Friday 30 October 2015

Mua ngân hàng 0 đồng - đâu chỉ chuyện câu chữ (Bài đăng trên TBKTSG, 30/10/2015)

http://www.thesaigontimes.vn/137670/Mua-ngan-hang-0-dong---dau-chi-chuyen-cau-chu.html


Thêm một lần nữa đại diện Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và một số chuyên gia, quan chức khác lên tiếng khẳng định, việc mua lại các ngân hàng 0 đồng chỉ đơn thuần là quan hệ mua bán chứ không phải là quốc hữu hóa các ngân hàng này.
Thêm nữa, quan hệ mua bán này được nhấn mạnh ở chỗ là NHNN chỉ mua cổ phiếu của các ngân hàng này (mua theo giá thị trường được xác định ở mức 0 đồng), chứ không phải là mua (bản thân) các ngân hàng này.


Xem ra vấn đề này không phải chỉ là chuyện câu chữ, mặc dù về nguyên nhân và bản chất thì đã rõ!
 
Về nguyên nhân, với vai trò là người “cầm trịch”, bảo đảm sự an toàn cho hệ thống ngân hàng, được giao trách nhiệm cũng như quyền lực trong các quy định pháp luật, việc NHNN quyết định mua lại một số ngân hàng với giá 0 đồng như vừa qua hoàn toàn có thể được coi là cần thiết và hợp pháp.
 
Về bản chất, trên danh nghĩa NHNN đúng là chỉ mua lại (bắt buộc toàn bộ) cổ phiếu của các ngân hàng 0 đồng này, chứ không phải mua lại các ngân hàng đó, và mua với giá là 0 đồng. Nhưng bằng việc mua lại này, NHNN đã chính thức thế chân toàn bộ cổ đông hiện hữu của các ngân hàng này, dù là cổ đông lớn hay nhỏ, tổ chức hay cá nhân, để trở thành chủ sở hữu duy nhất của chúng, với tên gọi chính thức là ngân hàng thương mại trách nhiệm hữu hạn một thành viên (XYZ), do Nhà nước làm chủ sở hữu.
 
Do đó, việc chuyển đổi hình thức sở hữu ở các ngân hàng này từ sở hữu tư nhân (cổ phần) sang thuộc sở hữu hoàn toàn của Nhà nước với đại diện là NHNN thì về bản chất chính là, phải được gọi là quốc hữu hóa - biến một tài sản nào đó thuộc sở hữu phi nhà nước thành sở hữu nhà nước (bằng những phương pháp như trưng thu, tịch thu, mua lại), cho dù tài sản này có thể không còn giá trị gì.
Việc chuyển đổi hình thức sở hữu ở các ngân hàng từ tư nhân (cổ phần) sang thuộc sở hữu hoàn toàn của Nhà nước, về bản chất, phải được gọi là quốc hữu hóa, cho dù tài sản này có thể không còn giá trị gì.
 
Tương tự, việc mua lại toàn bộ cổ phiếu của các ngân hàng này để thành chủ sở hữu duy nhất của chúng thì thực chất cũng là mua lại bản thân các ngân hàng này, và việc này về bản chất cũng giống như việc một nhà đầu tư đứng ra thâu tóm toàn bộ cổ phiếu của một công ty nào đó, và người này sẽ được coi là đã mua lại chính công ty đó (và mọi thứ liên quan đến nó như các quyền lợi và nghĩa vụ).


Vậy thì có lý do nào để các cơ quan chức năng e ngại không muốn nhìn nhận đúng bản chất của sự việc mua lại ngân hàng 0 đồng này?
 
Lý do đầu tiên có thể nghĩ đến là khái niệm quốc hữu hóa thường gắn liền với chuyện tổn thất cho ngân sách nhà nước. Khi quốc hữu hóa một công ty nào đó đang ăn nên làm ra thì đương nhiên chẳng người nộp thuế nào phàn nàn, nếu như phí tổn bỏ ra là thấp hơn những gì mà công ty này sẽ mang lại cho ngân sách. Tất nhiên là chuyện “không dưng” đi quốc hữu hóa những công ty tốt này là thuộc một chủ đề khác.
 

Nhưng ngược lại, nếu các công ty bị quốc hữu hóa hoạt động yếu kém, thua lỗ, gây ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế nói chung và khi bị Nhà nước mua lại để biến thành sở hữu nhà nước thì Nhà nước sẽ phải dùng ngân sách để xử lý các nghĩa vụ nợ nần, dùng ngân sách để rót vốn cho chúng hoạt động và lành mạnh trở lại...
 
Nói cách khác, cho dù trong trường hợp NHNN mua lại (cổ phiếu của) các ngân hàng 0 đồng với giá 0 đồng thì NHNN vẫn có thể phải tiêu tốn một số tiền nào đó để vực các ngân hàng này hoạt động lành mạnh trở lại để có thể bán đi thu hồi vốn.
 
Lấy ví dụ trường hợp của Ngân hàng Xây dựng (VNCB), NHNN cho biết họ sẽ “đưa ra 40.000 tỉ đồng để đưa VNCB trở lại hoạt động bình thường”. Vấn đề đáng nói còn lại ở đây chỉ là về nguồn gốc của số tiền này. Cho dù nó không được coi là tiền từ ngân sách thì ít nhiều nó cũng dính dáng đến ngân sách ở một khía cạnh nào đó, đơn giản vì là tiền do NHNN “đưa ra”! Minh bạch hóa nguồn gốc, mục đích sử dụng, khả năng thu hồi vốn, mức độ tác động thế nào đến ổn định vĩ mô của nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng... không phải là một trách nhiệm dễ chịu và dễ thực hiện với các cơ quan chức năng khi phải sử dụng đến vốn (liên quan đến) ngân sách.
 
Lý do thứ hai dẫn đến chuyện không muốn thừa nhận việc mua lại là quốc hữu hóa có thể xuất phát từ e ngại rằng sẽ tạo ra hình ảnh nhà nước can thiệp quá sâu rộng và mạnh vào các hoạt động kinh tế trong nước. Trên hết, trong bối cảnh Việt Nam đã tham gia TPP, nếu thừa nhận quốc hữu hóa một số ngân hàng thương mại thì Việt Nam sẽ phải đối mặt với một số rủi ro.
 
Theo nguyên tắc chính phủ không được ưu đãi riêng cho các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong khuôn khổ của TPP, có thể thấy Việt Nam sẽ không được phép phân biệt đối xử giữa các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước (SOCB) với các ngân hàng tư nhân và nước ngoài khác, vì các SOCB về bản chất là các DNNN. Nếu Chính phủ Việt Nam có những hành động phân biệt đối xử nào đó giữa các SOCB với các ngân hàng tư nhân và nước ngoài khác thì những ngân hàng này có quyền kiện Chính phủ Việt Nam ra các tòa trọng tài quốc tế.


Điều đáng nói là ngoài những SOCB truyền thống như Vietcombank, VietinBank, BIDV, và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện nay Việt Nam còn có thêm một vài ngân hàng có thể coi là SOCB mới, chính là những ngân hàng bị NHNN mua lại với giá 0 đồng như VNCB. Vì các SOCB mới này vẫn đang trong quá trình được NHNN tái cơ cấu và vực dậy bên bờ vực phá sản nên đều đòi hỏi NHNN phải rót thêm vốn, tạo thêm cơ chế, trao thêm nhiều cơ hội kinh doanh để chúng mau bình phục, lớn mạnh trở lại.
 
Tất cả những đối xử khác biệt này là cơ sở để các ngân hàng khác, nhất là ngân hàng nước ngoài khởi kiện. Khả năng này sẽ buộc NHNN phải thay đổi cách thức tiếp cận và phương pháp thực hiện tái cơ cấu hệ thống ngân hàng trong tương lai gần, kể cả phải sửa đổi lại những quy định luật pháp có liên quan đến tái cơ cấu và xử lý ngân hàng yếu kém như Quyết định 48/2013/QĐ-TTg.

Monday 26 October 2015

Quản lý sử dụng vốn, tài sản tại DNNN: vẫn chưa có giải pháp căn bản (Bài đăng trên TBKTSG, 26/10/2015)

http://www.thesaigontimes.vn/137338/Quan-ly-su-dung-von-tai-san-tai-DNNN-van-chua-co-giai-phap-can-ban.html


Trên cơ sở Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 91/2015/NĐ-CP về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý, sử dụng vốn, tài sản tại  DNNN hoặc doanh nghiệp có vốn của Nhà nước. Đã có hy vọng rằng tình hình quản lý sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp sẽ được cải thiện mạnh, tránh được tình trạng thua lỗ, mất vốn... Vấn đề có lẽ không đơn giản, một chiều như vậy.


Luật chỉ có ý nghĩa trên giấy tờ


Nhìn chung, điểm yếu cố hữu của các DNNN là hoạt động không hiệu quả (thua lỗ, mất vốn, nợ nần lớn...) và nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do “đồng tiền không đi liền với khúc ruột”, tức là người trên danh nghĩa là chủ sở hữu (toàn dân) của DNNN trên thực tế lại không có quyền gì để biết điều gì đang xảy ra với DNNN, không có quyền lựa chọn, bổ nhiệm và miễn nhiệm ban quản lý DNNN. Những công việc này được người đại diện cho toàn dân là Nhà nước, cụ thể hơn, là các cơ quan chủ quản của DNNN đảm nhiệm. Nhưng bản thân những người đại diện toàn dân này cũng chỉ là người đại diện trên danh nghĩa, không có quyền lợi gắn chặt với hoạt động của DNNN nên các DNNN hoạt động có yếu kém đến đâu thì cũng không mấy ảnh hưởng đến vị trí và quyền lợi của họ, và cũng vì vậy mà họ sẽ không vật vã ngày đêm tìm cách vực dậy các DNNN yếu kém đó như với trường hợp của các ông chủ tư nhân.


Giải pháp căn bản là phải gắn chặt được trách nhiệm và quyền lợi của người đại diện chủ sở hữu DNNN với tình hình hoạt động của DNNN như trong mối quan hệ chặt chẽ giữa cổ đông với doanh nghiệp cổ phần và ban lãnh đạo của nó.
Trước áp lực ngày càng tăng của người dân - người chủ thực sự nhưng yếu thế của các DNNN, Nhà nước đã phải ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật theo hướng siết chặt trách nhiệm của các cơ quan hữu quan cũng như sự tự tung tự tác của cán bộ quản lý DNNN để giảm thiểu khả năng sử dụng không hiệu quả, làm thất thoát vốn nhà nước tại các DNNN này.
 
Nghị định 91 nhấn mạnh rằng DNNN tự chịu rủi ro và trách nhiệm trước pháp luật về vay, sử dụng và trả nợ vốn vay. Nhà nước không chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ do DNNN trực tiếp vay, trừ các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh. Điều này là cần thiết để tránh gặp lại những “quả đắng” như Vinashin khi Nhà nước phải đứng ra trả nợ thay doanh nghiệp này, kể cả những khoản vay nợ không có bảo lãnh. Tuy nhiên, trên thực tế, điều này không dễ thực hiện. Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khi nói về lý do tại sao không để Vinashin phá sản đã phải thừa nhận rằng Vinashin là tập đoàn 100% vốn Nhà nước, nếu cho phá sản thì Nhà nước cũng phải trả nợ thay cho Vinashin, vừa mất tiền, mất uy tín, chỉ số tín nhiệm thấp và đặc biệt là hàng ngàn gia đình không ổn định cuộc sống (Phó thủ tướng trả lời chất vấn của Quốc hội hồi tháng 6-2013). Tương tự như vậy, với các DNNN khác khi gặp khó khăn, trên bờ vực phá sản, chắc chắn Nhà nước sẽ phải rất đắn đo khi quyết định không trả nợ thay cho họ, dù đã có quy định rõ ràng như vậy.
 
Và mang tính trói buộc, triệt tiêu động lực
 
Cũng trong chuyện huy động vốn của DNNN, Nghị định 91 quy định tổng mức huy động vốn để phục vụ sản xuất kinh doanh của DNNN không được vượt quá ba lần vốn chủ sở hữu. Quy định này nhằm tránh tình trạng thường xảy ra trên thực tế với nhiều DNNN: vay nợ dễ dãi để đầu tư tràn lan vào nhiều thứ không rõ hiệu quả để rồi nợ nần đầm đìa, mất khả năng chi trả. Tuy có lý và có cơ sở, nhưng quy định này nhiều khi lại là một trói buộc cứng nhắc và thái quá với nhiều DNNN gặp những cơ hội mới trên thị trường cần phải mở rộng sản xuất, kinh doanh hoặc đang phải đối mặt với những biến động bất lợi của thị trường cần phải vay vốn để tiếp tục cầm cự, và/hoặc theo đuổi những dự án đầu tư (dở dang)...
 
Rất nhiều doanh nghiệp tư nhân, cổ phần lớn trên thế giới, kể cả những doanh nghiệp có tiếng tăm, uy tín vẫn có những thời kỳ rơi vào tình trạng nợ nần lớn, thậm chí lên đến hàng chục lần vốn chủ sở hữu. Thế nhưng, vẫn có nhiều ngân hàng sẵn sàng tiếp tục cho họ vay, đơn giản vì họ nhìn thấy tương lai của doanh nghiệp và ngành nghề đó, cũng như tin vào khả năng chèo chống của ban lãnh đạo doanh nghiệp. Với DNNN ở Việt Nam cũng vậy, không phải luôn luôn và lúc nào họ cũng là những doanh nghiệp không hiệu quả, nên nếu cứ áp dụng cùng một khuôn như những DNNN có vấn đề khác thì chỉ làm giảm thiểu cơ hội phục hồi, tăng trưởng của họ.


Về phân phối lợi nhuận, Nghị định 91 quy định chặt chẽ các mức phân chia lợi nhuận, trong đó có quỹ khen thưởng người quản lý doanh nghiệp và kiểm soát viên - tối đa bằng 1,5 tháng lương. Đương nhiên là quy định này cũng để hạn chế tình trạng lãnh đạo DNNN tự thưởng cho mình quá cao. Nhưng ngược lại, nếu quy định “mức trần” cứng nhắc như vậy, không gắn chặt kết quả tăng trưởng lợi nhuận của doanh nghiệp với quyền lợi vật chất của ban lãnh đạo, thì sẽ làm triệt tiêu động lực làm việc của họ hướng đến tăng trưởng và lợi nhuận cao hơn. Nhìn rộng ra, với việc cả lương và thưởng cho người quản lý DNNN đều bị ấn định mức trần, dẫn đến tổng thu nhập của họ trong những trường hợp tốt nhất đều có xu hướng thấp xa so với các vị trí tương đương ở khối doanh nghiệp phi nhà nước, thì hoặc là khó có thể mong chờ viễn cảnh các DNNN sẽ tốt đẹp hơn, hoặc là phải thừa nhận và chấp nhận một thực tế rằng người quản lý trong DNNN không phải sống bằng lương và thưởng mà bằng những khoản thu nhập ngầm lớn hơn thế nhiều, có nguồn gốc chủ yếu từ “rút ruột” chính các DNNN đó.
 
Giải pháp nào?
 
Giải pháp chắc chắn không phải là xóa bỏ toàn bộ DNNN vì ít nhiều thì DNNN vẫn có một vai trò nhất định trong xã hội (nhưng cần giảm thiểu khu vực này). Cũng không phải là tăng cường sửa đổi các luật lệ hiện tại hoặc ban hành các luật lệ mới vì, như đã phân tích, điều đó chỉ làm tăng thêm sự chồng chéo, phức tạp, không minh bạch, trói buộc bất hợp lý, giảm khả năng thực thi...
 
Giải pháp căn bản là phải gắn chặt được trách nhiệm và quyền lợi của người đại diện chủ sở hữu DNNN với tình hình hoạt động của DNNN như trong mối quan hệ chặt chẽ giữa cổ đông với doanh nghiệp cổ phần và ban lãnh đạo của nó. Tìm ra ai là người thích hợp để làm đại diện chủ sở hữu DNNN (rất có thể không phải là các bộ/cơ quan chủ quản) và làm thế nào để gắn kết chặt chẽ các đại diện này với DNNN, buộc họ đồng hành cùng DNNN theo hướng tiến bộ sẽ là những điều cần làm. Lúc đó, Nhà nước không phải loay hoay tìm cách vá víu các lỗ hổng pháp luật hay “quyết liệt” đốc thúc các bên liên quan để rồi kết quả chẳng bao giờ được như ý.

Friday 23 October 2015

TPP tác động thế nào đến hệ thống ngân hàng Việt Nam? (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân, 24/10/2015)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=360829

Việt Nam cùng với 11 nước chung biển Thái Bình Dương khác đã thỏa thuận hoàn tất đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đầu tháng này. Trong số những ngành nghề sẽ chịu tác động của TPP chắc chắn sẽ có ngành ngân hàng với những thách thức không hề nhỏ.
Trước tiên, khi TPP có hiệu lực, ngay lập tức Việt Nam sẽ không được phép phân biệt đối xử giữa các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước (SOCB) với các ngân hàng tư nhân và nước ngoài khác. Các SOCB về bản chất là các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), là đối tượng của nguyên tắc chính phủ không được ưu đãi riêng cho các DNNN trong khuôn khổ của TPP. Nếu chính phủ Việt Nam có những hành động phân biệt đối xử nào đó giữa các SOCB với các ngân hàng tư nhân và nước ngoài khác thì những ngân hàng này có quyền kiện chính phủ Việt Nam ra các tòa trọng tài quốc tế.
Những phân biệt đối xử này có thể ở dưới dạng như SOCB được đặc quyền nhận vốn giải ngân từ các tổ chức song phương và đa phương quốc tế trong các khoản vay của chính phủ, với lãi suất cực thấp. SOCB cũng có thể là nơi được chính phủ chỉ định để gửi các khoản thu ngân sách từ nhiều nguồn như thuế, phí, là nơi thực hiện các giao dịch trả lương cho công viên chức nhà nước với lãi suất thấp... Mặt khác, SOCB cũng thường là cánh tay nối dài của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) để thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ cũng như các dự án công cộng, dân sinh và xã hội, với nhiều quyền lợi đi kèm khi cung cấp những dịch vụ này. Ví dụ, nhờ được giao việc trả lương cho công viên chức nên các ngân hàng này được nhận thêm một cơ sở khách hàng mới mang đến nhiều dịch vụ tiềm năng như thẻ tín dụng, tín dụng tiêu dùng... Khi thực hiện các dự án xã hội, NHNN sẽ cấp vốn với lãi suất thấp để các SOCB cho vay lại các đối tượng của dự án với biên độ lãi được đảm bảo trong khi không mấy khi chịu rủi ro mất vốn vì thường nhà nước cũng phải xóa nợ cho nhiều đối tượng vay nợ trong các dự án thuộc loại này khi họ không trả nợ hoặc mất khả năng thanh toán.
Thứ hai, TPP có thể ảnh hưởng đến quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng ở Việt Nam. Ngoài những SOCB truyền thống như Vietcombank, Vietinbank, BIDV, và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện nay Việt Nam còn có thêm một vài ngân hàng có thể coi là SOCB mới, vốn là những ngân hàng bị NHNN mua lại với giá 0 đồng biến thành sở hữu nhà nước trong năm nay, như Ngân hàng Đại dương (OCB) và Ngân hàng Xây dựng (CB). Điều đáng nói với những SOCB mới này là chúng vẫn đang trong quá trình được NHNN tái cơ cấu và vực dậy bên bờ vực phá sản. Quá trình tái cơ cấu và phục hồi các ngân hàng này đòi hỏi NHNN phải rót thêm vốn, tạo thêm cơ chế, trao thêm nhiều cơ hội kinh doanh để chúng mau bình phục, lớn mạnh trở lại để NHNN bán đi thu hồi vốn. Tất cả những đối xử khác biệt này nếu bị bộc lộ với bằng chứng rõ ràng sẽ là điều kiện để các ngân hàng khác, nhất là ngân hàng nước ngoài khởi kiện, buộc NHNN phải thay đổi phương pháp thực hiện, dẫn đến khả năng quá trình tái cơ cấu ngân hàng sẽ bị đình trệ hoặc ảnh hưởng không theo ý đồ của NHNN.
Thứ ba, TPP cho phép các ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài (thành viên TPP) cung cấp dịch vụ ngân hàng tài chính cho các khách hàng ở trên lãnh thổ Việt Nam và điều chuyển nhân viên của mình đến các chi nhánh ở lãnh thổ Việt Nam trong một thời gian dài như bất cứ một ngân hàng nội địa nào khác. Những dịch vụ ngân hàng tài chính này bao gồm tư vấn đầu tư và dịch vụ quản lý quỹ đối với các quỹ như quỹ hưu trí, và dịch vụ bảo hiểm liên quan đến rủi ro trong vận tải thủy và hàng không dân dụng quốc tế. TPP cũng làm giảm gánh nặng quy chế lên các tổ chức, công ty nước ngoài tìm cách xuất khẩu các dịch vụ của họ. Ví dụ, TPP cho phép các tổ chức tài chính chuyển thông tin và dữ liệu vào và ra khỏi lãnh thổ để tiến hành xử lý với chi phí tối ưu nhất. Như thế, TPP sẽ làm gia tăng đáng kể mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính ngân hàng ở Việt Nam, tạo thêm áp lực lên doanh thu và lợi nhuận cho các ngân hàng và tổ chức tài chính nội địa. Nhưng ngược lại, trên cùng một mặt bằng bình đẳng, các ngân hàng và tổ chức tài chính Việt Nam cũng sẽ có thêm cơ hội để mở rộng hoạt động của mình ra các nước thành viên TPP, nắm bắt những cơ hội mà họ có lợi thế riêng để tiếp cận.
Cuối cùng, TPP cũng làm giới hạn đáng kể quyền lực của các cơ quan quản lý chức năng của Việt Nam như NHNN trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, dẫn đến rủi ro cao hơn cho những bất ổn trong hệ thống tài chính ngân hàng của Việt Nam. Cụ thể hơn, TPP không cho phép sự giới hạn quy mô của các tổ chức tài chính ngân hàng ở Việt Nam (là một nguyên tắc để bảo đảm không bị rơi vào tình trạng “quá lớn để cho phá sản”), cấm áp đặt các vách ngăn (về lĩnh vực hoạt động) giữa các loại hình tổ chức tài chính (ngân hàng, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm), không cho phép cấm các sản phẩm tài chính độc hại nào đó, và cấm áp dụng các biện pháp kiểm soát lưu chuyển vốn vào ra khỏi lãnh thổ Việt Nam vốn có tác dụng ngăn chặn các cuộc khủng hoảng tài chính.

Saturday 17 October 2015

Nghị định 87: giám sát DNNN vẫn còn nhiều vấn đề! (Bài đăng trên TBKTSG, 17/10/2015, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/137021/Nghi-dinh-87-giam-sat-DNNN-van-con-nhieu-van-de.html

Ngày 6/10, Chính phủ đã ban hành Nghị định (NĐ) 87/2015/NĐ-CP về giám sát đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp, giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả hiệu quả hoạt động và công khai thông tin tài chính của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và doanh nghiệp có vốn nhà nước. NĐ 87 có hiệu lực thi hành từ 1/12/2015 và thay thế NĐ 61/2013/NĐ-CP về việc ban hành quy chế giám sát tài chính và đánh giá hiệu quả hoạt động và công khai thông tin tài chính đối với doanh nghiệp do nhà nước làm chủ sở hữu và doanh nghiệp có vốn nhà nước.

Trong quá trình thực thi, NĐ 61 đã bộc lộ nhiều vướng mắc và hạn chế như: chỉ thực hiện giám sát đối với công ty mẹ của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty mà bỏ qua các công ty con; chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm của doanh nghiệp và cơ quan đại diện chủ sở hữu trong việc tổ chức giám sát; thời gian để các Tập đoàn hoàn thành Báo cáo giám sát còn ngắn so với thực tế của doanh nghiệp; các doanh nghiệp có thể hạ thấp kế hoạch năm để dễ hoàn thành hoặc hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch; tiêu chí xếp loại doanh nghiệp về tính tuân thủ pháp luật chưa phù hợp với thực tế; các chỉ tiêu, tiêu chí đánh giá, xếp loại phải quy định từ quý đầu tiên của năm kế hoạch là chưa phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; doanh nghiệp sẽ bị đặt vào tình trạng giám sát tài chính đặc biệt nếu tình hình tài chính thuộc chỉ một trong một số ít các trường và phải lập phương án tái cơ cấu dù thuộc trường hợp nào là chưa phù hợp với thực tế; chưa có cơ chế giám sát công tác công khai thông tin...

Dựa trên kết quả khảo sát của cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước và các tập đoàn, tổng công ty, NĐ 87 đã được soạn thảo và ban hành nhằm mục đích khắc phục những vướng mắc trên. Đồng thời, NĐ 87 còn có thêm một phạm vi điều chỉnh quan trọng là giám sát đầu tư vốn vào DNNN Như vậy, NĐ 87 về cơ bản là đầy đủ, chặt chẽ và cụ thể hơn nhiều NĐ 61 để có thể kỳ vọng rằng tình hình tài chính và sử dụng vốn đầu tư nhà nước cũng như tính hiệu quả trong hoạt động của các DNNN và doanh nghiệp có vốn nhà nước sẽ được công khai và giám sát chặt chẽ.

Tuy vậy, đó mới chỉ là trên lý thuyết. Thực tế cho thấy từ xây dựng các văn bản pháp luật đến thực thi chúng luôn có một khoảng cách lớn ở Việt Nam. Việc thực thi NĐ 61 là một trong những minh họa rõ nét cho điều này. Tuy NĐ 61đã yêu cầu công khai các thông tin và báo cáo cụ thể, nhưng tính đến ngày 31/8/2014, tức sau hơn một năm NĐ 61 được ban hành và có hiệu lực, nhiều doanh nghiệp vẫn chưa có Báo cáo giám sát tài chính và Báo cáo xếp loại doanh nghiệp, cũng như chưa công khai thông tin tài chính và quản trị doanh nghiệp trên website của họ. Dù vậy, và dẫu rằng NĐ 61cũng đã quy định khá cụ thể trách nhiệm của các bên liên đới (Mục 4: Chế độ khen thưởng kỷ luật), nhưng dường như chưa có (người đại diện) DNNN hoặc doanh nghiệp có vốn nhà nước nào bị xử lý vì đã không thực hiện tốt các yêu cầu của NĐ 61.

Do đó, tuy NĐ 87 là một bước phát triển hơn nếu so với NĐ 61 nhưng sẽ không có gì để đảm bảo rằng các doanh nghiệp, đặc biệt những doanh nghiệp đã vi phạm NĐ 61, sẽ không tiếp tục “chây ỳ” không thực hiện nghiêm chỉnh NĐ 87, mặc dù, cũng như NĐ 61, NĐ 87 cũng có hẳn một chương (Chương 4) quy định về khen thưởng và xử lý vi phạm. Phải chăng sẽ cần thêm một vài NĐ, văn bản pháp luật nào đó để xử lý những cơ quan, tập thể và cá nhân đã để xảy ra tình trạng chây ỳ, không thực hiện nghiêm chỉnh NĐ 87? Và rốt cuộc ai sẽ thực hiện những NĐ, văn bản đó?

Với nhiều quy định chi tiết, chặt chẽ, bao phủ phạm vi rộng lớn hơn, NĐ 87 tạo ra thêm nhiều nội dung công việc phải làm cho mọi chủ thể liên quan, dẫn đến sự phình to của bộ máy quản lý nhà nước chức năng từ Bộ Tài chính đến các cơ quan đại diện chủ sở hữu và ngay tại doanh nghiệp để thực hiện đầy đủ các quy định và yêu cầu của NĐ 87. Lấy ví dụ trong việc giám sát tài chính doanh nghiệp, cơ quan đại diện chủ sở hữu phải xây dựng hệ thống công nghệ thông tin để thu thập trực tiếp thông tin từ các doanh nghiệp. Về phía doanh nghiệp, phải thi hành thêm một loạt công việc như xây dựng quy trình quản lý phục vụ giám sát tài chính và đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tổ chức giám sát trong nội bộ doanh nghiệp, xây dựng hệ thống công nghệ thông tin hỗ trợ cho giám sát nội bộ, thuê dịch vụ tư vấn tài chính để xây dựng chỉ tiêu giám sát tài chính đặc thù (nếu có), thuê công ty kế toán, kiểm toán độc lập để soát xét lại số liệu của doanh nghiệp theo yêu cầu của cơ quan đại diện chủ sở hữu v.v... Khi số lượng quy trình với văn bản nhiều lên, nhiều công việc cần phải thực hiện hơn, bộ máy quản lý phình to ra với nhiều cấp ràng buộc lẫn nhau thì đương nhiên hậu quả sẽ là tính minh bạch, hữu hiệu giảm đi, đồng thời chi phí tăng lên. Đó là chưa kể càng nhiều quy định, nhiều việc phải làm thì sẽ càng có thêm khả năng các doanh nghiệp và cơ quan liên đới không thể đáp ứng được đúng yêu cầu, để rồi tình trạng như với NĐ 61 sẽ tái diễn.

Đi sâu hơn vào nội dung NĐ 87, có thể thấy vẫn còn nhiều vướng mắc và hạn chế khác. Ví dụ, trong việc giám sát đầu tư vốn nhà nước với các dự án đầu tư (trang 6), NĐ 87 chỉ xác định các nội dung giám sát gồm nguồn vốn huy động, tiến độ thực hiện dự án, tiến độ giải ngân vốn, mà không có những nội dung tối quan trọng như tính hiệu quả của dự án, vốn là nguồn gốc gây thất thoát lớn vốn nhà nước vì đã “chảy” vào những dự án vô bổ. Nếu nói rằng những nội dung đó là không cần thiết vì chúng thuộc trách nhiệm của cơ quan phê duyệt dự án thì những nội dung giám sát nêu trên có trong NĐ 87 cũng là thuộc trách nhiệm của cơ quan phê duyệt và thực thi dự án, nên nêu ra trong NĐ 87 chỉ làm phức tạp thêm vấn đề một cách không cần thiết.

NĐ 87 có nội dung giám sát tình hình huy động vốn và sử dụng vốn huy động, phát hành trái phiếu mà không thấy đề cập đến giám sát tính hiệu quả của nguồn vốn huy động cũng như sử dụng vốn huy động. Có thể hình dung bối cảnh ở đó những người có trách nhiệm ở doanh nghiệp hoặc các cơ quan liên đới vì động cơ vụ lợi nên sẵn sàng đi huy động vốn với chi phí cao hơn mặc dù mọi thứ đều “đúng quy trình” để không ai có thể bắt bẻ gì được.

Trong việc tổ chức giám sát tài chính doanh nghiệp, mặc dù cơ quan đại diện chủ sở hữu được quy định rõ phải cảnh báo kịp thời cho doanh nghiệp khi phát hiện tình hình tài chính doanh nghiệp có dấu hiệu rủi ro và có những biện pháp ngăn chặn, khắc phục các rủi ro, yếu kém, nhưng đồng thời NĐ 87 cũng quy định Bộ Tài chính có trách nhiệm cảnh báo doanh nghiệp có dấu hiệu mất an toàn tài chính, có trách nhiệm trả lời các kiến nghị, đề xuất của doanh nghiệp. Quy định này đã gây ra tình trạng chồng chéo về chức năng và nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước, gây rối thêm cho doanh nghiệp.

Tóm lại, tuy được thiết kế ra để giám sát chặt chẽ tình hình tài chính và sử dụng vốn đầu tư nhà nước cũng như tính hiệu quả trong hoạt động của các DNNN và doanh nghiệp có vốn nhà nước, nhưng NĐ 87 hay những NĐ sau này sửa đổi, bổ sung, thay thế nó vẫn đã và sẽ khó có thể khắc phục một cách hữu hiệu những điểm yếu cố hữu với các DNNN và doanh nghiệp có vốn nhà nước xuất phát từ tình trạng “cha chung không ai khóc”, mặc dù mọi thứ vẫn đã và sẽ “đúng quy trình”.

Friday 2 October 2015

Cần tăng cường quản lý tín dụng tiêu dùng (Bài đăng trên CafeF, 3/10/2015)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/can-tang-cuong-quan-ly-tin-dung-tieu-dung-20151003085930144.chn

Tín dụng tiêu dùng đang trên đà khởi sắc ở Việt Nam từ vài năm nay với một loạt yếu tố hỗ trợ tích cực.  Mặt bằng lãi suất đã giảm dần từ mức rất cao trong giai đoạn 2011-2013 xuống mức 6%-7% (lãi suất tiền gửi) như hiện nay. Vì vậy, tuy người tiêu dùng vẫn còn khá thận trọng với việc tăng chi tiêu nhưng họ cũng đã cởi mở với và sẵn sàng hơn trong việc đi vay để mua sắm tiêu dùng nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của mình và gia đình.
Mặt khác, lạm phát đã và đang trên đà giảm mạnh trong mấy năm qua, nhất là giá xăng dầu đã giảm mạnh bắt đầu từ năm trước trong khi tăng trưởng kinh tế và, do đó, thu nhập vẫn tiếp tục xu hướng được cải thiện nên người tiêu dùng đã trút bớt đi được gánh nặng chi phí cho cuộc sống vốn gia tăng mạnh trong giai đoạn lạm phát bùng phát 2011-2013. Chi phí và lo toan cho cái ăn cái mặc thường nhật giảm bớt đi sẽ giúp người tiêu dùng có thêm động lực mua sắm hàng hóa lâu bền và có giá trị cao. Ngoài ra, khi cuộc sống “dễ thở” hơn thì nhu cầu cải thiện điều kiện nơi ăn chốn ở đã được chú trọng hơn với nhiều người tiêu dùng. Bởi vậy, người tiêu dùng hiện nay cũng ngày càng quan tâm hơn đến vay trả góp để mua hay sửa chữa nhà cửa.

Về phía ngân hàng và công nghệ ngân hàng, công nghệ thanh toán, sự phổ cập thẻ tín dụng đã diễn ra với tốc độ nhanh chóng nhờ sự gia tăng mạnh của ngành bán lẻ qua sự phổ cập ngày càng sâu rộng của mạng Internet, nhờ ngày càng có nhiều điểm bán lẻ chấp nhận thanh toán thẻ tín dụng, và nhờ sự quảng bá, khuyến mại, khuyếch trương rộng rãi bởi các ngân hàng cho nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ nói chung và thẻ tín dụng nói riêng trong cộng đồng người tiêu dùng tiềm năng. Những yếu tố này đã cộng hưởng mạnh với nhu cầu mua sắm tiêu dùng cao hơn của người tiêu dùng để tạo ra một thị trường tín dụng tiêu dùng đầy tiềm năng tăng trưởng ở Việt Nam.
Tuy vậy, tín dụng tiêu dùng mới chỉ có lịch sử tương đối ngắn ở Việt Nam. Chẳng hạn, trong lĩnh vực thẻ tín dụng, thẻ tín dụng đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam vào năm 1990 do Ngân hàng Ngoại thương phát hành, trong khi đó thẻ tín dụng đã xuất hiện và trở nên phổ biến ở các nước phát triển, nhất là ở Bắc Mỹ từ đầu những năm 1950. Có lẽ một phần bởi lý do này nên ngoài những chính sách tạo điều kiện cho tín dụng tiêu dùng phát triển mạnh hơn, dường như mảng dịch vụ này vẫn chưa được các cơ quan quản lý nhà nước chú trọng đúng mức và có những biện pháp quản lý thích hợp như ở những nước phát triển để hạn chế rủi ro cho cả 2 bên, người tiêu dùng và ngân hàng cũng như các tổ chức tài chính, tín dụng cung cấp dịch vụ tín dụng tiêu dùng. Thậm chí gần đây giải pháp khuyến khích phát triển mạnh tín dụng tiêu dùng từ hệ thống tài chính ngân hàng còn được nhiều người đề xuất như là một giải pháp hữu hiệu để chống lại nạn tín dụng đen.

Lấy ví dụ trường hợp ở Singapore, Chính phủ nước này từ mấy năm gần đây đã từng bước siết chặt các quy chế và luật lệ về cho vay tiêu dùng không có bảo đảm, thế chấp. Nguyên nhân một phần vì họ lo ngại gánh nặng trả lãi và gốc của các khoản vay mua bất động sản ngày càng tăng lên vượt quá khả năng chi trả của người tiêu dùng. Để hạn chế rủi ro mất khả năng chi trả này, Chính phủ Singapore đặt ra các quy định như phải rà soát, xem xét tổng số nợ của các cá nhân và hộ gia đình cũng như hạn mức tín dụng cho họ trước khi phát hànhthẻ tín dụng hoặc cấp hạn mức tín dụng không có tài sản thế chấp, đảm bảo. Các quy định này cũng không cho phép người tiêu dùng với lịch sử mất khả năng thanh toán đúng hạn trong 2 tháng hoặc hơn cho các khoản vay nợ không có tài sản thế chấp được vay tiếp.
Đối chiếu điều này với Việt Nam có thể thấy việc quản lý dữ liệu tài chính cá nhân để khống chế hạn mức vay nợ không có tài sản thế chấp như thế này còn quá xa vời, ít nhất vì, ví dụ, cơ sở dữ liệu cá nhân thống nhất và tập trung cho hầu hết dân số trong độ tuổi trưởng thành chưa thể được xây dựng và cập nhật, làm cho các ngân hàng và tổ chức tài chính tín dụng không thể nắm chính xác lịch sử tín dụng như thế nào và các khoản vay nợ hiện tại của mỗi cá nhân ở Việt Nam là bao nhiêu, cho những mục đích gì v.v... Từ thực tế này, chắc chắn sẽ có nhiều vụ việc mất khả năng chi trả phát sinh cùng với đà mở rộng tín dụng tiêu dùng ở Việt Nam do khả năng chi trả của con nợ không được kiểm soát và đánh giá đầy đủ. Bởi vậy, việc xây dựng và cập nhật, quản lý một cơ sở thông tin tín dụng ngày càng bao phủ sâu rộng trên toàn lãnh thổ là điều bắt buộc song hành với việc đẩy mạnh tín dụng tiêu dùng ở Việt Nam.

Chính phủ Singapore cũng đặt ra những hạn mức gọi là Tỷ lệ tổng chi trả nợ và lãi vay (Total Debt Servicing Ratio, TDSR) so với tổng thu nhập cá nhân và hộ gia đình, nhằm hạn chế người tiêu dùng trong việc vay mua nhà quá mức, vượt quá khả năng chi trả định kỳ lãi và gốc các khoản vay mua nhà của họ. Tùy theo từng giai đoạn và phản ánh của người tiêu dùng mà Chính phủ Singapore có những sửa đổi về điều kiện của hạn mức này cho phù hợp. Ví dụ, năm 2013, Chính phủ ban hành quy định chỉ cho phép các tổ chức tài chính tín dụng cho vay một cá nhân nào đó ở mức tối đa là 60% tổng thu nhập trước thuế hàng tháng của người đó TRỪ ĐI nghĩa vụ trả nợ hàng tháng của người đó cho các khoản vay nợ hiện tại (nếu có) như dư nợ vay thẻ tín dụng, dư nợ vay học tập, mua ô tô, vay cá nhân, nợ các nhà bán lẻ dưới hình thức trả góp qua thẻ tín dụng... Đến năm 2014, Chính phủ Singapore nới lỏng các điều kiện về cho vay đảo nợ mua nhà vì một số người đã gặp khó khăn trong việc này theo các điều kiện quy định năm 2013.
Quy định trên cũng nên được áp dụng sớm ở Việt Nam vì trong nhiều trường hợp chỉ riêng nghĩa vụ trả lãi và nợ gốc vay mua nhà vượt quá nửa thu nhập của cả hộ gia đình, dẫn đến khả năng vỡ nợ cao nếu có bất cứ rủi ro nào trong thu nhập và việc làm của các thành viên gia đình.

Ngoài ra, Chính phủ Singapore còn có những quy định tưởng như “quá đáng” nhưng lại tỏ ra rất cần thiết trên thực tế như quy định Đăng ký Không Được Gọi (Do Not Call Registry, DNC), là một phần trong Luật bảo vệ dữ liệu cá nhân. Theo quy định về DNC thì người tiêu dùng được phép đăng ký số điện thoại của họ với chính quyền để không nhận những quảng cáo marketing qua các cuộc gọi, tin nhắn, hay fax. Nếu cá nhân hay tổ chức nào đó gửi nhắn tin hay gửi fax đến những số điện thoại đã đăng ký DNC này thì người hay tổ chức đó bị coi là vi phạm pháp luật và sẽ bị phạt tối đa lên tới 10.000 đôla Singapore (khoảng 7.000 USD theo tỷ giá hiện thời) cho mỗi lần vi phạm. Đăng ký DNC đã giáng một đòn mạnh vào các công ty có hoạt động marketing từ xa, vốn là một hoạt động marketing phổ biến của phần lớn các tổ chức tài chính.
Một quy định tương tự như DNC cũng là điều rất cần thiết ở Việt Nam khi người tiêu dùng hàng ngày hàng giờ bị tra tấn không ngừng nghỉ bởi các tin nhắn rác và cuộc gọi quảng cáo đủ thứ từ bất động sản đến thẻ tín dụng và mua ô tô v.v...  

Lãi suất không có cơ hội giảm cuối năm (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân, 3/10/2015, bản gốc)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=359490

Với mức lạm phát trong tháng 9 thấp ở mức kỷ lục 10 năm qua, lãi suất hiện nay của Việt Nam đang ở mức thực dương quá cao (với lãi suất tiết kiệm 12 tháng có mức thực dương ở trong khoảng 5%-6% hoặc hơn. Lãi suất thực dương quá cao tất nhiên sẽ làm khó rất nhiều cho doanh nghiệp và cả nền kinh tế khi tiền trả lãi – được coi là một trong những chi phí đầu vào của các doanh nghiệp – sẽ bị đội lên đáng kể, làm đội giá thành sản xuất và do đó giá bán, từ đó trực tiếp làm giảm tính cạnh tranh của các doanh nghiệp nội địa, dẫn đến một loạt hậu quả như nhập siêu gia tăng, sản xuất trì trệ, hàng tồn kho gia tăng, tăng trưởng chậm hơn.

Bởi vậy, hạ lãi suất trong bối cảnh lạm phát đang rất thấp như hiện nay là một vấn đề có tính sống còn cho các doanh nghiệp nói riêng và cả nền kinh tế nói chung. Vấn đề đặt ra ở đây là hạ lãi suất bằng cách nào, và có thực hiện được không?
Vì lãi suất ta đang nói ở đây là lãi suất VND nên việc điều chỉnh lãi suất là trách nhiệm cũng như trong khả năng và tầm kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Để hạ lãi suất, NHNN sẽ phải nới lỏng cung tiền bằng cách bơm thêm VND vào nền kinh tế thông qua hệ thống ngân hàng với các công cụ như giảm dự trữ bắt buộc, hạ lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn. Một khi thanh khoản trong hệ thống ngân hàng dồi dào hơn với lãi suất thấp hơn nhờ có nguồn vốn lãi suất thấp do NHNN bơm ra thì lãi suất của ngân hàng cho vay ra nền kinh tế cũng sẽ có xu hướng giảm theo đúng như ý đồ của NHNN.

Nhưng thực tế cho thấy mặt bằng lãi suất nói chung không cho thấy có dấu hiệu giảm nhiệt trong suốt cả năm nay, chứng tỏ NHNN đã không bơm thêm tiền đủ mạnh cho nền kinh tế. Những lý do khác mà một số người viện dẫn cho việc lãi suất không thể giảm được như vừa qua nào là do các ngân hàng chạy đua nâng lãi suất huy động để đáp ứng nhu cầu tín dụng đang tăng trưởng nhanh, nào là do Chính phủ nâng lợi suất trái phiếu chính phủ để phát hành được đủ lượng trái phiếu nhằm bồi đáp thâm hụt ngân sách ngày càng tăng v.v... thực ra không phải là nguyên nhân của việc lãi suất VND đứng ở mức cao, mà chỉ là hậu quả trực tiếp của việc bơm tiền không đủ của NHNN. Cụ thể hơn, khi tổng lượng VND được tung ra lưu thông được khống chế ở một mức nhất định thì các ngân hàng buộc phải cạnh tranh, giành giật với nhau để huy động được trong số vốn VND hữu hạn đó. Còn với trái phiếu Chính phủ, đương nhiên là trong khuôn khổ có hạn của cung VND trong nền kinh tế thì nếu Chính phủ càng phát hành nhiều trái phiếu thì lãi suất sẽ càng có xu hướng  gia tăng, đơn giản vì phát hành trái phiếu là một yếu tố bên phía cầu VND. Ngược lại, nếu NHNN luôn đáp ứng đầy đủ vốn VND của hệ thống ngân hàng cũng như của Chính phủ thì lãi suất không thể đứng ở mức cao như hiện nay được.
Vậy trước khi khuyến nghị NHNN gia tăng cung tiền VND như là một cách làm đơn giản để giảm lãi suất, ta cần mổ xẻ nguyên nhân nào đã ngăn cản NHNN không thể tăng cung VND (đủ lớn) được. Nói cách khác, lý do nào để NHNN e ngại khi có quá nhiều VND được bơm ra nền kinh tế ?

Tăng cung VND sẽ trực tiếp dẫn đến 2 hậu quả: (i) lạm phát sẽ có khả năng tăng trở lại, và (ii) tỷ giá VND sẽ chịu thêm áp lực tăng lên (VND yếu đi). Về hậu quả thứ nhất, trong bối cảnh lạm phát đang ở mức thấp kỷ lục như hiện nay, chủ yếu nhờ giá năng lượng và các loại hàng hóa cơ bản khác trên thế giới đang trên đà giảm sút mạnh và chưa có dấu hiệu phục hồi bền vững trong tương lai gần, thì mọi áp lực gia tăng (nếu có) của hành động tăng cung VND của NHNN lên lạm phát ở Việt Nam sẽ bị triệt tiêu hoàn toàn hoặc phần lớn bởi sự tiếp tục suy yếu của giá hàng hóa thế giới trong nhiều tháng tới. Như thế có nghĩa là nếu NHNN tăng cung VND thì lạm phát không phải là mối bận tâm lớn trong thời gian tới.
Về hậu quả thứ hai, cho dù vẫn còn nhiều tranh cãi trong việc nên hay không nên phá giá VND (để VND suy yếu đi so với USD), nhưng chắc chắn có một đồng thuận là NHNN đang cố gắng bảo vệ tỷ giá không cho vượt khỏi biên độ hiện tại cho đến hết năm hoặc sang đầu năm sau, kể cả bằng cách tốn kém như bán USD từ dự trữ ngoại hối để can thiệp, ổn định tỷ giá. Như vậy, có thể nói tỷ giá chính là nút thắt cho việc hạ lãi suất ở Việt Nam hiện nay. Như thế cũng có nghĩa là việc hạ lãi suất là một trong ba lựa chọn chính sách của NHNN hiện nay: (1) hạ lãi suất nhưng phải đổi lấy hậu quả là tỷ giá gia tăng (VND bị mất giá thêm); (2) ổn định tỷ giá nhưng phải đổi lấy hậu quả là lãi suất không giảm được, thậm chí còn gia tăng (vì ổn định tỷ giá thì phải giảm cung VND bằng thắt chặt chính sách tiền tệ, và/hoặc tăng cung USD bằng cách bán ra USD và hút về VND, cũng dẫn đến làm giảm cung VND cho nền kinh tế); (3) chấp nhận để tỷ giá tăng lên một chút (chẳng hạn phá giá VND thêm 1 hoặc 2 điểm % nữa, hoặc nới lỏng thêm biên độ dao động tỷ giá lên 1, 2 điểm % nữa) để đổi lấy việc lãi suất hạ đi thêm một chút.

Tùy thuộc vào tính toán và cân nhắc của NHNN với lựa chọn nào mà nền kinh tế sẽ được hưởng lãi suất thấp hay không. Nhưng ít ra có thể thấy trong thời gian còn lại của năm thì lựa chọn thứ nhất (lãi suất hạ đi nhưng VND mất giá thêm) không phải là lựa chọn ưa thích của NHNN, và do đó lãi suất chắc chắn sẽ không thể giảm đi được trong thời gian mấy tháng tới.

Quyết định hạ lãi suất tiền gửi USD của NHNN – nên hiểu thế nào cho đúng? (Bài đăng trên DNSG, bản gốc, 2/10/2015)

Bản trên báo: http://www.doanhnhansaigon.vn/van-de/ha-lai-suat-usd-nhung-goc-nhin-khac/1092076/

(Bài gốc dưới đây là để phang mấy đồng chí  chuyên gia trên CafeF, như Bùi Quang Tín (ở đây) và Nguyễn Công Hiệp (ở đây), chỉ được cái nói linh tinh là giỏi).

Xoay quanh quyết định hạ lãi suất tiền gửi USD từ 0,25% về 0%/năm với tổ chức và từ 0,75% về 0,25%/năm với cá nhân của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) áp dụng từ 28/9/2015 đã có nhiều ý kiến và nhận định trái ngược nhau của không ít chuyên gia và lãnh đạo ngân hàng, gây không ít băn khoăn trong dư luận về tính hợp lý và hữu hiệu của quyết định này của NHNN.

Quan điểm đầu tiên là do Việt Nam áp dụng các biện pháp kiểm soát lưu chuyển vốn nên không lo chảy máu ngoại tệ ra nước ngoài sau khi NHNN quyết định hạ lãi suất tiền gửi USD làm giảm tính hấp dẫn của việc đầu tư hay nắm giữ USD ở Việt Nam. Nói cách khác, nhờ kiểm soát lưu chuyển vốn, tổng cung đồng USD từ cá nhân và tổ chức kinh tế trong nước sẽ luôn ở lại trong nước bất chấp lãi suất huy động USD là bao nhiêu.
Quan điểm trên chỉ đúng một phần. Nhìn trên giác độ tính hữu hiệu, đúng là các biện pháp kiểm soát lưu chuyển vốn sẽ phần nào “trói chân” nguồn vốn USD đang có ở thị trường Việt Nam, làm cho nhà đầu tư nước ngoài không dễ mà chuyển USD ra khỏi Việt Nam được. Nhưng mặt trái của các biện pháp kiểm soát lưu chuyển vốn này là làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài tiềm năng vào thị trường Việt Nam trong tương lai. Càng làm chặt chẽ theo hướng “vào thì dễ, ra thì khó” thì sẽ càng như xua đuổi nhà đầu tư nước ngoài tiềm năng vì sẽ không một nhà đầu tư nào lại can tâm đầu tư vào một nước nào đó khi đã biết rõ rằng vốn của mình sẽ rất khó hoặc không bao giờ được rút ra trong mọi hoàn cảnh. Chính từ giác độ này có thể kết luận rằng các biện pháp kiểm soát lưu chuyển vốn sẽ không bao giờ được thiết kế hoặc vô tình có tác dụng ngăn chặn hoàn toàn luồng vốn USD chảy ra khỏi Việt Nam mỗi khi có sự biến gì đó làm nản lòng nhà đầu tư nước ngoài. Bởi vậy, hành động hạ lãi suất tiền gửi USD của NHNN chắc chắn sẽ dẫn đến sự chảy ngược ra nước ngoài của một bộ phận vốn USD đang có mặt ở Việt Nam.

Nhìn từ giác độ hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài, quyết định hạ lãi suất tiền gửi USD của NHNN sẽ làm giảm tính hấp dẫn trong mắt nhà đầu tư nước ngoài. Vì thế, cho dù vốn USD chạy ra khỏi lãnh thổ Việt Nam chỉ ở mức hạn chế vì các biện pháp kiểm soát vốn như nói ở trên, nhưng ngược lại, số lượng vốn USD mới đổ vào Việt Nam sẽ suy giảm vì nhà đầu tư nước ngoài thấy đầu tư (gửi tiền) USD vào Việt Nam không có lợi so với trước đây. Như thế, hành động hạ lãi suất của NHNN sẽ làm gia tăng thêm sự căng thẳng về nguồn cung USD ở Việt Nam (do bị giảm cả về nguồn cung hiện tại do USD chảy ra ngoài, và giảm về nguồn cung USD bổ sung từ bên ngoài vào Việt Nam). Từ lý do này, có thể nói hành động hạ lãi suất của NHNN lại có tác động tiêu cực đến sự ổn định tỷ giá VND do cung USD bị sụt giảm.
Quan điểm thứ hai cho rằng quyết định hạ lãi suất tiền gửi USD của NHNN sẽ thúc đẩy cá nhân và các tổ chức kinh tế bán USD và gửi tiền VND vào hệ thống ngân hàng hưởng lãi suất cao. Quan điểm này cũng chỉ đúng một phần. Lý do chính làm cho cá nhân và tổ chức găm giữ USD là kỳ vọng phá giá VND. Bởi vậy, với một số cá nhân và tổ chức không kỳ vọng VND bị phá giá hơn nữa thì việc bán USD rồi gửi VND thu được vào ngân hàng để hưởng lãi là điều có lợi. Nhưng chắc chắn sẽ có một bộ phận cá nhân và tổ chức khác không nghĩ như vậy, và tin tưởng rằng tỷ giá sẽ phải được điều chỉnh hơn nữa (theo hướng VND yếu đi so với USD). Tùy vào mức độ kỳ vọng phá giá VND lớn đến đâu mà bộ phận cá nhân và tổ chức này sẽ găm giữ USD ở mức phù hợp với kỳ vọng đó. Do vậy, chừng nào VND còn bị kỳ vọng tiếp tục mất giá (mạnh) hơn nữa thì chừng đó sẽ vẫn có nhiều người và tổ chức găm giữ USD, bất chấp lãi suất tiền gửi USD có thấp đến đâu, thậm chí là 0% hay ở mức âm.

Quan điểm thứ ba cho rằng hạ lãi suất tiền gửi USD sẽ giúp NHNN có cơ hội để mua thêm được USD. Điều này vừa giúp tỷ giá cân bằng trở lại (tức VND không bị áp lực mất giá hơn nữa), đồng thời lại làm tăng thêm được cung VND (do mua USD), từ đó giúp cho lãi suất VND có cơ hội giảm xuống. Quan điểm này cũng chỉ đúng một vế. Khi mua USD về và tung VND ra, NHNN sẽ làm khan hiếm hơn nguồn cung USD trên thị trường, do đó sẽ làm tỷ giá có xu hướng tăng lên (VND yếu đi) vì trên thị trường có ít USD hơn nhưng lại có nhiều VND hơn. Tuy nhiên, mặt tích cực của việc tăng cung VND (do mua USD được nhiều hơn) này là sẽ làm mặt bằng lãi suất VND giảm thấp đi. Nói cách khác, cho dù hành động hạ lãi suất tiền gửi USD của NHNN có làm cho nhiều cá nhân và tổ chức bán USD cho hệ thống ngân hàng rồi rốt cuộc lượng USD thu mua được này chảy vào két sắt của NHNN thì hành động đó của NHNN chỉ có tác dụng làm giảm lãi suất VND chứ không có tác dụng hỗ trợ sự ổn định của tỷ giá (thậm chí còn làm tăng áp lực phá giá hơn nữa).

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).