Tuesday 29 September 2015

Bài này hay!

Bài "Hai nỗi lo của chính sách tiền tệ" này của đồng chí Lê Duy Khánh trên Doanh nhân Sài Gòn là một trong những bài tớ phải khen là rất hay. Hình như tớ cũng có dịp hân hạnh được trao đổi với đồng chí Khánh qua blog này thì phải (vơ vào tí :))).


Điều tớ lấy làm lạ là bài này được DNSG đăng mà theo tớ là giữ hầu như nguyên vẹn ý tứ của tác giả, có chăng chỉ là sửa bớt câu chữ. Lạ là vì theo tớ DNSG cũng khá thận trọng trong việc đăng bài phang các chính sách vĩ mô nói chung và phang chính quyền nói riêng.

Monday 28 September 2015

Hạt giống đỏ?

Cụm từ “Giám đốc Sở 30 tuổi” ở Quảng Nam tự nhiên đã trở thành cụm danh từ riêng chẳng lẫn vào đâu và với ai được vì tính độc nhất vô nhị và giật gân của nó. Trường hợp anh thanh niên Lê Phước Hoài Bảo 30 tuổi trở thành Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư Quảng Nam này xứng đáng được ghi vào “kỷ lục guinnes Việt Nam” với những cái “độc” và “nhất” như: Lần đầu tiên một người được bổ nhiệm vào chức danh của một sở ở độ tuổi trẻ như vậy; lần đầu tiên có một người đã đi du học tự túc rồi nhưng sau một năm xoay sở thế nào đó mà lại được hưởng chế độ chi trả học phí từ ngân sách của tỉnh đến cả tỷ đồng (là trường hợp đầu tiên và chưa có trường hợp thứ hai), mặc dù trước khi đi anh này chẳng phải là công chức, đang công tác và thuộc biên chế ở đơn vị nào của tỉnh; lần đầu tiên có một người sau khi tốt nghiệp, chẳng cần đợi thời gian thử thách để chứng tỏ tài năng và kinh nghiệm (cũng như chưa thấy có báo cáo chính thức thanh niên này có tài năng và đức độ đặc biệt gì) đã lần lượt được bổ nhiệm và thăng tiến rất nhanh trong một thời gian ngắn cũng có thể nói là kỷ lục (có lẽ chưa đầy 3 năm, từ 2002 đến 9/2015) qua những vị trí đều rất đáng ngưỡng mộ (và khao khát) như Phó rồi Trưởng phòng xúc tiến đầu tư Ban quản lý Khu Kinh tế mở Chu lai (từ 2012 đến 2/2014), Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện Thăng Bình (2/2014), Phó Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Quảng Nam (4/2014), và chỉ mới sau chưa đầy nửa năm đã chính thức trở thành Giám đốc sở này (9/2015).

Chuyện những thanh niên trẻ tuổi đang từ vị trí vô danh bỗng một ngày “vùng dậy sáng lòa” đã dần trở thành chuyện “thường ngày ở huyện” vì ở Việt Nam nó là thế. Chuyện về anh Giám đốc Sở 30 tuổi này thì cũng vậy, có lùm xùm một thời gian ngắn rồi chắc cũng sẽ lại xẹp êm. Điều mà ta cần nói đến là việc lớn hơn, hà cớ gì nhà nước lại phải trả tiền để nuôi ăn học và “quy hoạch” một số đối tượng nào đó?
Đã có một thời gian dài trước đây nhà nước đã tuyển chọn con em một số đối tượng và thành phần được ưu tiên trong xã hội để gửi đi đào tạo cả trong và ngoài nước, chủ yếu là các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, bên cạnh một ít sự tuyển chọn công bằng và công khai hơn qua thi tuyển, qua thành tích học tập. Sự tuyển chọn mang tính “con em” như thế này, từng có lúc được ví là những “hạt giống đỏ”, ở một giác độ nào đó có thể hiểu được và thông cảm được, vì cha anh của họ là những thành phần có công trạng hoặc có vị trí trong xã hội, ở cái thời mà lý lịch chứ không phải năng lực mới là yếu tố quyết định con đường hoạn lộ của mỗi cá nhân. Do những “hạt giống đỏ” mới chỉ là hạt giống nên cần phải gieo trồng vun xới, tưới tắm từ nhỏ nên tất nhiên là nhà nước phải bỏ tiền ra để nuôi ăn học những đối tượng này.
Ngoài những đối tượng hạt giống đỏ trên, còn có một hiện thực nữa là nhiều cán bộ biên chế nhà nước, nhất là đối tượng thuộc dạng “quy hoạch” (tất nhiên, cũng thường là những người có lý lịch “đẹp”) nhưng trình độ học vấn và chuyên môn chả đâu vào đâu nên cần phải được nâng cấp để đáp ứng được yêu cầu về bằng cấp và trình độ để làm sếp trong tương lai. Trong trường hợp này, nhà nước cũng phải bỏ tiền ra để nuôi họ ăn học vài năm nhằm “chuẩn hóa cán bộ”, với tâm lý là không thế thì lấy đâu ra người (giỏi) để làm việc.
Nhưng rồi cùng với sự đổi mới và mở cửa nền kinh tế, đổi mới tư duy và cung cách điều hành xã hội, ngành “làm quan” cũng dần dà được cởi mở hơn cho những đối tượng bên ngoài xã hội được tham gia mà không cần, không được đóng cửa tuyển dụng “con em” hoặc người đang công tác trong ngành như trước nữa. Và quả thật là hiện nay ngày càng có nhiều đợt tuyển công chức, cán bộ công khai mà không ít trong số đó cũng khá là công bằng và cởi mở. Đồng thời, thực tế cũng cho thấy, bất cứ lúc nào, chỉ cần nhà nước thông báo tuyển dụng bất cứ vị trí nào, trình độ nào, kinh nghiệm nào, độ tuổi nào, lĩnh vực nào và ngành nghề nào thì sẽ có hàng trăm hàng nghìn hồ sơ dự tuyển, và trong đó chắc chắn có không ít người xuất sắc đáp ứng tất cả mọi tiêu chuẩn tuyển chọn đặt ra để nhà nước tha hồ mà lựa chọn những người giỏi và phù hợp.
Trở lại trường hợp anh Bảo ở trên. Có thể thấy anh Bảo là người không có tài cán gì đặc biệt, hơn người. Cho dù anh đủ năng lực đi học Thạc sĩ ở Mỹ (cứ cho là cái trường anh theo học không phải là là cái lò bán bằng), thì việc này cũng trở thành quá bình thường ở Việt Nam trong thời đại này. Anh cũng không phải là thần đồng hay người đoạt các giải cao trong các cuộc thi học sinh, sinh viên giỏi để được đặc cách hay tưởng thưởng một xuất học bổng du học nước ngoài từ ngân sách nhà nước. Trong quá trình học 1 năm ở Mỹ cũng chưa thấy có báo cáo nào cho biết anh có thành tích đặc biệt gì đó đến nỗi tỉnh Quảng Nam phải quyết định “truy cấp” học phí cho anh suốt 2 năm học Thạc sĩ. Vậy thì cái việc tỉnh Quảng Nam tài trợ chi phí ăn học cho anh Bảo là không thể hiểu nổi trong bối cảnh hiện nay, trừ phi người ta coi anh Bảo là “hạt giống đỏ” như thời trước đây.
Sau đó, trong quá trình công tác ngắn ngủi sau tốt nghiệp về Việt Nam, cũng chưa thấy anh Bảo có công trạng hay thành tích đặc biệt lưu danh gì để mà phải tưởng thưởng đặc cách phong chức. Công việc và vị trí của anh đã từng kinh qua cũng không phải là công việc thuộc loại quá hiếm và quá khó đến nỗi chỉ có một số rất ít người, đặc biệt là chỉ có anh, mới có thể đảm nhiệm tốt được. Thay vì anh Bảo, nếu  muốn, tỉnh Quảng Nam chắc chắn có thể lựa chọn trong đội ngũ cán bộ hiện tại hoặc tuyển ngang từ bên ngoài những người có bằng cấp, trình độ và năng lực bằng và hơn anh Bảo nhiều để đảm nhiệm những vị trí mà anh Bảo đã và đang đảm nhiệm. (Nếu không phải vậy thì lẽ nào những vị trí mà anh Bảo bỏ lại sau lưng lại đang bị bỏ trống vì không ai đủ năng lực đảm nhận?) Vậy thì cái việc anh Bảo được cất nhắc và thăng tiến vù vù như vậy cũng là không thể hiểu nổi trong bối cảnh hiện nay, trừ phi người ta lại coi anh Bảo là “hạt giống đỏ”, là đối tượng được “quy hoạch” từ trong trứng như thời trước đây.
Tóm lại, về nguyên tắc, rõ ràng là nhà nước hiện nay không cần và không nên “quy hoạch” và trả tiền cho một người bình thường đi học để về đảm nhiệm những công việc và vị trí mà nhiều người khác trong xã hội hoàn toàn có thể đảm nhiệm tốt được, cho dù đó là một vị trí lãnh đạo nào đó, vì luôn có thể tìm được người thích hợp cho mọi vị trí trong bộ máy nhà nước thông qua tranh cử và thi tuyển. Nhưng các nguyên tắc này sẽ bị “xếp xó” nếu tình trạng “hạt giống đỏ” vẫn tồn tại và phát triển.

Trả lời bạn đọc về việc NHNN hạ lãi suất tiền gửi USD

Đồng chí em hôm trước hỏi tớ mấy câu sau (phần in nghiêng).


Hi anh, sáng nay mở mắt dậy thấy Ngân hàng nhà nước bất ngờ giảm lãi suất USD áp dụng từ 28/9

- Lãi suất gửi USD với tổ chức còn 0% (mức cũ 0.25%)

- Lãi suất tiền gửi của cá nhân là 0.25% (mức cũ 0.75%)


Theo em, đây là nỗ lực cuối cùng của NHNN nhằm kéo dài thời gian phá giá VND (Chẳng hiểu vì sao chưa chịu phá đi chứ để càng cuối năm áp lực càng lớn trừ lý do bộ sậu trên đó quá ngoan cố) tuy nhiên theo em nghĩ giảm lãi suất USD hiện tại không giúp ích gì được cho NHNN vì:


- Lãi suất huy động USD hiện tại của cá ngân hàng thương mại Việt Nam tầm 2-3%, cho dù NHNN có giảm trần lãi suất đi chăng nữa thì các ngân hàng thương mại vẫn khó có thể giảm lãi suất USD nhằm tránh cho USD tiết kiệm chạy khỏi hệ thống ngân hàng.

Tớ: Cái này thì tớ không bình luận được vì tớ không rõ nhu cầu cần USD của các ngân hàng lớn như thế nào để họ có thể nhắm mắt lách luật. Nhưng tớ nghĩ rằng khi có nhu cầu thì các ngân hàng sẽ sẵn sàng và dễ dàng lách luật để huy động cho đủ.


- Thứ hai, cho dù có giảm lãi suất huy động USD thì cũng không làm cho USD mất sức hấp dẫn tại VIệt Nam, vẫn không tránh khỏi tình trạng găm giữ.

Tớ: Đúng rồi, kỳ vọng VND bị phá giá bao nhiêu % mới là cái quan trọng để người ta nắm giữ USD. Chẳng hạn nếu VND bị kỳ vọng phá 3% nữa thì nhà đầu tư sẵn sàng vay VND với lãi suất ví dụ 2%/tháng mua USD rồi gửi tạm vào ngân hàng với lãi suất 0% đợi 1 tháng sau VND bị phá 3% thì bán ra, trả nợ vay và vẫn còn lãi được 1% nữa. Trong trường hợp này, lãi suất USD cao hay thấp hơn 0,5% chẳng hạn cũng không ảnh hưởng gì đến quyết định nắm giữ USD cả.

Vấn đề em boăn khoăn là liệu trong bối cảnh Fed sắp nâng lãi suất, đồng USD đang lên giá, mà VIệt Nam lại đi ngược hạ lãi suất USD thì có thể tạo ra cú sốc nào, hệ lụy nào cho nền kinh tế không ?

Tớ: Tình cờ là sáng nay lúc em hỏi thì tớ đã viết xong bài trên CafeF về chuyện này, em ngó  câu trả lời trên đó nhé.

Sau động thái hạ lãi suất này nhằm níu kéo tỷ giá, liệu NHNN còn quân bài nào khác có thể dùng không trước khi buộc phải buông tỷ giá ra. (trong tháng 9 đã bán hơn 2 tỷ USD cho các Ngân hàng thương mại rồi, cộng với hơn 4 tỷ trong tháng 8 thì chắc dự trữ ngoại hối đã về gần mức 30 tỷ )

Tớ: Tớ cũng nói trên CafeF rồi, rằng tác động của việc hạ lãi suất USD đợt này sẽ có hạn vì mức hạ là khiêm tốn, và không còn room để hạ nữa. Nói cách khác, NHNN chỉ còn mỗi phương pháp là siết chặt cung cầu bằng biện pháp hành chính (capital control), nhưng hiệu quả thế nào thì bản thân NHNN đã rõ mãi rồi.

"Biện pháp hạ lãi suất tiền gửi USD của NHNN là chưa đủ" (Bài đăng trên CafeF, 28/9/2015, tiêu đề do báo đặt)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/bien-phap-ha-lai-suat-tien-gui-usd-cua-nhnn-la-chua-du-2015092814374935.chn


Đêm 27/9, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) bất ngờ thông báo về việc điều chỉnh giảm lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng đô la Mỹ cuả tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, lần lượt xuống 0%/năm và 0,25%/năm từ mức trước đây lần lượt là 0,25% và 0,75%.


Theo NHNN, việc giảm lãi suất này là để ngăn chặn tình trạng găm giữ ngoại tệ nhằm góp phần thực hiện có hiệu quả các biện pháp về chính sách tiền tệ, hoạt động ngân hàng trong những tháng cuối năm 2015, đồng thời dựa theo đánh giá diễn biến kinh tế vĩ mô, tình hình thị trường tiền tệ, ngoại hối.


Điều đáng chú ý trước tiên là việc NHNN tuyên bố rõ về mục tiêu ngăn chặn tình trạng găm giữ ngoại tệ trong đợt giảm lãi suất tiền gửi USD lần này. Ngoài mục đích chính và rộng hơn là để tráng tình trạng đô la hóa trong hệ thống tài chính của Việt Nam, một mục đích lâu dài và xuyên suốt nhiều năm qua, việc NHNN trực tiếp đề cập rõ về tình trạng găm giữ ngoại tệ lần này vì nó liên quan trực tiếp đến mục tiêu ổn định tỷ giá VND/USD, đồng thời là mục tiêu hạ lãi suất cho vay VND.


Khi hạ lãi suất tiền gửi USD, NHNN kỳ vọng mức độ hấp dẫn của việc nắm giữ USD sẽ giảm đi tương ứng so với nắm giữ VND, khuyến khích người có tài sản chuyển sang nắm giữ tài sản bằng VND nhiều hơn là USD. Việc chuyển đổi danh mục tài sản như vậy sẽ góp phần làm giảm áp lực lên tỷ giá VND/USD mà NHNN đang cố gắng duy trì ở mức hiện tại cho đến ít nhất đầu năm sau. Đồng thời việc chuyển đổi sang nắm giữ tài sản bằng VND, chẳng hạn như tiền gửi tiết kiệm bằng VND, sẽ làm tăng nguồn cung VND trong hệ thống ngân hàng, giúp làm giảm áp lực lên mặt bằng lãi suất cho vay bằng VND nói chung đang có dấu hiệu căng thẳng.


Tuy vậy, hành động này của NHNN không phải là không có những giới hạn và hậu quả. Về giới hạn, có thể nói ngay rằng mức độ cắt giảm lãi suất tiền gửi USD lần này là không quá lớn, chỉ là 0,25 điểm phần trăm cho tiền gửi của các tổ chức và 0,5% cho cá nhân.
Tuy không nhất thiết tuân theo quan hệ 1:1, nhưng những mức cắt giảm lãi suất khá khiêm tốn như thế này sẽ chỉ góp phần giảm áp lực lên tỷ giá VND/USD và lãi suất VND trong chừng mực khá khiêm tốn như vậy nếu so với áp lực đang khá căng thẳng lên tỷ giá VND/USD cũng như mặt bằng lãi suất VND còn đang ở mức rất cao sao với khu vực và thế giới.


Về hậu quả, việc cắt giảm lãi suất tiền gửi USD đương nhiên sẽ làm giảm tính hấp dẫn cuả việc đầu tư tìm kiếm chênh lệch lãi suất ở Việt Nam, do đó làm giảm luồng vốn USD đổ vào Việt Nam trong những hoạt động đầu tư loại này. Dẫu rằng luồng vốn đầu tư loại này chỉ là luồng vốn “nóng”, đầy biến động và gây ảnh hưởng không tốt đến ổn định vĩ mô, nhưng trong nhiều thời điểm nó lại là luồng vốn bổ sung quan trọng cho cung ngoại tệ ở Việt Nam.
Hoặc xét từ góc độ khác, khi luồng vốn “nóng” này chạy ra khỏi Việt Nam một cách ồ ạt hoặc đột ngột, nó sẽ tạo áp lực đột biến lên tỷ giá VND/USD do nguồn cung USD trong nước trở nên mỏng hơn. Đặc biệt, trong bối cảnh Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) nhiều khả năng nâng lãi suất USD lên trong tháng sau hoặc cuối năm nay, và theo đó là sự rút vốn USD đầu tư ở nước ngoài chuyển về Mỹ thì luồng vốn USD, gồm cả vốn “nóng” nói trên, đổ ra khỏi Việt Nam có nhiều khả năng sẽ tăng hơn nữa.


Bởi vậy, ở đây ta có thể thấy tình trạng khá khó khăn, phức tạp mà NHNN đang phải đối mặt. Một mặt, họ phải làm tăng tính hấp dẫn tương đối của VND so với USD để duy trì được tỷ giá ở mức hiện tại bằng cách hạ lãi suất tiền gửi USD để nới rộng doãng cách tiền gửi VND và USD ở Việt Nam.


Và lưu ý rằng việc hạ lãi suất tiền gửi USD không thể mạnh hơn được do lãi suất tiền gửi USD đã tiệm cận hoặc bằng 0% như đã thấy (Việt Nam cũng không thể hạ lãi suất tiền gửi USD xuống mức âm như một số nước khác đã làm với tiền gửi bằng bản tệ của họ để tránh bản tệ lên giá mạnh so với đồng USD làm ảnh hưởng đến xuất khẩu của họ, vì Việt Nam đang cần USD để tránh phải phá giá VND, như nói thêm ở dưới đây).


Nhưng mặt khác, NHNN phải duy trì một sự hấp dẫn đủ lớn để nguồn cung USD ở Việt Nam không bị suy giảm mạnh, nhất là khi FED chính thức nâng lãi suất USD. Mà để làm việc này thì lãi suất tiền gửi USD phải được duy trì ở mức đáng kể, đủ để thu hút và giữ chân nhà đầu tư nước ngoài. Nói cách khác, NHNN ít ra phải duy trì lãi suất tiền gửi USD ở mức như trước đây chứ không phải là hạ nó đi như ngày hôm qua.


Tuy còn khá sớm để thấy hiệu quả và phản ứng của thị trường với đợt hạ lãi suất tiền gửi USD lần này của NHNN, nhưng điều cần làm là có phương án dự phòng cho những khả năng xấu như tỷ giá vẫn ở mức căng thẳng và lãi suất VND vẫn “cố thủ” ở mức cao, chứng tỏ biện pháp hạ lãi suất tiền gửi USD vừa qua của NHNN là chưa đủ.

Friday 25 September 2015

Nghịch lý lạm phát và lãi suất (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân, 26/9/2015)



Theo số liệu Tổng cục Thống kê vừa công bố, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cả nước trong tháng 9 tăng trưởng âm 0,21% so với tháng trước và ở mức thấp nhất trong vòng 10 năm qua. Nếu so với cuối năm 2014, CPI của 9 tháng năm nay chỉ tăng ở mức cực thấp là 0,4% - mức chưa từng có trong hàng thập kỷ nay.
 
Trong nền kinh tế thị trường, lạm phát là cái nền để ngân hàng trung ương điều hành chính sách tiền tệ và xác lập lãi suất một cách phù hợp. Bởi vậy, theo lẽ thường, khi lạm phát thấp, đặc biệt ở mức âm như hiện nay thì lãi suất sẽ phải hạ thấp một cách tương ứng. Ngược lại, khi lạm phát có dấu hiệu gia tăng thì ngân hàng trung ương sẽ thường hành động đối phó bằng cách nâng lãi suất lên để xì bớt áp lực lạm phát. Một ví dụ cụ thể và dễ thấy trong chuyện điều hành lãi suất như thế này là chuyện Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) dùng dằng chưa thể tăng lãi suất USD lên trong tháng này vì một trong những yếu tố chính cần cân nhắc là lạm phát ở Mỹ vẫn còn thấp hơn mức lạm phát mục tiêu 2% mà Fed đề ra.
 
Nhưng ở Việt Nam, dường như là nghịch lý khi lãi suất tiền đồng không những không giảm mà còn có xu hướng quay đầu tăng lên gần đây và hiện đang đứng ở mức rất cao so với khu vực và thế giới, bất chấp chủ trương của Chính phủ sớm hạ mặt bằng lãi suất để hỗ trợ các doanh nghiệp Việt tăng sức cạnh tranh. Tuy vậy, nghịch lý này có lý do của nó. Thông thường, khi lạm phát thấp mà lãi suất vẫn cao so với mức trung bình của khu vực và thế giới làm tổn hại đến tăng trưởng kinh tế thì ngân hàng trung ương sẽ nới lỏng cung tiền để lãi suất bản tệ hạ xuống nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế. Việc nới lỏng có chừng mực tuy vẫn sẽ làm tăng áp lực lên lạm phát nhưng vì lạm phát đang ở mức thấp nên nếu có tăng thì lạm phát cũng chỉ ở mức có chừng mực và hoàn toàn có thể được chấp nhận bởi thị trường mà không gây ra nhiều hệ lụy tiêu cực cho nền kinh tế.
 
Tuy nhiên, ở Việt Nam, điều trở nên bất thường là Ngân hàng Nhà nước (NHNN) lại không thể dễ dàng tăng cung tiền để hạ lãi suất. Yếu tố trói buộc NHNN thực hiện nới lỏng tiền tệ chính là tỷ giá. NHNN vì theo đuổi đồng thời nhiều mục đích xung khắc như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định tiền tệ, đồng thời kiềm chế lạm phát nên NHNN luôn rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan và buộc phải thỏa hiệp giữa nhiều mục tiêu xung khắc này. Cụ thể hơn, nếu nhằm đến cái đích là hạ lãi suất bằng cách bơm thêm VNĐ cho hệ thống ngân hàng thì NHNN sẽ phải đối mặt với rủi ro không ổn định được tỷ giá VNĐ/USD, vì trong nền kinh tế sẽ có một lượng VNĐ lớn hơn đối trọng với một lượng USD không đổi, từ đó làm tăng áp lực mất giá của VNĐ. Bởi vậy, để ổn định tỷ giá thì NHNN buộc phải ngừng biện pháp bơm tiền để hạ lãi suất. Như vậy, vấn đề ở đây là NHNN buộc phải lựa chọn ưu tiên hay hy sinh mục tiêu nào, chứ không thể có sự cầu toàn với tất cả các mục tiêu.
 
Xét trong bối cảnh hiện tại, rõ ràng NHNN đã lựa chọn ưu tiên mục tiêu ổn định tỷ giá VNĐ/USD, với sự lặp đi lặp lại thông điệp gần đây là sẽ không phá giá VNĐ thêm nữa, cho dù có thêm những yếu tố bên ngoài gây bất lợi cho tỷ giá như Fed tăng lãi suất USD lên từ mức gần 0% như hiện nay. Mà như vậy thì hiển nhiên lãi suất sẽ phải là vật hy sinh ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Nói cách khác, chừng nào mà NHNN còn phải ngắm đến cái đích tỷ giá, còn tuyên bố không phá giá VNĐ nữa thì chừng đó lãi suất của đồng vốn VNĐ đến tay doanh nghiệp Việt Nam sẽ còn cao và thậm chí còn cao hơn nữa. Trong bối cảnh đó, lạm phát có thấp đến đâu cũng không phải là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng đến quyết định của NHNN.
 
Nhưng nếu phân tích kỹ thì lập trường chính sách của NHNN cũng rất rủi ro. Khi NHNN kiên quyết không phá giá VNĐ thì như đã biết là lãi suất cho vay VNĐ sẽ phải tăng lên và đứng ở mức cao, làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa sản xuất tại Việt Nam. Từ đó, lượng ngoại tệ thu được từ hoạt động xuất khẩu giảm đi, trong khi lượng ngoại tệ chảy ra khỏi Việt Nam lại tăng lên vì nhập siêu sẽ có xu hướng tăng lên. Nhập siêu dồn nén sẽ làm tăng áp lực phá giá VNĐ, buộc NHNN lại càng phải quyết liệt bảo vệ tỷ giá VNĐ bằng cách bán thêm ngoại hối để can thiệp, cho đến lúc ngoại hối tụt giảm xuống mức nguy hiểm. Ngược lại, nếu bỏ qua mục tiêu ổn định tỷ giá mà tập trung vào mục tiêu giảm lãi suất, NHNN sẽ gián tiếp kích thích các hoạt động sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam đồng thời lại hạn chế được nhập khẩu và nhập siêu. Với lượng ngoại tệ chênh lệch thu về dồi dào hơn, tự khắc tỷ giá VNĐ sẽ có thêm lực nâng đỡ mà chẳng cần NHNN phải tuyên bố, cam kết lẫn phải dốc quỹ ra để bảo vệ tỷ giá như hiện tại. Nói cách khác, điều hành lãi suất ở mức thấp thích hợp nên và phải là mục tiêu chính của NHNN.

Dự án lọc dầu: xin bảo hộ thì đừng mở rộng sản xuất nữa! (Bài đăng trên TBKTSG, ngày 26/9/2015)

http://www.thesaigontimes.vn/136068/Du-an-loc-dau-xin-bao-ho-thi-dung-mo-rong-san-xuat-nua.html

(TBKTSG) - Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) vừa có kiến nghị Chính phủ kiểm soát chặt chẽ nguồn nhập khẩu để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm xăng dầu trong nước.
 
Theo tính toán của PVN, khi Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn vận hành thương mại vào năm 2017 và đạt công suất tối đa vào năm 2018 thì nguồn cung xăng dầu nội địa cho thị trường Việt Nam tại thời điểm đó sẽ vượt nhu cầu trong nước, đặc biệt là dầu diesel.
Điều đáng chú ý hơn là PVN thừa nhận rằng các sản phẩm xăng dầu do hai nhà máy lọc dầu của mình làm ra khó cạnh tranh được với sản phẩm xăng dầu cùng loại nhập khẩu, đặc biệt sản phẩm xăng dầu nhập khẩu từ ASEAN, Trung Quốc và Hàn Quốc- được áp dụng mức thuế suất ưu đãi đặc biệt theo các hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam với các nước và khu vực này. Do đó, PVN kiến nghị Chính phủ điều chỉnh các chính sách về kinh doanh xăng dầu trên cơ sở cân đối cung cầu, chỉ cấp hạn ngạch (quota) nhập khẩu sau khi cân đối đảm bảo tiêu thụ toàn bộ sản phẩm của hai nhà máy lọc dầu Nghi Sơn và Dung Quất để các nhà máy lọc dầu trong nước “tiêu thụ an toàn, hiệu quả toàn bộ sản phẩm, phát huy hiệu quả đầu tư của dự án, đảm bảo an ninh năng lượng”.

Giả sử Chính phủ chấp nhận kiến nghị trên của PVN. Việc cần xem xét ở đây là liệu Chính phủ có được phép áp đặt quota nhập khẩu xăng dầu hay không. Theo cam kết WTO thì kể từ ngày gia nhập WTO, Việt Nam không được áp dụng mới và áp dụng trở lại các biện pháp hạn chế số lượng nhập khẩu không phù hợp với quy định của WTO. Riêng với biện pháp hạn chế số lượng nhập khẩu dưới hình thức hạn ngạch thuế quan thì Việt Nam chỉ được duy trì đối với bốn nhóm mặt hàng là thuốc lá nguyên liệu; trứng gia cầm; đường thô và đường tinh luyện; muối.
 
Nếu cụm từ “quota nhập khẩu” được PVN dùng trong kiến nghị của mình lên Chính phủ đồng nghĩa với hạn ngạch thuế quan như trong cam kết WTO thì Chính phủ Việt Nam cho dù có muốn bảo hộ PVN đến đâu đi nữa cũng không được phép áp đặt bất cứ một dạng quota để hạn chế nhập khẩu xăng dầu nào.
 
Phân tích kiến nghị trên từ một góc độ khác. Theo lộ trình cam kết của Việt Nam với các nước ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, từ năm 2015-2018, thuế nhập khẩu các mặt hàng xăng dầu có nguồn gốc từ các nước này sẽ phải đưa về mức 20% với xăng, 5% với dầu diesel cho ô tô và dầu hỏa. Tuy nhiên, trên thực tế, các mặt hàng này ở Việt Nam đang phải chịu thuế suất nhập khẩu theo cam kết WTO ở mức 35% (trước thời điểm 13-4-2015) vì nguồn nhập khẩu từ các nước hưởng ưu đãi thuế nói trên chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng lượng nhập khẩu xăng dầu vào Việt Nam (chiếm 0,08% trong quí 1-2015, theo Bộ Tài chính).
 
Hiện tại, từ sau ngày 13-4-2015, mức thuế nhập khẩu xăng đã giảm còn 20%, dầu diesel là 10%. Với bối cảnh giá dầu thế giới đang giảm mạnh, thuế nhập khẩu xăng dầu theo các cam kết quốc tế cũng giảm, càng làm lộ rõ tính hiệu quả của các nhà máy lọc dầu của PVN là thấp. Bởi vậy, việc các nhà máy này vẫn tồn tại và tiếp tục tiêu thụ được sản phẩm có nghĩa là cả nền kinh tế Việt Nam phải ngậm hai “quả đắng” lọc dầu này, tiếp tục phải trực tiếp và gián tiếp bù lỗ cho chúng duy trì hoạt động.
 
Nhưng hãy tạm gác lại chuyện hiệu quả thấp của các dự án này, vì chúng là “chuyện đã rồi” và ở vào thế “đâm lao phải theo lao”. Điều đáng nói ở đây là, đã nhìn ra được tương lai ảm đảm về tính cạnh tranh của mình đến tận năm 2018, thế mà, kỳ lạ thay, PVN, các cổ đông của họ và các cơ quan có thẩm quyền vẫn xem xét hoặc quyết định nâng cấp và mở rộng đáng kể công suất của hai nhà máy lọc dầu Dung Quất (từ 6,5 triệu lên 8,5 triệu tấn dầu thô/năm, dự kiến hoàn thành vào năm 2021) và Nghi Sơn (từ 200.000 thùng/ngày lên 400.000 thùng/ngày), với lý do để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ xăng dầu đang ngày càng tăng ở Việt Nam.
 
Như thế, có thể thấy, khi cần xin xỏ một cái gì đó có lợi cho mình thì những “ông lớn” doanh nghiệp nhà nước như PVN luôn viện ra những lý do nghe có vẻ cực kỳ xác đáng (nhưng thật ra là cực kỳ vô lý). Trong việc xin bảo hộ thị trường trong nước bằng quota nhập khẩu vì lo dư cung, PVN viện lý do nào là bảo đảm hiệu quả đầu tư của dự án (?), nào là đảm bảo an ninh năng lượng. Ngược lại, dù biết và thừa nhận sẽ có dư cung năng lực sản xuất trong nước, nhưng để tiện bề xin mở rộng công suất, PVN và các cổ đông lại viện đến lý do đáp ứng nhu cầu xăng dầu đang ngày càng tăng ở Việt Nam (vậy sao lại kiến nghị siết nhập khẩu vì lo dư cung?).
 
Từ những lý do “tréo ngoe” như nói ở trên, có thể thấy PVN đang quá “tham lam” khi vừa muốn được bảo hộ khỏi sự cạnh tranh của sản phẩm nhập khẩu, lại vừa muốn sản xuất nhiều để bán được nhiều và thu lãi nhiều hơn với giá bảo hộ cao ngất ngưởng.
 
Nếu muốn toàn dân “thông cảm” chung tay bảo hộ để các dự án lọc dầu có đất sống vì đã trót bỏ ra quá nhiều tiền xây dựng chúng thì PVN phải quên đi việc xin mở rộng hơn nữa công suất lọc dầu từ mức hiện tại. Trong trường hợp này, Chính phủ có thể bảo hộ các nhà máy lọc dầu này một cách hợp pháp bằng việc duy trì hàng rào thuế quan tối đa theo mức cam kết với WTO (40%). Tất nhiên, toàn bộ gánh nặng thuế này sẽ đổ lên đầu toàn dân để đổi lấy sự tồn tại của các nhà máy lọc dầu.
 
Ngược lại, nếu muốn mở rộng thị phần bằng cách tăng công suất lọc dầu cho các nhà máy này thì PVN phải chấp nhận bị cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu mà không được hưởng sự bảo vệ bằng bất cứ chính sách nào của Chính phủ theo hướng siết chặt lại nhập khẩu xăng dầu với những lý do không chính đáng. Trong trường hợp này, thậm chí Chính phủ còn phải nhanh chóng xem xét hạ thấp hàng rào thuế quan từ mức rất cao như hiện tại để đảm bảo cân bằng lợi ích của các bên liên quan.

Wednesday 23 September 2015

Phang TS Nguyễn Đức Độ về tỷ giá cái chơi!


Tớ đang ước được thấy một số nghiên cứu về tác động của tỷ giá lên nền kinh tế và việc có nên phá giá không lộ diện thì may quá, hôm nay tớ vớ được bài này của đồng chí TS Nguyễn Đức Độ. Y như tớ hình dung trước, đọc đến đâu là thấy sạn, thấy sai đến đó. Dưới đây là comment của tớ đối với mỗi một đoạn/ý trong bài của đồng chí Độ.

Nguyễn Đức Độ (NDD) viết: Để phân tích tác động của việc đồng NDT giảm giá đến nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc, chung ta xem xét phương trình (1).

Tớ bình luận: Tớ không (được) đọc nghiên cứu gốc của đồng chí NDD nên chỉ bình luận sơ sơ ở đây về những sai sót có thể có trong phương trình trên, vì thấy nó quá sơ sài, quá đơn giản hóa vấn đề.

(1) Không thấy đề cập đến (biến động) tỷ giá VND/CNY, là cái sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tính cạnh tranh của hàng Việt Nam so với hàng Trung Quốc (ở mọi nơi).
(2) Không control các yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ thương mại giữa Việt Nam với Trung Quốc và với các đối tác của cả 2 nước này, ví dụ như các FTAs.
(3) Không control các yếu tố ảnh hưởng đến dịch chuyển đầu tư từ Trung Quốc, từ ASEAN sang Việt Nam, ví dụ như chính sách China+1 của các doanh nghiệp Nhật muốn giảm bớt rủi ro khi tập trung quá nhiều vào Trung Quốc, hoặc sự gia tăng tiền lương ở Trung Quốc làm các doanh nghiệp chuyển bớt các hoạt động sản xuất sang Việt Nam. Sự chuyển biến chính sách này làm gia tăng đầu tư (của Nhật) vào Việt Nam đồng thời giảm đầu tư (của Nhật) vào Trung Quốc. Gắn với chuyện này là những hậu quả như nhập siêu gia tăng vì Việt Nam trở thành nơi hoàn thiện đầu cuối, tạo ít giá trị thặng dư trong khi phải nhập khẩu máy móc và phương tiện, đầu vào từ Trung Quốc để lắp ráp, hoàn thiện v.v...
(4) Tương tự như vậy, nghiên cứu đã không control sự thay đổi trong phân công lao động quốc tế, với Việt Nam trở thành công xưởng mới của thế giới trong nhiều nhóm mặt hàng v.v..

Tóm lại, chỉ cần với những thiếu sót trên là đủ để đặt dấu hỏi to tướng về chất lượng và kết quả nghiên cứu của NDD. Đó là chưa kể đến những vấn đề kỹ thuật trong xử lý số liệu (chuỗi thời gian, với các test) mà thường bị bỏ qua/lờ đi ở nhiều nghiên cứu kinh tế lượng trình độ “làng” như thế này (tớ nhắc lại là tớ chưa đọc nghiên cứu gốc của NDD, nhưng sẽ không ngạc nhiên nếu biết NDD không xử lý các vấn đề này). Nếu không được xử lý, các vấn đề kỹ thuật của số liệu hoàn toàn làm biến dạng kết quả tính toán, kiểm định.

NDD viết: Hơn nữa, việc tăng nhập khẩu từ Trung Quốc khi đồng NDT giảm giá không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với việc nhập siêu của cả nền kinh tế tăng theo, bởi có thể Việt Nam tăng nhập khẩu từ Trung Quốc khi đồng NDT yếu, nhưng đồng thời lại giảm nhập khẩu từ các nước khác, chẳng hạn như từ khu vực ASEAN.  

Tớ bình luận: Điều này là đương nhiên. Khi CNY yếu đi mà các nước khác không phá giá bản tệ theo thì đương nhiên hàng Trung Quốc sẽ có tính cạnh tranh mạnh hơn, nên Việt Nam chuyển sang nhập của Trung Quốc thay vì các nước ASEAN. Nhưng NDD đã bỏ qua khả năng các nước khác cũng phá giá ăn theo CNY, như vừa qua, làm nhập khẩu của Việt Nam tăng lên đồng thời xuất khẩu của Việt Nam giảm đi, nên hậu quả là nhập siêu cả nền kinh tế cũng tăng theo. Và, quan trọng hơn, nói như trên thì NDD cũng đã thừa nhận thiếu sót khi không control biến động tỷ giá giữa CNY với các bản tệ ASEAN và VND trong phương trình trên.

NDD viết: Theo hình 2, trong suốt giai đoạn 1995-2013 tỷ trọng nhập khẩu từ Trung Quốc trong tổng giá trị nhập khẩu từ Trung Quốc, Hàn Quốc và ASEAN cộng lại có xu hướng tăng trong khi tỷ trọng nhập khẩu từ khu vực ASEAN lại có xu hướng giảm. Điều đáng nói là xu hướng này diễn ra bất kể đồng NDT tăng giá hay giảm giá.
Như vậy, theo phương trình (1), nếu Việt Nam phá giá VND để thúc đẩy xuất khẩu, thì sẽ dẫn đến nhập khẩu từ Trung Quốc gia tăng theo. Kết luận này cũng lý giải tại sao trong nhiều năm qua, Việt Nam phá giá rất mạnh VND, còn đồng NDT thì tăng giá so với USD, nhưng nhập siêu của Việt Nam với Trung Quốc vẫn gia tăng mạnh. Vấn đề như vậy, không phải do tỷ giá được xác định cao hay thấp, mà là do cơ cấu kinh tế. Vì vậy, nếu không thay đổi cơ cấu kinh tế, nhập khẩu từ Trung Quốc sẽ chỉ giảm, khi Việt Nam giảm đầu tư và xuất khẩu. Nhưng đây có lẽ là điều ít ai muốn! 

Tớ bình luận: NDD quả là rất liều khi phương trình viết một đằng, diễn giải theo một nẻo khác. Điều cơ bản khi làm các nghiên cứu kinh tế lượng là phải báo cáo kết quả tính toán, kiểm định, với dấu (+/-) của các hệ số và độ tin cậy của chúng. Từ bản thân cái phương trình trên thì đến Chúa cũng chẳng biết tại sao khi VND bị mất giá thì nhập khẩu từ Trung Quốc lại tăng theo. 

Và cho dù nếu NDD có tính toán được, và có kết quả có ý nghĩa từ cái phương trình đó thì với những sai sót tớ đã chỉ ra ở trên, những kết quả tính toán của NDD về quan hệ kỳ quặc giữa phá giá VND với nhập siêu từ Trung Quốc tăng lên là kết quả của sự hoang tưởng.

NDD viết: Về xuất khẩu sang Trung Quốc cũng vậy, nếu việc phá giá đồng NDT dẫn đến xuất khẩu và tăng trưởng của Trung Quốc tăng, Việt Nam cũng sẽ được hưởng lợi từ những diễn biến này, do nhu cầu nhập khẩu từ Trung Quốc đối với các nguyên liệu từ Việt Nam gia tăng. Một số tính toán cho thấy, nếu đồng NDT giảm giá 1%, xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc có thể tăng theo khoảng 1%.  

Tớ bình luận: Lậy Chúa! Đúng là Việt Nam có thể hưởng lợi do nhập khẩu các nguyên liệu của Trung Quốc tăng. Nhưng ngược lại, sao NDD lại quên không tính đến xuất khẩu nói chung của Việt Nam sẽ bị lụn bại vì bị hàng Trung Quốc lấn át? Chẳng hạn, đúng là Việt Nam xuất khẩu được nhiều cao su thô sang Trung Quốc (ví dụ, tăng 1 triệu USD), nhưng ngược lại, vì CNY yếu đi so với VND nên rốt cuộc Việt Nam lại không xuất khẩu được những mặt hàng khác như cao su bán thành phẩm (ví dụ, sụt giảm mất 2 triệu USD), nên kết cục Việt Nam vẫn nhập siêu thêm 1 triệu USD nữa từ Trung Quốc! Vả lại, NDD đang thoát ly cái phương trình của mình, chuyển sang lý luận suông, bởi những lý luận thế này không xuất phát từ kết quả tính toán của phương trình trên (nói vậy có nghĩa là đưa ra phương trình để làm gì? Dọa ma à?)

NDD cũng lại mang con ngáo ộp là “một số tính toán cho thấy” ra để dọa thiên hạ. Nhưng những tính toán vớ vẩn tương tự như của NDD thì làm gì có giá trị tham khảo?

NDD viết: Về tác động đến xuất khẩu của Việt Nam nói chung trên thị trường thế giới, các tính toán cho thấy, khi đồng NDT giảm giá, xuất khẩu của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực do hàng hóa của Việt Nam kém cạnh tranh hơn [Nguyễn Đức Độ (2015)]. Tuy nhiên, nếu xuất khẩu của Việt Nam bị giảm về tổng thể, nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc cũng sẽ lại giảm theo.

Tóm lại, mặc dù Trung Quốc phá giá sẽ có những ảnh hưởng tiêu cực nhất định đến xuất khẩu của Việt Nam, nhưng riêng trong quan hệ song phương, nhập siêu của Việt Nam có tăng hay không thì cần có những nghiên cứu tiếp theo.

Tớ bình luận: Ý đầu (Việt Nam bị ảnh hưởng tiêu cực khi CNY giảm giá) là rất đúng, chẳng cần phải tính toán lôi thôi! Nhưng nói thế rồi thì NDD sao lại còn nói chuyện Việt Nam được lợi khi CNY bị phá giá như đoạn trên? Chẳng phải là tự mâu thuẫn ru?

Nói “cần có những nghiên cứu tiếp theo” sao lại còn khẳng định CNY bị phá giá thì Việt Nam lại được lợi?

NDD viết: Thứ nhất, là tâm lý đầu cơ USD đã gia tăng ngay sau đó và buộc NHNN phải đưa ra cam kết không điều chỉnh tiếp tỷ giá cho đến đầu năm 2016. Mặc dù tỷ giá VND/USD đã giảm trở lại, nhưng diễn biến tỷ giá trong thời gian tới sẽ ra sao vẫn là một câu hỏi, nhất là khi những động thái của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) và NHTW Trung Quốc (PBoC) vẫn là những ẩn số, đồng thời niềm tin của thị trường vào các cam kết của NHNN đã không còn mạnh như trước.

Tớ bình luận: Thật hết biết! Lẽ ra phải nói tâm lý đầu cơ còn lớn hơn thế nhiều trước khi, và là lý do để NHNN phải phá giá! Niềm tin không còn mạnh vì NHNN đã không giữ được lời ư? Thế giả sử nếu NHNN muốn giữ lời, liệu NHNN có giữ được không? Tức là, NHNN có chống lại được áp lực phá giá không?

NDD viết: Thứ hai, những biến động về tỷ giá trong thời gian gần đây đã khiến cho lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 5 năm tăng từ mức 5,4% hồi tháng 4/2015 lên 6,7% hiện nay. Việc phát hành trái phiếu chính phủ, vì thế càng trở nên khó khăn. Đó là chưa kể nợ công cũng sẽ gia tăng khi VND mất giá.

Tớ bình luận: Có lúc nào NDD tự hỏi rằng tại sao NHNN lại giảm mạnh M2 suốt từ đầu năm đến nay so với năm trước không nhỉ? Thôi, để tớ nói luôn cho nhanh chứ chưa chắc NDD tìm được câu trả lời. Thông thường, nếu muốn giảm lãi suất thì chẳng phải NHNN chỉ cần tăng M2 là xong phải không? Nhưng vì NHNN cố sống cố chết giữ tỷ giá nên phải thắt cung tiền lại, do đó làm cho lãi suất tăng lên. Vậy thì, thay vì nói ngược là do phá giá VND làm tăng lãi suất, NDD phải thay đổi tư duy và nâng cao kiến thức bằng cách nói rằng do phải cố gắng không phá giá VND nên NHNN đã “vô tình” làm tăng lãi suất trái phiếu.

Còn về chuyện nợ công gia tăng khi VND mất giá, tớ không phải kể lại những lập luận xác đáng của nhiều người khác về chuyện này (chẳng hạn, nợ công tính ra VND của những khoản nợ USD tăng lên, nhưng ngược lại, Việt Nam đang hưởng lợi nhờ nợ công tính ra VND của những khoản nợ bằng ngoại tệ khác đã giảm mạnh do các ngoại tệ khác cũng mất giá so với VND). Ở đây, tớ chỉ muốn phang NDD rằng chính phủ đang chuyển tiền từ tay nọ sang tay kia trong chuyện nợ công. Cụ thể, để khống chế nợ công gia tăng khi tính bằng VND do VND bị mất giá so với USD, chính phủ ra lệnh cho NHNN phải ổn định tỷ giá. Vì tỷ giá không tự nhiên mà ổn định được nên NHNN phải tiêu tốn quỹ ngoại hối, cũng giống như việc trích quỹ bình ổn xăng dầu ấy, nên rốt cuộc chính phủ, đại diện là Bộ tài chính không phải chi nhiều VND hơn để trả nợ nhưng chính phủ, đại diện là NHNN lại mất đi nhiều hơn USD.

NDD viết: Về tác động của việc Trung Quốc phá giá đồng NDT đến nền kinh tế thực, một số đánh giá cho thấy là không quá lớn.

Theo một số tính toán, nếu tỷ giá VND/USD tăng 1%, GDP sẽ tăng tổng cộng khoảng 0,08 điểm phần trăm trong 3 năm tiếp theo, nhưng nếu lãi suất tăng 1%, GDP sẽ bị giảm 0,24 điểm phần trăm trong cùng giai đoạn. Một số tính toán khác của chúng tôi cho thấy, việc phá giá VND ở mức 1% có thể dẫn đến lãi suất tăng 0,3%. Như vậy, nếu phá giá mà dẫn lãi suất gia tăng, các tác động của việc phá giá đến tăng trưởng kinh tế sẽ bị triệt tiêu.

Tớ bình luận: Lại “một số đánh giá cho thấy”, “theo một số tính toán”! Ô hô! Tớ nói thật, nếu “những đánh giá” với “những tính toán” này có cả của NDD thì NDD nên cảm thấy xấu hổ vì đã viện dẫn ra nhé.

Vả lại, NDD và đồng sự có bao giờ kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa tỷ giá và lãi suất, cái nào dẫn đến cái nào ở Việt Nam chưa? Như trên tớ nói rồi đấy, NDD đã thử kiểm định khả năng do lãi suất tăng không đủ nên VND bị phá giá chưa? Nếu lãi suất tăng lên 5% thì liệu VND có bị phá giá không? Ngược lại, sau khi phá giá VND 5%, nếu NHNN không tuyên bố lập trường không phá giá nữa thì lãi suất có nhất thiết phải tăng lên không?

NDD viết: Nguyên nhân dẫn đến tác động của việc phá giá VND đến tăng trưởng kinh tế không đáng kể là do hàng hóa của Việt Nam có độ co giãn theo giá thấp. Điều này có thể xuất phát từ việc Việt Nam là nền kinh tế gia công, theo đó nhập khẩu nguyên liệu, chế biến, rồi xuất khẩu, nên khi VND giảm giá dẫn đến chi phí đầu vào cũng tăng theo và hông con nhiều dư địa để giảm giá bán.

Tớ bình luận: Chưa cần nói đến cái kết luận cực kỳ đáng nghi (do chẳng có chứng cứ/tính toán khoa học nào được đưa ra) về phá giá không làm tăng đáng kể tăng trưởng, NDD phải nghĩ đến khía cạnh rằng đúng là phá giá có thể không làm tăng đáng kể tăng trưởng (ví dụ đang từ mức bình thường là 5%/năm lên 6%/năm), nhưng phá giá là để BẢO TOÀN/BẢO VỆ tăng trưởng trong bối cảnh, ví dụ, các nước khác thi nhau phá giá, nên nếu Việt Nam không phá giá VND thì tăng trưởng của Việt Nam thậm chí còn tụt xuống 2, 3% nữa cơ! Phá giá trong bối cảnh này để tăng trưởng đạt được mức như bình thường là 5% đã là một điều quá tích cực rồi, và vì thế phải thực hiện phải không?

NDD viết: Vì vậy, khi NHNN phá giá, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam sẽ không giảm giá bán để tăng sản lượng. Ngược lại, họ vẫn giữ nguyên giá bán bằng USD, nhưng sẽ nhận được nhiều VND hơn khi tỷ giá VND/USD tăng. Hơn nữa, do tốc độ tăng xuất khẩu của Việt Nam luôn lớn hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng GDP, nên sự gia tăng của xuất khẩu phải trả giá bằng sự sụt giảm của các khu vực kinh tế khác, khi khu vực xuất khẩu lấy nguồn lực của các khu vực kinh tế này.

Tớ bình luận: Dựa vào đâu mà NDD nói khơi khơi rằng các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam sẽ không giảm giá bán để tăng sản lượng?

Đúng là khi tăng xuất khẩu thì có thể sẽ kéo theo sự sụt giảm của các khu vực khác. Nhưng nếu nền kinh tế đang ở trọng trạng thái tăng trưởng dưới tiềm năng (chẳng hạn như hiện tại), có nghĩa là các nguồn lực đang tương đối dư thừa (ví dụ, lao động chưa toàn dụng), thì gia tăng xuất khẩu chẳng phải là điều tốt hơn hay sao? Hay cứ để mọi khu vực đều dư thừa (như nhau) mới là tốt?

NDD viết: Một số nghiên cứu khác của Phạm Thế Anh (2015), Bùi Trinh và Tô Trung Thành (2015) còn đưa ra kết quả là việc phá giá VND còn có thể dẫn đến tăng trưởng kinh tế giảm do giá đầu vào nhập khẩu gia tăng.

Tớ bình luận: Ngưu tầm ngưu!

NDD viết: Như vậy, nếu các kết quả nghiên cứu trên đáng tin cậy, chính sách tỷ giá của Việt Nam không nên theo đuổi mục tiêu kích thích xuất khẩu bằng mọi giá. Thay vào đó, chính sách tỷ giá của Việt Nam nên đề cao mục tiêu ổn định với tốc độ mất giá của VND so với USD không quá 3%/năm tùy thuộc vào bối cảnh. Chính sách này sẽ có lợi cho việc ổn định tiền tệ, giảm lãi suất để kích thích tăng trưởng hiệu quả hơn.

Tớ bình luận: Sorry là tớ đã trót nói câu “ngưu tầm ngưu” vì tớ đã chưa đọc đến câu này: “Như vậy, nếu các kết quả nghiên cứu trên đáng tin cậy”! Đúng rồi, vấn đề là có đáng tin cậy hay không, và nếu chưa có cơ sở để nói là đáng tin cậy (mà chắc là thế, vì cứ suy từ nghiên cứu này của bản thân NDD ra là biết) thì chớ có kết luận blah blah như đúng rồi ở trong bài này nhé, NDD à!

NDD viết: Tuy nhiên, để giảm lãi suất, NHNN cần phải sẵn sàng bán USD can thiệp trên thị trường ngoại hối trong trường hợp có biến động lớn. Vấn đề là tương quan về nguồn lực giữa NHNN và thị trường thế nào. Điều này, đến lượt nó lại phụ thuộc vào lượng dự trũ ngoại hối quốc gia hiện nay lớn hay nhỏ, các biến động trên thị trường quốc tế mạnh hay nhẹ, kỳ vọng của thị trường nhiều hay ít. Nhưng có một yếu tố đóng vai trò rất quan trọng trong việc ổn định tỷ giá, đó là các cam kết của NHNN đáng tin cậy đến mức nào.

Tớ bình luận: Tớ chịu, chẳng hiểu tại sao lại như NDD nói. Nếu NHNN bán USD can thiệp, cái mà nó thu về là VND (chứ chẳng nhẽ lại cho không?). Vậy VND nếu nằm ở trong két của NHNN thì tức là cung tiền giảm đi, và do đó lãi suất phải tăng lên chứ, sao lại có thể giảm đi được? Fed muốn giảm lãi suất để kích thích tăng trưởng ở Mỹ thì nó phải bơm USD ra chứ có phải là làm ngược lại đâu nhỉ?

NDD viết: Tài liệu tham khảo:

1. Phạm Thế Anh (2015). “Hiệu ứng chuyển và chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam”. Tài liệu tọa đàm “Tác động của tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam hiện nay”;

2. Nguyễn Đức Độ (2014). “Phá giá đồng Việt Nam: Bao nhiêu thì đủ?“ Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế. Số 9/2014. Tr. 3-10;

3. Nguyễn Đức Độ (2015). “Đồng USD mạnh và những tác động đến xuất khẩu của Việt Nam”. Tạp chí Tài chính. Số 5/2015 (kỳ 1). Tr. 50-52;

4. Bùi Trinh, Tô Trung Thành (2015). “Một số ý kiến về việc phá giá NDT”. Tài liệu tọa đàm “Tác động của tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam hiện nay”.

 Tớ bình luận: Đọc mớ tài liệu tham khảo trên của NDD cũng phần nào biết được mức độ đáng tin của những nghiên cứu của NDD và các cộng sự trích dẫn bên trên là như thế nào rồi!
Tóm lại, Yếu kém toàn diện, Khập khiễng, Chẳng cái nào ăn nhập với cái nào v.v... là một số từ có thể dùng để nhận xét về nghiên cứu này của NDD mà không thấy có rủi ro vì nói quá lời!

Saturday 12 September 2015

Sống chung với tín dụng đen (bài đăng trên Đại biểu Nhân dân, 12/9/2015, tiêu đề do báo đặt lại)

http://www.daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=358081


“Tín dụng đen” thực chất là việc cho vay cá nhân hoặc tổ chức không tuân thủ những quy định và khuôn khổ pháp luật hiện hành, nằm ngoài hệ thống ngân hàng chính thống (tạm gọi là cho vay ngoài lề pháp luật) với lãi suất cho vay ở mức cao hoặc rất cao so với lãi suất cho vay của hệ thống ngân hàng hoặc của Chính phủ quy định.

Trong khi nghề cho vay có lẽ là một trong những nghề xưa cũ nhất của thế giới, xuất hiện trước cả khi đồng tiền quốc gia chính thức ra đời thì nghề cho vay với lãi suất rất cao (cho vay nặng lãi hoặc tín dụng đen) có lẽ chỉ xuất hiện khi hệ thống ngân hàng thương mại chính thống ra đời, hoạt động dưới sự kiểm soát, giám sát của cơ quan chức năng Nhà nước. Chỉ có thông qua hệ thống ngân hàng hoặc cơ quan chức năng thì người ta mới có một mức lãi suất tham chiếu chính thống để so sánh với lãi suất của các khoản cho vay ngoài lề pháp luật. Nếu lãi suất cho vay ngoài lề pháp luật cao hơn mức tham chiếu này (ở mức độ nào đó) thì lúc ấy mới có đủ cơ sở gọi những khoản này là tín dụng đen.

Nhưng câu hỏi liên quan là tại sao đã có hệ thống ngân hàng thương mại rồi mà tín dụng đen vẫn tồn tại và có đất sống? Có thể nói luôn rằng tín dụng đen là một thực tế khách quan tồn tại trong mọi hình thái xã hội, mọi giai đoạn. Đơn giản, vì nó phục vụ và đáp ứng nhu cầu vay tiền của một bộ phận dân chúng không có khả năng tiếp cận tín dụng chính thống từ hệ thống ngân hàng - vốn đòi hỏi phải chứng minh thu nhập hay dự án kinh doanh hoặc phải có lịch sử tín dụng sạch sẽ và tài sản thế chấp mới được vay tiền.
Không cần nói đến trường hợp của các nước đang phát triển, nơi có hệ thống pháp luật yếu và sự kiểm soát lỏng lẻo của các cơ quan chức năng, ngay ở các nước phát triển như Singapore - nơi người dân và các tổ chức xã hội không thể “đùa” với pháp luật thì tín dụng đen vẫn tồn tại ngay trước mắt cơ quan công quyền. Ở các khu dân cư, cảnh sát còn phải dán các bảng cảnh báo bằng cả hình lẫn chữ kêu gọi người dân không nên vay tiền từ những kẻ cho vay nặng lãi. Thỉnh thoảng, báo đài vẫn đưa những tin tức về cách hành xử giang hồ, tạo áp lực thúc giục con nợ trả tiền của những kẻ cho vay này nhưng thế giới cho vay ngầm vẫn thản nhiên hoạt động. Điều đó đủ để thấy rằng, việc dẹp bỏ tín dụng đen về nguyên tắc là không thể. Pháp luật và chính quyền dù có mạnh tay đến mấy, đất nước có giàu và phát triển đến mấy nhưng trong xã hội vẫn có những người dân vì lý do nào đó cần đến tiền mà không thể vay được từ hệ thống ngân hàng thì tín dụng đen vẫn có đất để sinh tồn.

Tín dụng đen là xấu trên cái nghĩa là mức lãi suất cao, thậm chí ở mức cắt cổ, dồn nhiều con nợ vào đường cùng, không có khả năng chi trả dẫn đến nhiều bi kịch cho con nợ cũng như những hành động phạm luật của chủ nợ. Nhưng nói như thế không có nghĩa là Nhà nước cần phải tìm cách dẹp bỏ hoàn toàn tín dụng đen. Việc này không những là duy ý chí, không thể thực hiện được như đã nói ở trên mà còn tước đi cơ hội thỏa mãn tài chính cho những người không thể tiếp cận được vốn vay ngân hàng. Cần nói thêm, nhu cầu này là hoàn toàn chính đáng, không vi phạm bất cứ luật lệ nào và Nhà nước cũng không có bất cứ cơ sở nào để hạn chế hay loại bỏ nhu cầu này.

Thay vào đó, điều Nhà nước và pháp luật có thể làm với tín dụng đen là hạn chế những hành vi phạm pháp liên quan đến tín dụng đen. Trong khi việc tự thỏa thuận giữa con nợ và chủ nợ về lãi suất, số tiền và thời hạn của khoản vay có thể được coi là những thỏa thuận dân sự thông thường, Nhà nước cần kiên quyết xử lý theo đúng các điều khoản pháp luật những hành động phạm pháp như đe dọa, bức hại con nợ. Nếu pháp luật hiện hành chưa có những điều khoản quy định cho những tội danh như vậy thì cần sớm bổ sung. Đồng thời, cần tăng cường tuyên truyền cho người dân hiểu thêm về những nguy cơ và rủi ro để giúp họ chủ động không vướng vào vòng tín dụng đen. Ngoài ra, có thể xem xét thành lập những tổ chức phi Chính phủ đóng vai trò tư vấn về tài chính cho những người dân có nhu cầu, giúp họ tìm được cách thức tối ưu trước khi phải tìm đến tín dụng đen và khi có những tranh chấp phát sinh giữa con nợ và chủ nợ, các tổ chức này sẽ làm cầu nối hòa giải, giúp 2 bên tìm ra  một giải pháp phù hợp nhất.

Trả lời tiếp về tỷ giá

Đồng chí em hôm trước quay lại với thêm nhiều chất vấn mới. Tớ lại tách ra thành từng ý/đoạn và trả lời như dưới đây.


-------------------------------
Hỏi: Xét tương quan với các đồng tiền trong khu vực, kể từ đầu năm 2014 đến hiện tại, đô la Sing đã mất giá 12% so với USD, đông Thái Lan mất giá 10%, đồng Indonesia mất giá 17%, đồng Malay mất 28%, đông Yên mất 15%. Trong khi VND mất giá khoảng 6% thì nếu tiếp tục điều chỉnh thì mức điều chỉnh bao nhiu được coi là "theo thị trường".

Trả lời: Cũng có một vài người hỏi tớ liệu VND còn bị phá giá nữa không, tớ nói là cứ yên tâm, thế nào cũng bị phá thêm, sớm thì trong tháng này, không thì tháng 10 và cuối năm (nếu giỏi). Mức ít nhất 2, 3% nữa.


Hỏi: Sau điều chỉnh, nếu  NHNN không bán USD và không có nghĩa vụ cũng như không có lực bán để tránh sốc thị trường thì điều gì sẽ xảy ra nếu tiền VND rơi tự do.
Trả lời: Thực ra lo sợ này là có lý nhưng không nhất thiết xảy ra. VND từng bị phá giá một phát tới hơn 9% mà cũng không bị rơi tự do sau đó. Lý do là VN không nằm trong trạng thái bên bờ khủng hoảng, có capital control chặt chẽ, và thị trường đã chờ đợi sự điều chỉnh nữa nên không có gì là sốc cả. Trường hợp xấu nhất và VND rơi tự do thì chẳng qua nó là hậu quả của việc cố níu kéo nó lâu quá, lên giá thực quá cao, và bây giờ NHNN không còn đủ sức can thiệp, phai buông ra thì cũng là cái giá phải trả. Đằng nào thì NHNN cũng đã và sẽ thất bại nếu cố cưỡng lại thị trường.


Hỏi: Trong bộ ba bất khả thi, khi đã buông được tỷ giá, mở cửa thị trương vốn, thì VN hoàn toàn tự chủ chính sách tiền tệ, nhưng đó là chuyện Việt Nam muốn làm chứ chưa làm được khi capital control ở VN vào thì "dễ" ra thì khó, chính sách tiền tệ không tự chủ được khi chịu hai tầng áp bức của Chính phủ và Quốc hội.


Trả lời: VN hiện đang cố gắng ôm cả 3 đỉnh của tam giác. Nếu buông tỷ giá thì sẽ ôm chặt (hơn) được lãi suất và kiểm soát vốn, capital control, đó là điều chắc chắn, dù cái gì ở VN mà không bị can thiệp?


Hỏi: Vậy khi "buông" tỷ giá, dòng vốn ngoại chảy ra khỏi VN càng mạnh, không có cung, vậy VND rơi tự do, gây bất ổn vĩ mô ? (trong tháng 5 và tháng 8 sau khi điều chỉnh tỷ giá, lượng USD gửi tiết kiệm ngan hàng tăng vọt so với các tháng khác, dòng vốn ngoại thoát khỏi th ị trường cổ phiếu và trái phiếu chính phủ lớn, doanh nghiệp mua ngoại tệ cắt lỗ trước hạn khoản vay và thanh toán trước các hợp đồng kinh tế tăng đột biến)


Trả lời: Vì có capital control chặt chẽ nên dù buông tỷ giá thì dòng vốn chảy ra VN cũng không dễ mà thực hiện. Em cũng đã nói là "vào dễ ra khó" đấy thôi? Vì vậy, lặp lại là khả năng VND rơi tự do là khó xảy ra.

Lượng tiết kiệm USD trong ngân hang tăng vọt thì không phải là điều gì xấu cả! Vì nó chỉ thể hiện một xu hướng chuyển đổi tài sản từ nội tệ sang ngoại tệ để phòng ngừa rủi ro (phá giá hơn). Nhưng lượng USD tăng lên này chứng tỏ dòng vốn USD chảy ra khỏi VN đã không xảy ra hoặc xảy ra ở mức độ không đáng ngại. Tương tự như vậy, dòng vốn ngoại thoát khỏi thị trường cổ phiếu nhưng không có nghĩa là nó chảy ngược ra nước ngoài ngay tức khắc. Phải chứng minh được là sau khi rút vốn khỏi chứng khoán, các nhà đầu tư nước ngoài chuyển hết tài sản ra nước ngoài (không mua cái gì ở VN nữa) thì lúc đó mới đáng lo.

Doanh nghiệp mua ngoại tệ cắt lỗ v.v... là điều hoàn toàn có thể xảy ra. Nhưng điều này cũng không phải là điềm xấu. Vì đi vay 100 USD từ nước ngoài, giờ có mua lại (mua sớm) 100 USD để trả nước ngoài thì rốt cuộc tổng lượng ngoại hối trong nước cũng không suy giảm so với trước. Chỉ khi nào chứng minh thêm được rằng doanh nghiệp không những chỉ mua và trả nợ 100 USD trước hạn, mà còn mua hơn thê và chuyển ra nước ngoài hơn thế thì mới chứng tỏ là có chảy máu ngoại tệ (capital flight). Nhưng hỏi thêm là chuyển ra hơn 100 USD để làm gì? Nếu là để đầu cơ (vay VND mua USD rồi bán thu nhiều hơn VND) thì việc gì phải chuyển ra nước ngoài?


Hỏi: theo em, bây giờ chỉ cần phá giá thêm,bao nhiu đi chăng nữa, thị trường đều hoảng loạn, niềm tin vào tiền VND hiện nếu đo được thì nó chắc là âm ^^

Thực tế hiện tại: tỷ giá giao dịch liên ngân hàng liên tục xoay quanh mốc 22.475 (mức công bố bán ra của NHNN), chỉ cần giao dịch tăng 5 điểm lên mức 22.480, số lượng đơn nộp xin NHNN bán UsD can thiệp lên đến hàng trăm triệu (trung bình 1 ngày 100 triệu USD kể từ đầu tháng 9/2015)


Trả lời: Cố gắng không phá để rồi phải buông như vừa qua thì còn tệ hại hơn. Đó là cái lý luôn phải nhớ và thuộc nằm lòng để mà hành động cho khôn ngoan hơn.


Hỏi: Nếu ở vai trò Thống đốc NHNN, anh sẽ làm gì khi chính phủ yêu cầu không phá giá để ổn định vĩ mô, quốc hội yêu cầu giữ vững các mục tiêu tăng trưởng GDP...

Cho em xin quan điểm của anh (hoặc giải pháp đề xuất của anh) khi phải phá giá VND linh hoạt theo thị trường.

Trả lời: Tớ sẽ không ngu dại thêm mà tuyên bố sẽ không phá giá nữa, không có lý do gì để phá giá thêm, và phá như vừa rồi là quá đủ cho đến cả đầu năm sau. Thay vào đó, tớ sẽ nói là sẽ điều chỉnh linh hoạt tỷ giá theo diễn biến của thị trường trong và ngoài nước, theo mục tiêu ổn định vĩ mô.

Tớ sẽ phá (chủ động để VND yếu đi) thêm ít nhất 2, 3% trong năm nay, cho dù Mỹ và TQ không làm gì cả. Nếu bọn này làm gì thêm thì tớ buộc phải phá  VND thêm theo cho phù hợp.

Về ổn định vĩ mô, NHNN vẫn đang có vẻ là thành công đấy thôi, vì lạm phát đang ở mức thấp, hơn cả mục tiêu yêu cầu. Ai nói là ổn định vĩ mô là phải có tỷ giá ổn định là ngu, chẳng hiểu gì về kinh tế. Còn tăng trưởng GDP thì càng không phải lo vì đang tăng ở mức khả quan (theo đúng thống kê chính thức), và thậm chí còn tăng mạnh hơn khi nút thắt tỷ giá được giải tỏa.


Hỏi: P/s: sẵn đây em hỏi thêm một tí là em có tham khảo phương pháp tính tỷ giá REER và NEER để tìm giá trị thực của VND nhưng việc tính toán khá phức tạp và dữ liệu tính toán khá nhìu. Theo anh, hiện 1 USD đổi được bao nhiu VND hiện tại là hợp lý ?

Trả lời: Tớ chưa bao giờ thử ngồi tính 2 cái này, nhưng cho rằng cái khó là kiếm cho đủ số liệu có chất lượng (và chọn thời điểm phù hợp để tính) chứ không phải là khó về bản thân việc tính toán (làm thủ công trên excel là đủ, hoặc nếu "lười" thì viết một đoạn ngắn program trên phần mềm kinh tế lượng nào đó).

Như nói ở trên, VND phải bị mất thêm ít nhất 2, 3% nữa ngay bây giờ mới là hợp lý.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).