không phải phá vỡ cam kết hạn mức phá giá mà tự NHNN đặt ra.

Điều quan trọng hơn ở trong bài này là bài học gì cho NHNN rút ra từ diễn biến mô tả bên trên. Trước áp lực xem ra vẫn còn rất lớn lên tỷ giá VND, với bằng chứng là tỷ giá trong ngân hàng đã luôn kịch trần, còn tỷ giá trên thị trường tự do thì lên đến gần 23.000 đồng/USD, NHNN lại một lần nữa lặp lại lập trường không phá giá thêm từ nay cho đến hết năm và sang cả đầu năm sau, rằng không có lý do gì để phá giá thêm nữa. Có lẽ NHNN vẫn tự tin cho rằng niềm tin của thị trường vào uy tín và khả năng của NHNN vẫn còn rất lớn. Hoặc NHNN cũng cho rằng điều kiện thị trường đang ủng hộ họ sau 2 đợt phá giá để đúng là sẽ không cần phải phá giá nữa chăng?

Nếu cho rằng uy tín vẫn còn lớn thì tự thân những sự kiện liên quan đến tỷ giá VND trong năm nay đã cho câu trả lời. Còn về khả năng can thiệp của NHNN, với quỹ dự trữ ngoại hối từ mức 37 tỷ USD (tương đương chưa đến  12 tuần nhập khẩu là mức an toàn tối thiểu) được tiết lộ tháng trước đã sụt giảm đáng kể sau một thời gian can thiệp đến hàng tỷ USD thì chắc chắn mức hiện nay đã tụt xuống hơn nữa so với mức an toàn tối thiểu.

Về điều kiện thị trường, sau khi Trung Quốc phá giá liên tục 3 ngày liền, nhiều chuyên gia đã cho rằng Trung Quốc sẽ không phá giá nữa, và đây có thể là cơ sở để NHNN tạm thời an tâm với mức phá giá VND của mình. Nhưng tiếc là Trung Quốc lại tiếp tục phá giá CNY trong mấy ngày qua, tuy ở mức nhỏ hơn so với 3 lần trước đây. Hành động của Trung Quốc đã gây lo ngại sâu sắc vì nguy cơ của một cuộc chiến tiền tệ, khi Nhật mới đây đã lên tiếng về tác động của CNY. Nếu Trung Quốc và những đối thủ của Trung Quốc bị cuốn vào cuộc chơi phá giá, chắc chắn VND, vốn đang phải chịu áp lực mất giá, sẽ phải chịu thêm nữa áp lực mất giá.

Dù cuộc chiến tiền tệ mới chỉ là nguy cơ, nhưng tự thân nó cho thấy NHNN lại đang đánh cược một cách không cần thiết với một thị trường đầy biến động về chính sách tỷ giá của mình. Điều mà NHNN nên làm không phải là lặp lại một cam kết khác về hạn mức “cứng” (không phá giá thêm) để rồi rất có khả năng một lần nữa phải phá vỡ cam kết đó. Thay vào đó, hãy biết nương theo, lợi dụng tình hình biến động của thị trường thế giới để tuyên bố và thi hành một chính sách tỷ giá mềm dẻo, có đường tiến và có cả đường lùi theo điều kiện thị trường. NHNN cần nhận thức rõ một điều là không thể chiến thắng được thị trường để không có những hành động đi ngược thị trường, gây ra những tác hại không đáng có.

Tuesday 25 August 2015

Ngụy khoa học

Mấy hôm trước tớ đọc bài của Bùi Trinh với Nguyễn Quang Đồng/Đông gì đó về tác hại của phá giá mà đã thấy điên cái đầu với bè lũ chuyên gia hạng hai, hạng ba này rồi, và chỉ có một mong muốn tột bậc là các đồng chí này shut up để cho trong sạch không khí.

Nay lại đọc được bài về phát biểu của mấy đồng chí giáo viên Đại học KTQD (bấm vào đây), buộc tớ phải lên tiếng một lần nữa về cái thói lươn lẹo, nói quàng nói xiên do vì ngu (lý do chính) hay vì một động cơ gì đó mà đã biến họ thành các nhà ngụy khoa học.

Ví dụ đầu tiên là đồng chí Phạm Thế Anh (PTA). Nếu tớ không nhầm thì đồng chí này đã từng ủng hộ phá giá, với những lý do mà theo tớ nhớ thì là rất đúng. Nhưng nay thì PTA thay đổi thái độ 180 độ, sang nói là phá giá không có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế.

Lý do là vì "...nghiên cứu của chúng tôi cho thấy điều ngược lại" (tức phá giá không làm tăng xuất khẩu và thúc đẩy tăng trưởng). Tớ thấy cái điệp khúc "theo tính toán của chúng tôi", "theo nghiên cứu của chúng tôi".... đã được trưng ra khá nhiều để làm nặng ký cho lời nói của nhiều cái gọi là chuyên gia. Hình như đồng chí Cấn Văn Lực hồi cách đây một vài tháng cũng từng phát biểu là theo tính toán của mình thì VND lên giá không đáng kể so với USD thì phải?

Vậy có ai biết mặt mũi của những tính toán, những nghiên cứu của những đồng chí này là như thế nào không? Tớ thật nhé, nếu những tính toán và những nghiên cứu này mà đúng như những đồng chí này nói thì chúng xứng đáng được đăng ở các tạp chí khoa học quốc tế đấy. Vì như vậy là đã bẻ gẫy được một lý thuyết cơ bản trong kinh tế học và là cơ sở hữu ích để các nước đừng có ngu dại mà phá giá hay chạy đua phá giá nữa. Mà đã thế rồi thì NHNN đừng có dại mà phá giá nữa, sao cứ phải phá giá làm gì cho thiệt đơn thiệt kép (vừa mất mặt, vừa bị mang tiếng là làm cái việc ngu xuẩn, vô ích).

Tớ thách các đồng chí này và những đồng chí khác công bố những nghiên cứu và tính toán của mình. Nếu không đủ gan để gửi đi tạp chí nước ngoài thì hãy gửi cho tớ xem để tớ sẽ chỉ ra ngay những cái sai trầm trọng, cơ bản trong phương pháp của họ, để mà tự thấy xấu hổ và không bao giờ còn dám trưng ra con hổ giấy là "nghiên cứu/tính toán của chúng tôi" nữa. Mục đích tớ thách cũng chẳng phải là ăn thua với mấy người này (không đáng), mà chỉ mong cơ quan chức năng biết được đâu là cái đúng, phải theo đuổi, phải vững tâm mà làm.

Trở lại trường hợp PTA sai chỗ nào thì tớ đã nói đến nhiều lần rồi (và mới ngay ở entry trước phang đồng chí Trinh/Đồng/Đông) nên nếu quả PTA mà có phát biểu như vậy thì tớ buộc phải dùng từ ngu/lươn lẹo/nói quàng nói xiên, ngụy khoa học v.v... cho trường hợp này (tùy PTA thấy từ nào là thích hợp nhất).

Sang đến Bùi Trinh (BT), lại một lần nữa lặp lại luận điệu "theo tính toán (của tôi/chúng tôi)". Tương tự như nói ở trên, tớ mong được nhìn thấy tính toán của BT xuất hiện trên tạp chí nước ngoài, hoặc tệ lắm là trước mặt tớ để tớ phang không còn chỗ mà chui xuống đất cho đỡ ngượng để sau khỏi lên tiếng bao la nữa.

Mong lắm, nhưng cũng biết là sẽ chẳng giúp cho mấy người này tốt hơn được!



Friday 21 August 2015

Những kịch bản tỷ giá (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân, 22/8/2015)

http://www.daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=356673


Phản ứng với việc Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ (NDT), trong các ngày 11 và 19.8, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã nới biên độ biến động tỷ giá bình quân liên ngân hàng lên 3% và điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng lên thêm 1% nữa. Tuy vậy, điều gì sẽ xảy ra với tỷ giá Việt Nam đồng (VNĐ) nếu Trung Quốc tiếp tục phá giá NDT hoặc Mỹ sẽ nâng lãi suất USD lên vào những tháng tới.

Mặc dù Trung Quốc tuyên bố sẽ không phá giá NDT nữa và không có lý do gì để tiếp tục làm thế nhưng khả năng nước này tiếp tục phá giá cũng không thể loại bỏ hoàn toàn, ít nhất vì chuyện họ đã nuốt lời ngay trong lần phá giá đầu tiên và thứ hai tuần trước (đều tuyên bố không phá giá nữa để rồi vẫn tiếp tục phá giá). Chưa kể, những đối tác thương mại lớn của Trung Quốc như Nhật và EU cũng có khả năng đáp trả lại hành động phá giá của Trung Quốc mà bị nhiều người coi là khơi mào cho chiến tranh tiền tệ. Đến lúc đó, thành quả phá giá tuần trước của Trung Quốc sẽ bị mai một trước đồng euro và Yen yếu hơn buộc Trung Quốc phải cân nhắc thêm các đợt phá giá mới để giành lợi thế cho xuất khẩu của mình.

Về khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) nâng lãi suất USD, việc Trung Quốc nâng lãi suất NDT với mức độ lớn đã đẩy Fed vào tình thế khá khó khăn. Nếu Fed vẫn quyết định nâng lãi suất trong tháng 9  hoặc vào thời gian cuối năm thì không chỉ làm tổn thương quá trình hồi phục kinh tế vốn còn khá mong manh của Mỹ vì một đồng USD mạnh lên (so với NDT) sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu, tăng trưởng và công ăn việc làm của nước này. Tình huống này càng trở nên nghiêm trọng hơn nếu Trung Quốc tiếp tục phá đồng NDT trong những tuần tới, tháng tới.

Tuy vậy, dù Fed đang gặp tình thế bất lợi trong việc nâng lãi suất của mình thì nhiều người tin rằng Fed vẫn sẽ nâng lãi suất trong những tháng tới. Theo một cuộc khảo sát của Reuters với các nhà kinh tế học mới đây, có hơn một nửa số người được hỏi cho rằng Fed sẽ nâng lãi suất vào tháng 9 hoặc tháng 12 năm nay. Những yếu tố cơ sở cho các dự đoán này là tình trạng công ăn việc làm và mức tăng lương khả quan hồi tháng 7, cũng như tăng trưởng kinh tế đã tăng tốc trong quý II so với quý I bị ảnh hưởng bởi thời tiết xấu.

Trong bối cảnh những yếu tố ngoại lai bất trắc như trên, có thể thấy là kịch bản đỡ xấu nhất cho NHNN là Trung Quốc thôi không phá giá NDT nữa và Fed chưa tăng lãi suất vào tháng 9. Trong kịch bản này, NHNN không phải chịu thêm áp lực phá giá VNĐ đến từ hai phía: từ Trung Quốc bởi NDT tiếp tục suy yếu và từ Mỹ bởi USD tháo chạy khỏi Việt Nam. Tuy áp lực phá giá VNĐ dồn nén từ mấy tháng trước và được khuếch đại bởi ba đợt phá giá liên tiếp của Trung Quốc trong tuần qua đã được giải tỏa phần nào nhờ những động thái gần đây của NHNN nhưng áp lực vẫn còn lớn (căn cứ vào mức độ lên giá của VNĐ so với các đồng tiền khác trong khu vực và trên thế giới). Do đó, NHNN có thể vẫn cần thiết phải phá VNĐ thêm nữa kể cả trong kịch bản khả quan nhất này. Nhưng nếu xét đến việc ưu tiên, bảo toàn tính ổn định, không làm xáo trộn quá lớn thị trường (nếu có) của mình thì NHNN có thể tiếp tục bán ngoại hối để neo giữ tỷ giá VNĐ trong phạm vi hiện tại thêm một thời gian nữa trước khi có những diễn biến mới xảy đến.

Kịch bản xấu hơn kịch bản trên là Trung Quốc tuy không phá giá nữa nhưng Fed tăng lãi suất tháng 9 hoặc chậm nhất là tháng 12 tới. Hậu quả của việc này lên tỷ giá VNĐ là không thể xem nhẹ, như được chứng kiến ở diễn biến tỷ giá của những bản tệ khác đã và đang tiếp tục yếu đi khi đích nâng lãi suất của Fed ngày càng đến gần hơn. Với tỷ giá VNĐ, khi Fed nâng lãi suất thì áp lực lên VNĐ chỉ có tăng lên chứ không giảm đi. Nên trong trường hợp này, tỷ giá VNĐ đi về đâu sẽ phụ thuộc vào NHNN có muốn ưu tiên giữ ổn định tỷ giá hay không và thực lực bảo vệ tỷ giá của họ đến đâu.

Một kịch bản có kết cục tương tự kịch bản trên là Trung Quốc tiếp tục phá giá nhưng Fed chưa tăng lãi suất vào tháng 9 hay tháng 12 này. Do Fed không tăng lãi suất nên không kích hoạt sự mất giá của nhiều đồng bản tệ trên thế giới. Nhưng hành động phá giá thêm của Trung Quốc sẽ có tác động tương tự như hành động tăng lãi suất của Fed bởi nó sẽ kéo theo sự phá giá của các đồng bản tệ khác nhằm tự vệ trước triển vọng hàng hóa và công ăn việc làm của họ bị lấn lướt bởi hàng hóa Trung Quốc. Trong hoàn cảnh này, vì quyền lợi của cả nền kinh tế có lẽ NHNN sẽ phải cân nhắc làm cho VNĐ yếu đi thêm ở mức độ nào đó từ mức hiện tại.

Kịch bản xấu nhất là Trung Quốc tiếp tục phá giá đồng thời với việc Fed nâng lãi suất ngay trong tháng 9 này. Lúc đó, dù muốn hay không thì nhiều nước sẽ bị cuốn vào một cuộc đua, chủ động và bị động phá giá mà thực chất là chiến tranh tiền tệ mặc dù không ai muốn nó xảy ra. Khi đó, Việt Nam chỉ là một kinh tế quá nhỏ, quá yếu ớt để biến mình thành một ốc đảo bình yên đứng vững giữa cơn lốc phá giá của các nước xung quanh và trên thế giới.

Khi các ông chủ ngân hàng bị “sờ gáy” (Bài đăng trên TBKTSG, 21/8/2015, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/134599/Khi-cac-ong-chu-ngan-hang-bi-so-gay.html

Nhiều việc lùm xùm đã xảy ra ở một số ngân hàng thương mại và nhiều ông chủ, lãnh đạo của các ngân hàng này đã bị các cơ quan thi hành pháp luật “sờ gáy”. Điểm chung ở những vụ việc này là các hành vi phạm pháp của các ông chủ và lãnh đạo trong những việc như dùng tín dụng của ngân hàng để “nuôi” doanh nghiệp sân sau hay cánh hữu của mình, biến ngân hàng mà mình chỉ có một phần sở hữu thành cái máy ATM tha hồ mà rút để chi tiêu cá nhân, để thôn tính các ngân hàng và doanh nghiệp khác, để tranh giành vị trí cổ đông chi phối nhằm trục lợi cho bản thân, gia đình và phe phái của mình v.v...
Một trong những vụ lùm xùm mới nhất liên quan đến ông Trầm Bê và ngân hàng Sacombank. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã chấp nhận về nguyên tắc để ngân hàng này sáp nhập với Southern Bank (PNB). Nhưng đáng chú ý là dường như NHNN chỉ phê chuẩn vụ sáp nhập này sau khi ông Bê, với tư cách là Phó Chủ tịch HĐQT Sacombank, tự nguyện cam kết ủy quyền không hủy ngang, vô thời hạn cho NHNN hoặc tổ chức, cá nhân do NHNN chỉ định thực hiện đầy đủ các quyền của cổ đông sau khi nhận sáp nhập PNB đối với toàn bộ cổ phần tại Sacombank, PNB và ngân hàng sau sáp nhập thuộc quyền sở hữu của ông Bê và các bên liên quan. Bằng việc ủy quyền này, ông Bê đã chính thức từ bỏ quyền và khả năng tham gia vào quản trị, điều hành ngân hàng sau sáp nhập.
Thông thường, xét về mặt quyền lợi, khi một cổ đông nào đó vì một hoàn cảnh bắt buộc nào đó phải ủy quyền việc thực hiện quyền cổ đông của mình thì người được chọn ủy quyền thường là người thân hoặc trong phe nhóm của mình. Hành động ủy quyền của ông Bê cho một bên thứ ba là “người dưng”, hoàn toàn không liên quan gì đến mình, đặc biệt đó lại là cơ quan đại diện cho nhà nước – NHNN, quả thật là một sự kiện hi hữu, chưa từng có tiền lệ ở Việt Nam.
Tuy vậy, sự việc này không hoàn toàn khó hiểu nếu để ý thêm rằng ông Bê cũng cam kết trong quá trình thực hiện đề án tái cơ cấu và xử lý nợ xấu của ngân hàng sau sáp nhập, nếu giá trị tài sản đảm bảo cho các nghĩa vụ nợ của ông và những người có liên quan không đủ sẽ bổ sung thêm các tài sản khác thuộc sở hữu của ông Bê.
Những điều trên cho thấy, việc ủy quyền của ông Bê không hẳn là tự dưng, tự nguyện. Lưu ý đến cụm từ “cho các nghĩa vụ nợ” trong đoạn trên. Tại sao nghĩa vụ nợ của cá nhân và gia đình ông Bê lại bị nêu ra, và nó có gì liên quan ở đây? Cứ theo lẽ thường, nợ cá nhân và gia đình ông Bê thì do ông và gia đình ông Bê phải trả và/hoặc chịu trách nhiệm với các chủ nợ, chứ chẳng hề liên quan gì đến Sacombank, PNB, hay NHNN, và cũng không thể là lý do để ông phải (tự nguyện) từ bỏ quyền cổ đông ở các ngân hàng thương mại này.
Trong trường hợp này, nếu ở địa vị ông Bê thì một người khác rất có thể đã dùng một thủ thuật, một hành vi lắt léo nào đó để huy động vốn (vay nợ) dựa trên những tài sản thế chấp hoặc là ảo, “tay không bắt giặc”, hoặc là theo kiểu “lấy mỡ nó rán nó” tương tự như những gì đã xảy ra với “Bầu” Kiên trước đây. Vốn này sau đó được dùng để thâu tóm cổ phần các ngân hàng liên quan để giành vị trí chi phối, và tiến thêm một bước nữa, thâu tóm cả những ngân hàng đó, biến chúng gần như thành ngân hàng riêng của nhà mình.
Nhưng dù là bằng vốn “ảo”, hay bằng những mánh lới cả “lách” luật lẫn phi pháp, và mạng lưới sở hữu chéo chằng chịt, tinh vi như trên thì những phần trăm sở hữu (mang tính chi phối) lại, đáng tiếc, là thật trên giấy tờ chứng nhận, trước pháp luật, không thể bằng một mệnh lệnh hành chính nào đó tuyên bố vô giá trị, khi các hành vi và mánh lới này bị phát giác và vạch trần.
Trong bối cảnh đang nhùng nhằng chuyện tái cấu với sáp nhập ngân hàng và không muốn “rút dây động rừng”, hoặc hành vi của những người trong cuộc chưa đến mức độ phải xử lý mạnh tay ngay như với tội phạm hình sự nguy hiểm, việc NHNN loại bỏ hoặc cách ly những đương sự này ra khỏi tiến trình tái cơ cấu như trên là hình thức “sờ gáy” các đương sự một cách rất êm thấm, kín kẽ, hiệu quả và hợp pháp. Cách này cũng là một bước đi có tính ngăn chặn, không để dẫn đến hậu quả lớn hơn sau này. Nếu cứ để cho các ngân hàng sáp nhập với nhau và một số cá nhân có cổ phần chi phối tiếp tục lũng đoạn ngân hàng mới sau sáp nhập ở quy mô và phạm vi ảnh hưởng lớn hơn, rốt cuộc một ngày nào đó NHNN lại phải mua lại ngân hàng này với giá 0 đồng một cách cực chẳng đã.
Việc đương sự (phải) cam kết bổ sung cho đủ giá trị tài sản cam kết cho các nghĩa vụ nợ của mình và gia đình cũng cho thấy NHNN không chỉ loại bỏ, cách lý sự dính líu của đương sự vào các ngân hàng thương mại mà còn bắt đương sự phải chịu trách nhiệm về hậu quả của, và trả giá đầy đủ cho, những hành vi và mánh lới của mình. Đây lại là một sự việc hi hữu khác nữa ở Việt Nam. 
Tuy biện pháp xử lý của NHNN trong những trường hợp tương tự như thế này là điều đáng hoán nghênh, nhìn từ một góc độ khác, thì chúng chỉ là những biện pháp chữa cháy. Điều NHNN cần làm tốt hơn là phải tăng cường công tác thanh tra, theo dõi sát sao hoạt động của hệ thống ngân hàng, mà điều này dường như chưa được làm tốt.
Lấy ví dụ trường hợp Ngân hàng Đông Á. Chỉ gần đây NHNN mới cho biết, sau khi thanh tra toàn diện ngân hàng này họ đã phát hiện ra nhiều vi phạm pháp luật về quản lý tài chính, cấp tín dụng và hoạt động kinh doanh khác làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình tài chính và hoạt động của ngân hàng này trong giai đoạn 2012 trở về trước. Nếu công tác thanh tra, giám sát và tăng cường quản lý rủi ro được thực hiện tốt từ trước đây thì không phải chờ đến năm 2015 này vụ việc Đông Á mới vỡ ra, quá muộn để đến mức độ NHNN phải áp dụng kiểm soát đặc biệt với ngân hàng này.

Wednesday 19 August 2015

“Hóa giải” 3 mối lo của xuất nhập khẩu khi VND mất giá (Bài đăng trên Doanh nhân Sài Gòn, 19/8/2015, tiêu đề do báo đặt)

http://www.doanhnhansaigon.vn/van-de/hoa-giai-3-moi-lo-cua-xuat-nhap-khau-khi-vnd-mat-gia/1090966/

(Bản gốc dài hơn, chi tiết hơn và... tất nhiên là hay hơn)
 
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) lại có thêm một bước đi quyết đoán nữa khi bất ngờ tăng cả tỷ giá bình quân liên ngân hàng lẫn nới biên độ biến động tỷ giá bình quân liên ngân hàng thêm 1 điểm phần trăm nữa, chính thức cho phép VND mất giá thêm 2% từ mức trần của đợt điều chỉnh tuần trước là 22.106 VND/USD.
 
Tính từ đầu năm đến thời điểm điều chỉnh tỷ giá tuần trước của NHNN thì VND đã được cho phép yếu đi ít nhất là 3 điểm phần trăm. Và đợt phá giá VND ngày 19/8 của NHNN đã cho phép VND mất giá thêm tới 2 điểm phần trăm nữa. Dù rằng, so với mức mất giá của các bản tệ khác từ năm ngoái đến nay, mức mất giá VND 5% xem ra vẫn chưa thấm gì, nhưng rõ ràng là việc phá giá VND là có lợi cho xuất khẩu.
 
Có luồng ý kiến cho rằng kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế gia công, phải nhập nhiều nguyên vật liệu (tính bằng USD) nên khi VND mất giá sẽ làm cho giá nhập khẩu đầu vào tính ra VND đắt đỏ hơn, làm tăng chi phí sản xuất và giá thành sàn phẩm. Do đó, phá giá VND không giúp ích gì nhiều cho các doanh nghiệp nhập khẩu, thậm chí còn gây hại.
 
Tuy nhiên, dù cho có nhập khẩu đại bộ phận nguyên vật liệu dùng trong sản xuất thì chi phí nhập khẩu chỉ tăng lên khi quy ra VND và khi VND mất giá, chứ chi phí nhập khẩu là không đổi nếu tính bằng USD.
 
Ví dụ, doanh nghiệp gia công phải nhập khẩu 90 USD để sản xuất một cái áo khoác có giá thành 100 USD và giá bán là 110 USD. Khi VND bị mất giá 5% (giả sử từ 21.000 VND/USD lên 22.050 VND/USD) thì đúng là chi phi nhập khẩu nguyên liệu sẽ tăng lên tương ứng 5% nếu tính theo VND, từ 1,89 triệu VND lên 1,985 triệu VND (tăng 95 nghìn VND). Nhưng nếu tính bằng USD thì giá trị nhập khẩu này vẫn chỉ là 90 USD, không thay đổi, và giá xuất khẩu vẫn là 110 USD, không thay đổi.
 
Tương tự, doanh thu của doanh nghiệp cũng sẽ tăng lên tương ứng (5%) nếu tính theo VND, vì khi xuất khẩu, doanh nghiệp thu về USD.
 
Cũng có lo ngại rằng khi VND bị mất giá thì tuy doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam có lợi nhưng các bạn hàng nhập khẩu sẽ nhanh chóng ép phía Việt Nam phải hạ giá bán cho họ để cùng hưởng lợi từ việc Việt Nam điều chỉnh tỷ giá. Điều này có thể xảy ra trên thực tế, tuy nhiên thông thường mức hạ giá của Việt Nam không bao giờ đúng bằng mức mất giá của VND mà thường nhỏ hơn. Tức, doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam có thể hưởng ít lợi hơn chứ không mất hoàn toàn.
 
Chưa kể, dù có phải hạ giá bán để chia sẻ mối lợi với đối tác thì doanh nghiệp Việt Nam không chỉ vẫn được hưởng lợi trực tiếp như nói ở trên, mà còn được hưởng những mối lợi gián tiếp, như nhờ có điều kiện hạ được giá bán cho đối tác nên đối tác có thể mua thêm với số lượng lớn hơn (nhu cầu tăng khi giá giảm). Kéo theo, doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam lại có thể cắt giảm thêm chí phí sản xuất và giảm thêm nữa giá thành, nhờ kinh tế quy mô (quy mô lớn hơn thì chi phí sản xuất cho một sản phẩm sẽ giảm đi). Từ đó, biên độ lợi nhuận của doanh nghiệp xuất khẩu còn được cải thiện hơn nữa.
 
Cuối cùng, có mối lo rằng do USD tiếp tục tăng giá và các đồng tiền khác tiếp tục mất giá so với USD nên sẽ gây hại cho doanh nghiệp xuất khẩu. Bởi vì, khi ấy những nhà mua hàng ở những nước như Nhật Bản, châu Âu,... sẽ giảm bớt lượng đặt hàng do lo sợ càng mua càng lỗ. Theo đó, trong thời gian tới, có khả năng khách hàng sẽ giảm đơn hàng cũng như sản lượng đặt hàng.
 
Ý kiến trên là đúng, nhưng không liên quan gì đến việc phá giá VND của Việt Nam cả. Dù Việt Nam không phá giá thì việc các đồng tiền của Nhật và Châu Âu vẫn sẽ yếu đi so với USD, nhất là khi FED nâng lãi suất ở Mỹ, và buộc các doanh nghiệp nhập khẩu ở đó phải giảm lượng hàng nhập khẩu, ảnh hưởng tiêu cực đến doanh thu (bằng USD) của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam.
Nhưng ngược lại, khi Việt Nam phá giá VND, điều này sẽ hỗ trợ phần nào cho doanh thu và lợi nhuận tính bằng VND của doanh nghiệp xuất khẩu, giúp họ có thêm điều kiện để trụ lại với thị trường. Do đó, phá giá VND trong trường hợp này là tốt hơn so với không phá giá!

Thêm một bước đi quyết đoán nữa (Bài đăng trên CafeF, 19/8/2015)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/them-mot-buoc-di-quyet-doan-nua-20150819134532421.chn

Trước áp lực dồn nén ngày càng lớn đến từ không chỉ khả năng FED nâng lãi suất USD trong năm nay mà còn 3 đợt phá giá liên tiếp của nhân dân tệ ở mức độ lớn chưa từng thấy trong 2 thập kỷ qua, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã chính thức từ bỏ chính sách neo tỷ giá VND của mình vào USD và đã nới biên độ biến động xung quanh tỷ giá bình quân liên ngân hàng tuần trước thêm 1 điểm %, một động thái mà tôi đã từng phải ca ngợi là dũng cảm với đúng lý do, đúng thời điểm.
Tuy nhiên, đợt điều chỉnh tuần trước dường như là quá nhỏ, được biểu hiện ra ở mức tỷ giá bán ra trong hệ thống ngân hàng luôn ở mức kịch trần ( 22.106 đồng/USD), còn tỷ giá bán ngoài thị trường tự do thì  vượt xa tỷ giá trong ngân hàng. Nhận thức được điều này, cũng như những bất lợi cho nền kinh tế Việt Nam nếu VND tiếp tục đứng giá ở mức cao so với USD và các bản tệ khác trong khu vực và trên thế giới, NHNN hôm nay lại một lần nữa không chỉ nới biên độ biến động tỷ giá liên ngân hàng lên đến 3% mà còn điều chỉnh cả tỷ giá bình quân liên ngân hàng.
Cần nói ngay đây là một hành động quyết đoán và rất đáng hoan nghênh nữa của NHNN, mở rộng đường cho khả năng để tỷ giá VND tự điều chỉnh theo điều kiện thị trường không chỉ trong nước mà còn trên quốc tế. Đây cũng là một phản ứng chính sách tích cực của NHNN theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ mới đây khi yêu cầu NHNN điều hành linh hoạt tỷ giá.
Về tác động tích cực của những động thái linh hoạt này của NHNN, chúng ta đã nói đến nhiều, nên chỉ xin tóm tắt ở đây rằng VND yếu hơn đáng kể so với chính nó cách đây hơn 1 tuần sẽ góp phần hóa giải những tác động tiêu cực mang đến cho nền kinh tế Việt Nam từ sự phá giá của những quốc gia khác, đặc biệt là Trung Quốc.
Quan trọng hơn, sự nới lỏng tỷ giá VND không chỉ bằng việc nâng trần biến động quanh tỷ giá bình quân liên ngân hàng mà còn điều chỉnh trực tiếp tỷ giá bình quân liên ngân hàng đã tạo ra cho NHNN ở một vị thế mới, phá bỏ mọi ràng buộc, hoàn toàn chủ động đón đầu các diễn biến bất lợi do các quốc gia khác mang đến. Cụ thể hơn, nếu mai kia Trung Quốc tiếp tục phá giá Nhân dân tệ (CNY) và/hoặc FED có nâng lãi suất USD thì NHNN không còn ở  thế bị động, lúng túng bởi một trói buộc nào đó nữa, mà họ đã biết sẽ phải làm gì, sẵn sàng có hành động đáp trả theo những kịch bản thích ứng.
Về phía thị trường, cũng đã hiểu rằng NHNN từ nay trở đi đã ở  thế sẵn sàng để cho VND suy yếu nhằm bảo vệ sản xuất và công ăn việc làm trong nước. Sẽ không còn một cái neo tỷ giá để nhiều người có thể trục lợi, từ việc vay USD với lãi suất thấp rồi bán lấy VND cho vay lãi suất cao, hay thay vì đầu tư sản xuất trong nước chỉ cần nhập khẩu về là bán có lãi…Chuyện vay nợ nước ngoài tràn lan cũng trở thành chuyện quá khứ, buộc ai, kể cả Chính phủ, muốn vay  mượn nước ngoài phải cân nhắc 2 lần, nhờ thế giảm áp lực nợ nước ngoài lên nền kinh tế Việt Nam nói chung và NHNN nói riêng khi không phải dốc quỹ dự trữ ngoại hối gián tiếp trả nợ thay cho cả nền kinh tế.
Về tác động tiêu cực của các động thái phá giá VND nói trên, nhiều người cứ mang con "ngáo ộp" là lạm phát ra để cản trở việc phá giá VND. Nhưng, cũng như đã nói nhiều lần, nền kinh tế thế giới đang đối mặt với tình hình giảm phát, với giá cả các loại hàng hóa đều trên xu hướng giảm sút mạnh, đặc biệt từ đầu năm nay, chủ yếu do nhu cầu sụt giảm, đặc biệt từ Trung Quốc. Sự giảm phát trên thế giới đã lan đến Việt Nam, làm cho lạm phát ở Việt Nam cũng đang ở mức thấp kỷ lục trong hàng thập kỷ nay. Trong bối cảnh này thì việc phá giá bản tệ nói chung trên thế giới, và Việt Nam nói riêng, chắc chắn sẽ không gây ra áp lực đáng kể lên lạm phát, ít nhất trong nhiều tháng tới.
Rồi cũng có nhiều người ta thán rằng họ đang chịu thiệt vì khi nhập khẩu hàng hóa về, họ phải trả nhiều VND hơn, chi phí tăng lên, lãi giảm đi… để mong NHNN đừng phá giá nữa. Nhưng, chưa nói đến khía cạnh phải đặt ưu tiên hàng đầu cho lợi ích của cả nền kinh tế , lời ca thán này là sai, ngụy biện, vì các nước xuất khẩu sang Việt nam nhìn chung thường đã phá giá bản tệ của họ trước khi NHNN phá giá VND, hoặc phá giá nhiều hơn mức VND bị phá, nên giá nhập khẩu về Việt Nam tính ra VND không thể tăng lên, nếu không muốn nói là chắc chắn đã giảm đi.
Tóm lại, phản ứng  chính sách vừa qua của NHNN là đúng đắn và chắc chắn sẽ mang lợi ích chung cho cả nền kinh tế. Kỳ vọng rằng NHNN tiếp tục vững bước trên con đường đi đã lựa chọn để sẵn sàng đối phó tốt hơn những bất trắc ngoại lai mai đây.

Monday 17 August 2015

Kinh tế Việt Nam khi CNY mất giá: Lợi ảo, thiệt thật (Bài đăng trên Doanh nhân Sài Gòn, 18/8/2015)

http://www.doanhnhansaigon.vn/van-de/kinh-te-viet-nam-khi-cny-mat-gia-loi-ao-thiet-that/1090882/

Bản trên là bản đã edit theo quan điểm của báo. Bản gốc ở dưới đây, để phang lại quan điểm cũ rích và hết sức ngụy biện của 2 đồng chí Bùi Trinh và Nguyễn Quang Đồng ở một số báo và mới nhất là ở CafeF (bấm vào đây). Nói thêm, tớ thấy giọng điệu của đồng chí Đồng quen quen, hình như đã từng có (nhiều) lần hạ cố vào đây phang tớ và bị tớ đuổi cổ khỏi blog này. Nếu đúng là vậy thì khá khen cho đồng chí này mặt rất dầy. Nếu không phải là vậy thì sorry đồng chí Đồng này và mong đồng chí shut up lại để cho trong sạch không khí. Hoặc nếu thấy ấm ức thì vào đây mà giải trình. 

Tớ đã có một vài lần nói về dân chủ, nhưng lần này nói thêm bằng cách mượn lời của người khác khi nói rằng "dân chủ là để cho dân mở miệng" để nói lại rằng "dân chủ là không để cho những thằng ngu mở miệng". Thế mới hiểu vì sao những người như Lý Quang Diệu lại cứng rắn với bọn đối lập như vậy.


Trung Quốc phá giá Nhân dân tệ không hề có lợi cho Việt Nam
Việc Trung Quốc phá giá đồng Nhân dân tệ (CYN) đã tác động tiêu cực đến Việt Nam. Phản ứng lại hành động phá giá CNY này, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ngay lập tức nới biên độ dao động tỷ giá VND thêm 1 điểm phần trăm nữa tạo điều kiện cho VND yếu đi để bù đắp phần nào ảnh hưởng của một đồng CNY yếu hơn lên cán cân thương mại của Việt Nam với thế giới nói chung và với Trung Quốc nói riêng.

Dẫu vậy, có nhiều người cho rằng việc Trung Quốc phá giá CNY không đáng lo ngại, thậm chí còn là một cơ hội tốt cho Việt Nam! Những người này cho rằng khi CNY yếu hơn (so với USD, và cả VND), thì giá trị nguyên vật liệu Trung Quốc nhập khẩu giảm xuống, nếu tính theo USD hoặc VND. Theo tính toán của họ, hiện nhập khẩu từ Trung Quốc 60% là nguyên vật liệu, trên 30% cho máy móc thiết bị và chỉ khoảng gần 10% cho tiêu dùng cuối cùng.  Với bản chất kinh tế Việt Nam là nền kinh tế gia công, nếu không nhập khẩu sản phẩm từ Trung Quốc thì cũng phải nhập từ nước khác, nên giá hàng nhập khẩu nguyên vật liệu từ Trung Quốc giảm sẽ làm giảm giá thành, thúc đẩy cho sản xuất của ta tăng trưởng tích cực hơn, và xuất khẩu của ta, ví dụ, sang EU, sang Mỹ như ở dệt may, da giày sẽ có tính cạnh tranh hơn. Từ đó, thậm chí họ cho rằng NHNN nâng biên độ tỷ giá là vội vàng!

Để phân tích thiệt hơn tác động phá giá CNY lên Việt Nam, hãy lấy ví dụ sau.

Giả sử 1 cái áo khoác của Việt Nam và Trung Quốc sản xuất đều có giá thành là 100 USD. Giả sử cả Việt Nam và Trung Quốc đểu xuất áo này sang Mỹ, với chất lượng và độ hấp dẫn người tiêu dùng tương đương nhau.

Giả sử tiếp cơ cấu giá thành sản xuất áo ở Việt Nam là 70 USD giá trị nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc (tính bằng USD) + 20 USD giá trị nguyên liệu sản xuất trong nước (tính bằng VND) + 10 USD chi phí lao động và các chi phí khác (tính bằng VND).
 
Giả sử cơ cấu giá thành sản xuất áo của Trung Quốc là 85 USD giá trị nguyên liệu (sản xuất tại Trung Quốc, tính bằng CNY, quy ra USD) + 15 USD chi phí lao động và các chi phí khác (tính bằng CNY, quy ra USD).
Khi Trung Quốc phá giá CNY 5% và Việt Nam phá giá VND 1% thì cơ cấu giá thành sản xuất áo của Trung Quốc sẽ giảm xuống còn 95 USD (=100 USD x 0,95), vì toàn bộ chi phí sản xuất đều tính bằng CNY nên quy ra USD sẽ nhỏ đi so với trước khi phá giá.
Với Việt Nam, chi phí sẽ thành: 70 USD x 0,95 + 20 USD x 0,99 + 10 USD x 0,99 = 96,2 USD. So với giá thành áo của Trung Quốc sản xuất là 95 USD như tính ở trên thì mặc dù VND cũng đã bị mất giá 1% nhưng áo của Việt Nam sản xuất vẫn đắt hơn 1,2 USD/cái (cao hơn 1,26%). Do đó, trong cùng một điều kiện thị trường, cùng chất lượng và độ hấp dẫn, rõ ràng hàng Việt Nam sẽ bị giảm tính cạnh tranh so với hàng Trung Quốc.
Lưu ý rằng trong tính toán trên ta đã đưa cả điều kiện phụ thuộc nặng nề của hàng xuất khẩu Việt Nam vào đầu vào nhập khẩu từ Trung Quốc, bằng việc giả thiết rằng tới 70% giá thành sản xuất là nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc, trùng với lập luận của những người phản đối phá giá VND như nói ở trên. Nếu độ phụ thuộc này tăng lên nữa, giả sử đến 90% thì giá thành sản xuất của Việt Nam sau khi Trung Quốc phá giá CNY là 90 USD x 0,95 + 10 USD x 0,99 = 95,4 USD, vẫn cao hơn giá thành của Trung Quốc là 0,4 USD (cao hơn 0,42%).
Giả sử NHNN phá giá VND không phải là 1% mà là 6%, thì giá thành sản xuất của Việt Nam trong trường hợp nhập khẩu tới 90% nguyên liệu từ Trung Quốc là = 90 USD x 0,95 + 10 USD x 0.94 = 94,9 USD, tức là đã trở nên thấp hơn giá thành của Trung Quốc là 95 USD.
Từ phân tích trên suy ra rằng nếu NHNN không phá giá hoặc chỉ phá ở mức độ nhỏ hơn của Trung Quốc thì hàng hóa Việt Nam nói chung trở nên đắt đỏ hơn hàng của Trung Quốc sản xuất, giả sử những điều kiện khác không thay đổi. Bởi thế, xuất khẩu của Việt Nam không chỉ ra các thị trường trên thế giới như Mỹ, EU, mà sang ngay chính thị trường Trung Quốc sẽ gặp bất lợi vì giá cao so với hàng Trung Quốc, và bị hàng hóa của Trung Quốc đẩy bật ra khỏi các thị trường này. Ngược lại, so với hàng Việt Nam sản xuất và tiêu thụ ngay trên Việt Nam, hàng nhập khẩu từ Trung Quốc (như áo khoác trong ví dụ trên) sẽ trở nên rẻ hơn, nên sẽ đẩy bật hàng Việt Nam ngay trên đất Việt Nam. Những tác động bất lợi này diễn ra cho dù CNY yếu hơn làm cho đầu vào nhập khẩu nguyên liệu từ Trung Quốc rẻ hơn, hoàn toàn trái ngược với nhận định của những người phản đối NHNN phá giá VND.
Xét rộng hơn ra phạm vi thế giới. Có nhiều người cho rằng Việt Nam được hưởng lợi từ việc CNY mất giá, vì làm cho nguyên liệu, máy móc nhập khẩu từ Trung Quốc vào Việt Nam rẻ hơn, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam trở nên cạnh tranh hơn so với hàng của các nước đối thủ (tất nhiền là trừ Trung Quốc, người viết) có cơ cấu đầu vào nhập khẩu từ Trung Quốc ít hơn của Việt Nam. Đây là một suy diễn vô căn cứ. Tại sao lại nghĩ chỉ có Việt Nam mới biết lợi dụng việc nhập nguyên liệu đầu vào từ Trung Quốc cho rẻ để hạ giá thành sản xuất nhằm tăng tính cạnh tranh so với hàng của các nước khác, mà không nghĩ rằng những nước đối thủ này cũng sẽ cân nhắc chuyển sang dùng đầu vào nhập khẩu từ Trung Quốc cho rẻ? Hơn nữa, đúng là có thể có nhiều nước đối thủ không nhập khẩu đầu vào từ Trung Quốc, nên giá thành sản xuất của họ sẽ cao hơn của Việt Nam. Nhưng điều này đã bị hóa giải bởi, và là nguyên nhân của, việc các nước này thi nhau phá giá bản tệ để bù đắp vào việc CNY giảm giá làm tăng tính cạnh tranh của những nước “ăn theo” như Việt Nam! Ngược lại, nếu các nước này không phá giá bản tệ của họ thì đúng là họ sẽ bị thiệt hại nặng nề bởi hàng của Trung Quốc và cả của Việt Nam.
Sang vấn đề có liên quan khác là một số người khác chủ trương rằng không cần phải phá giá VND (hoặc không cần phải phá ở mức như Trung Quốc và các nước khác phá giá bản tệ của họ) để nâng cao tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam. Những biện pháp mà họ nêu ra là, ví dụ, cắt giảm chi phí, lệ phí, hạ lãi suất, tăng cường xúc tiến thương mại, cải cách bao bì, marketing, cải cách kinh tế để nền kinh tế hiệu quả hơn, giảm gánh nặng thuế phí cho doanh nghiệp v.v...

Đương nhiên là tất cả những biện pháp trên đều là cực kỳ cần thiết trong việc nâng cao tính cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. Nhưng cần biết rằng chúng ta vẫn đã, đang và vẫn tiếp tục nỗ lực để thực hiện những biện pháp này, chứ không phải là không biết đến, không đánh giá đúng mức tầm quan trọng, hay không muốn thực hiện chúng. Tuy nhiên, điều cần nhấn mạnh là trong lúc những biện pháp này đang được thi hành thì hành động phá giá của Trung Quốc nói riêng, và của các nước khác nói chung, lại tạo thêm khó khăn cho Việt Nam. Nên, nếu Việt Nam chỉ chăm chăm vào các biện pháp phi tiền tệ như thế này thì có nghĩa là Việt Nam tự tước đi một công cụ tự vệ hữu hiệu là tỷ giá để hóa giải áp lực cạnh tranh của hàng Trung Quốc và các đối thủ khác. Ngược lại, việc NHNN phá giá VND như vừa qua (cho dù vẫn chưa đủ độ) đã hóa giải phần nào áp lực phá giá CNY và các bản tệ khác lên hàng Việt Nam, như minh họa trong tính toán nói trên.
Đặt vấn đề từ một góc độ khác, không phải vô cớ mà nhất loạt các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đều bầy tỏ lo ngại về tác động tiêu cực của sự phá giá CNY lên xuất khẩu của họ. Và cũng không phải vô cớ mà Trung Quốc hay hàng loạt các nước khác đã phá giá bản tệ của họ, thậm chí dẫn đến nguy cơ của một cuộc chiến tranh tiền tệ. Đơn giản vì tất cả những nước này đều nhận thức được tầm quan trọng của một bản tệ yếu để tăng tính cạnh tranh cho hàng hóa của họ, và tức là bảo vệ được công ăn việc làm ở nước họ. Điều này chứng tỏ, họ không hề “lăn tăn” việc thay vì phá giá bản tệ, hãy tập trung vào các biện pháp tăng cường tính cạnh tranh khác như những người phản đối phá giá VND ở Việt Nam nêu ra!

Friday 14 August 2015

Chính sách tỷ giá: Không “đủ độ”, áp lực sẽ tăng (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân, 15/8/2015)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=356177
(Bản trên báo có một số lỗi "do thằng đánh máy")

Chính sách tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có bước ngoặt hôm 12.8, khi cơ quan này tuyên bố nới biên độ biến động tỷ giá từ +/-1% lên +/-2%. Động thái bất ngờ này diễn ra sau khi Trung Quốc tuyên bố phá giá đồng nhân dân tệ (NDT) 1,9% hôm 11.8 và đang làm tăng sức ép lên nền kinh tế Việt Nam…
 
Có thể nói, việc nới biên độ biến động tỷ giá là một toan tính khôn ngoan của NHNN khi không điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng như trong những lần phá giá đồng Việt Nam (VNĐ) trước đây. Nếu lặp lại việc điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng thì NHNN sẽ phá vỡ cam kết phá giá không quá 2% trong năm 2015 của mình. Còn việc cho nới biên độ biến động thì không những cho phép tỷ giá VNĐ tăng lên (VNĐ yếu đi, tương tự như việc tăng tỷ giá liên ngân hàng) mà còn cứu vớt uy tín của NHNN vì trên danh nghĩa khi họ không phá giá mà chỉ cho phép tỷ giá VNĐ biến động mạnh hơn mà thôi.
Thị trường lập tức có phản ứng mạnh với tuyên bố này. Tỷ giá VNĐ đã nhảy chạm ngưỡng trần tỷ giá quy định (22,106 VNĐ/USD), phản ánh sự căng thẳng đã dồn nén chặt trong tỷ giá bấy lâu nay. Câu hỏi được đặt ra là liệu tỷ giá còn chịu áp lực tăng nữa không hay nói cách khác liệu VNĐ yếu đi nữa không?

NHNN chỉ nói chung chung là sẽ tiếp tục theo sát diễn biến của thị trường để có phản ứng thích hợp. Nhưng trên thực tế, áp lực này dường như đang tồn tại và ngày càng lớn lên. Bởi, Trung Quốc trong 3 ngày liên tiếp vừa qua đã tiến hành dồn dập phá giá 3 lần, mỗi lần từ 1,1% đến 1,9% - một động thái chưa từng có tiền lệ trong nhiều thập kỷ qua ở nước này. Các đợt phá giá không dừng lại ở Trung Quốc mà đã lan ra toàn cầu, khiến người ta phải nhắc đến một cách ngày càng xác quyết về một cuộc chiến phá giá tiền tệ trên phạm vi thế giới.

Nhưng cho dù các nước khác và cả Trung Quốc có tiến hành phá giá nữa hay không trong những ngày tới, tuần tới thì áp lực phá giá trên VNĐ đã trở nên quá lớn trong những ngày vừa qua, bên cạnh áp lực phá giá tích tụ từ năm trước được châm ngòi bởi khả năng Cục Dự trữ liên bang Mỹ nâng lãi suất, đã kích hoạt cho làn sóng phá giá bản tệ trên thế giới từ giữa năm 2014. Trong bối cảnh này, việc NHNN chỉ cho phép VNĐ yếu đi thêm 1% nữa so với USD tỏ ra là không đủ độ, và tỷ giá VNĐ có khả năng lặp lại những gì đã từng xảy ra. Cụ thể, áp lực phá giá dồn nén cho chính sách tỷ giá cứng nhắc của NHNN, đến một mức nào đó gây thiệt hại lớn lên sản xuất và xuất khẩu, tăng nhập siêu, buộc NHNN phải phản ứng thụ động theo bằng cách nới lỏng tỷ giá một cách miễn cưỡng, nhỏ giọt, để rồi áp lực phá giá vẫn không được giải tỏa hết, vẫn còn đó, tích tụ và tăng lên cùng với những diễn biến bất lợi từ bên ngoài, dẫn đến những đợt phá giá (nhỏ giọt) mới.

Trong bối cảnh mới, trước ngưỡng cửa của cuộc chiến tranh tiền tệ toàn cầu, rõ ràng NHNN nên từ bỏ chính sách kiểm soát tỷ giá chặt chẽ với những tuyên bố định lượng cứng nhắc về mục tiêu tỷ giá như đã từng làm cho đến nay. Một chính sách tỷ giá linh hoạt, để ngỏ định hướng và mục tiêu, để thị trường quyết định nhiều hơn, giảm thiểu sự can thiệp của NHNN (vốn phải trả giá bằng hao hụt dự trữ ngoại hối không phải là nhiều nhặn gì), duy trì được tính cạnh tranh, hoặc chí ít không làm tổn hại quá lớn đến tính cạnh tranh của hàng hóa sản xuất tại Việt Nam… cần là một chính sách tỷ giá mới mà NHNN nên theo đuổi hiện nay. Nếu cuộc chiến tranh tiền tệ thực sự nổ ra trong những ngày tới thì chính sách này sẽ làm VNĐ yếu đi hơn nữa theo chiều hướng phá giá của các nước khác, giúp NHNN giảm thiểu thiệt hại cho nền kinh tế. Nếu cuộc chiến tranh tiền tệ không xảy ra thì chính sách này cũng giúp cho NHNN tránh được những rủi ro không đáng có như cam kết không phá giá để rồi vẫn phải phá giá, làm tổn hại nghiêm trọng đến uy tín.

Trên thực tế thì NHNN đã chấp nhận phá giá VNĐ hơn nữa, bất chấp cam kết trước đó. Nên nếu NHNN có chuyển sang theo đuổi một chính sách tỷ giá linh hoạt mới theo đòi hỏi của thị trường như phân tích ở trên, điều này cũng không còn làm cho thị trường chao đảo nữa và lòng tin vào NHNN cũng không vì thế mà suy giảm.


 

Chỉ thị 05 khó siết tín dụng vào giao thông (Bài đăng trên TBKTSG, 14/8/2015)

 http://www.thesaigontimes.vn/134275/Chi-thi-05-kho-siet-tin-dung-vao-giao-thong.html

(TBKTSG) - Chỉ thị 05/CT-NHNN rất có thể không có tác động giảm thiểu rủi ro trong việc cấp tín dụng cho các dự án giao thông như mong muốn, do còn khá mơ hồ về mục tiêu và giải pháp triển khai.
Ngày 15-7-2015, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành Chỉ thị 05/CT-NHNN về tăng cường kiểm soát rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng đối với các dự án BOT, BT giao thông. Theo đó, để đảm bảo tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, bền vững theo đúng mục tiêu đã đề ra, giảm thiểu rủi ro trong việc cấp tín dụng đối với các dự án BOT, BT giao thông, đặc biệt các dự án có thời gian thu hồi vốn dài, NHNN yêu cầu các đơn vị thuộc cơ quan mình và các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài triển khai các công việc liên quan định hướng này.
Chỉ thị này ra đời vì, theo NHNN, nhiều ngân hàng thương mại (NHTM) đã đầu tư một nguồn vốn lớn cho các dự án hạ tầng giao thông. Xu hướng này đang gia tăng trong khi việc cấp tín dụng này còn “một số bất cập chưa đánh giá đầy đủ những rủi ro có liên quan”. Mặt khác, Chính phủ cũng đã giao NHNN thúc đẩy tăng trưởng tín dụng gắn với bảo đảm cơ cấu tín dụng phù hợp, trong đó tập trung tín dụng vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, đồng thời giám sát chặt chẽ khi cho vay các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro (bất động sản, dự án thu hồi vốn thời gian dài...).
Với sự “chỉ mặt, vạch tên” cụ thể như vậy, Chỉ thị 05 được cho là sẽ siết chặt, làm giảm dòng tín dụng cấp cho các dự án giao thông (theo hình thức BOT và BT), và nhận được sự ủng hộ của Bộ Giao thông Vận tải là nơi hoạch định và triển khai kế hoạch phát triển hạ tầng cơ sở giao thông.
Tuy vậy, trên thực tế, Chỉ thị 05 rất có thể sẽ không có tác động như ý muốn vì ít nhất hai lỗ hổng sau.
Trước tiên, chỉ thị này đã bỏ qua, bỏ sót nhiều hình thức dự án giao thông khác, ngoài BOT và BT. Nếu lấy Nghị định 15/2015/NĐ về đầu tư theo hình thức đối tác công - tư làm chuẩn thì các dự án đầu tư công - tư nói chung và vào lĩnh vực giao thông vận tải nói riêng không chỉ dưới hình thức BOT và BT, mà còn có các hình thức khác, như BTO, BOO, BTL, và BLT.
Vì Chỉ thị 05 chỉ đề cập BOT và BT (có thể vì đây là hai hình thức dự án phổ biến nhất và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng cấp cho các dự án xây dựng giao thông) nên có thể coi NHNN không hoặc chưa có ý định hạn chế tín dụng vào các dự án dưới hình thức khác như trên. Bởi vậy, lượng tín dụng đổ vào các dự án giao thông nói chung trong thời gian tới sẽ khó mà giảm đi hoặc đỡ rủi ro hơn theo ý muốn của NHNN nếu vì một lý do nào đó các dự án giao thông dưới các hình thức này lại tăng mạnh. Đó là chưa kể đến khả năng các chủ dự án và các NHTM tìm cách “lách” Chỉ thị 05 bằng cách chuyển đổi các dự án lẽ ra mang hình thức là BOT và BT sang các hình thức dự án khác để thoát khỏi ràng buộc, nếu có, của Chỉ thị 05.
Lỗ hổng thứ hai nằm ở sự khá mơ hồ về mục tiêu và giải pháp triển khai. Với cả hai nhóm đối tượng áp dụng chỉ thị này, là các đơn vị thuộc NHNN và các tổ chức tín dụng, những nội dung chỉ đạo thực hiện đều có tính chất thiên về “định tính”. Với các đơn vị trực thuộc, là những nhắc nhở về thực hiện tốt hơn các công việc và nhiệm vụ thường ngày, thường xuyên của các đơn vị này như “tham mưu cho Thống đốc”, “kiểm soát chặt chẽ”, tăng cường quản lý”, “xem xét thận trọng”... mà không đưa ra được một tiêu chí nào để làm cơ sở cho các đơn vị trực thuộc thực hiện.
Ví dụ, trong giải pháp “kiểm soát chặt chẽ tình hình tăng trưởng tín dụng và chất lượng tăng trưởng tín dụng, đặc biệt đối với các dự án BOT và BT giao thông”, như thế nào, trong phạm vi nào mới được coi là “chặt chẽ”, “thận trọng”... lại không thấy chỉ thị đề cập. Ở giác độ này, các tổ chức tín dụng sẽ có lý do để nói rằng ngay bản thân NHNN cũng còn chưa có những tiêu chí, mục tiêu cụ thể, rõ ràng gì thì sao bắt họ thực hiện tốt việc hạn chế rủi ro cho vay BOT, BT giao thông cho được?
Với các tổ chức tín dụng cũng có sự mơ hồ tương tự như vậy, chỉ thị đưa ra một loạt chỉ đạo hết sức định tính như “nghiêm chỉnh chấp hành”, “hạn chế và kiểm soát chặt chẽ”, “nâng cao năng lực đánh giá”, “thận trọng khi xem xét”, “chủ động nghiên cứu”... Cứ theo lẽ thường, đã để đến mức phải bị chỉ đạo như vậy thì có nghĩa là các NHTM đã và đang vi phạm nhiều quy định, nguyên tắc, luật lệ của hệ thống ngân hàng? Vậy sao NHNN không thẳng thắn chỉ ra ngay những vi phạm và yếu kém (ở đâu, như thế nào...) và thẳng tay áp dụng các chế tài để trừng phạt và buộc các ngân hàng vi phạm phải tuân thủ luật lệ, chứ nhắc nhở chung chung làm gì?
Tóm lại, chỉ với hai lỗ hổng nói trên có thể thấy rằng Chỉ thị 05 chỉ có ý nghĩa như là một hành động thể hiện cam kết của NHNN trước, và theo đúng chỉ đạo của Chính phủ về việc đảm bảo tín dụng phát triển lành mạnh, hơn là một chương trình hành động cụ thể, hữu hiệu với những tác động đáng kể đến công tác tín dụng (theo hướng siết chặt lại) nói chung và tín dụng cho các dự án giao thông nói riêng.
Do đó, để kiểm soát và hạn chế rủi ro tín dụng cho dự án giao thông nói chung, bao gồm cả các dự án BOT và BT, NHNN cần thiết phải áp đặt thêm các hạn chế định lượng cho lĩnh vực này cũng giống như họ đã (từng) làm cho các lĩnh vực như chứng khoán, bất động sản, trái phiếu chính phủ... Chẳng hạn, NHNN đặt giới hạn tỷ trọng tín dụng của (mỗi) NHTM cấp cho các dự án giao thông không quá x% tổng tài sản hoặc tổng dư nợ của họ (và tỷ lệ x này có thể khác nhau với mỗi ngân hàng).
Cũng cần lưu ý thêm rằng NHNN đã giao chỉ tiêu hạn mức tín dụng cho từng ngân hàng trong từng năm. Nếu phối hợp thêm với quy định giới hạn định lượng tín dụng của mỗi NHTM được cấp cho dự án giao thông như nói trên, và với điều kiện nữa là NHNN kiên quyết không cho phép các NHTM vượt chỉ tiêu hạn mức tín dụng tổng thể và hạn mức tín dụng được phép cấp cho lĩnh vực giao thông ở một nhtm, thì có thể loại bỏ được phần lớn rủi ro về việc các NHTM cho vay quá mức vào các dự án giao thông.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).