Friday 23 October 2015

TPP tác động thế nào đến hệ thống ngân hàng Việt Nam? (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân, 24/10/2015)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=360829

Việt Nam cùng với 11 nước chung biển Thái Bình Dương khác đã thỏa thuận hoàn tất đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đầu tháng này. Trong số những ngành nghề sẽ chịu tác động của TPP chắc chắn sẽ có ngành ngân hàng với những thách thức không hề nhỏ.
Trước tiên, khi TPP có hiệu lực, ngay lập tức Việt Nam sẽ không được phép phân biệt đối xử giữa các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước (SOCB) với các ngân hàng tư nhân và nước ngoài khác. Các SOCB về bản chất là các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), là đối tượng của nguyên tắc chính phủ không được ưu đãi riêng cho các DNNN trong khuôn khổ của TPP. Nếu chính phủ Việt Nam có những hành động phân biệt đối xử nào đó giữa các SOCB với các ngân hàng tư nhân và nước ngoài khác thì những ngân hàng này có quyền kiện chính phủ Việt Nam ra các tòa trọng tài quốc tế.
Những phân biệt đối xử này có thể ở dưới dạng như SOCB được đặc quyền nhận vốn giải ngân từ các tổ chức song phương và đa phương quốc tế trong các khoản vay của chính phủ, với lãi suất cực thấp. SOCB cũng có thể là nơi được chính phủ chỉ định để gửi các khoản thu ngân sách từ nhiều nguồn như thuế, phí, là nơi thực hiện các giao dịch trả lương cho công viên chức nhà nước với lãi suất thấp... Mặt khác, SOCB cũng thường là cánh tay nối dài của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) để thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ cũng như các dự án công cộng, dân sinh và xã hội, với nhiều quyền lợi đi kèm khi cung cấp những dịch vụ này. Ví dụ, nhờ được giao việc trả lương cho công viên chức nên các ngân hàng này được nhận thêm một cơ sở khách hàng mới mang đến nhiều dịch vụ tiềm năng như thẻ tín dụng, tín dụng tiêu dùng... Khi thực hiện các dự án xã hội, NHNN sẽ cấp vốn với lãi suất thấp để các SOCB cho vay lại các đối tượng của dự án với biên độ lãi được đảm bảo trong khi không mấy khi chịu rủi ro mất vốn vì thường nhà nước cũng phải xóa nợ cho nhiều đối tượng vay nợ trong các dự án thuộc loại này khi họ không trả nợ hoặc mất khả năng thanh toán.
Thứ hai, TPP có thể ảnh hưởng đến quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng ở Việt Nam. Ngoài những SOCB truyền thống như Vietcombank, Vietinbank, BIDV, và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện nay Việt Nam còn có thêm một vài ngân hàng có thể coi là SOCB mới, vốn là những ngân hàng bị NHNN mua lại với giá 0 đồng biến thành sở hữu nhà nước trong năm nay, như Ngân hàng Đại dương (OCB) và Ngân hàng Xây dựng (CB). Điều đáng nói với những SOCB mới này là chúng vẫn đang trong quá trình được NHNN tái cơ cấu và vực dậy bên bờ vực phá sản. Quá trình tái cơ cấu và phục hồi các ngân hàng này đòi hỏi NHNN phải rót thêm vốn, tạo thêm cơ chế, trao thêm nhiều cơ hội kinh doanh để chúng mau bình phục, lớn mạnh trở lại để NHNN bán đi thu hồi vốn. Tất cả những đối xử khác biệt này nếu bị bộc lộ với bằng chứng rõ ràng sẽ là điều kiện để các ngân hàng khác, nhất là ngân hàng nước ngoài khởi kiện, buộc NHNN phải thay đổi phương pháp thực hiện, dẫn đến khả năng quá trình tái cơ cấu ngân hàng sẽ bị đình trệ hoặc ảnh hưởng không theo ý đồ của NHNN.
Thứ ba, TPP cho phép các ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài (thành viên TPP) cung cấp dịch vụ ngân hàng tài chính cho các khách hàng ở trên lãnh thổ Việt Nam và điều chuyển nhân viên của mình đến các chi nhánh ở lãnh thổ Việt Nam trong một thời gian dài như bất cứ một ngân hàng nội địa nào khác. Những dịch vụ ngân hàng tài chính này bao gồm tư vấn đầu tư và dịch vụ quản lý quỹ đối với các quỹ như quỹ hưu trí, và dịch vụ bảo hiểm liên quan đến rủi ro trong vận tải thủy và hàng không dân dụng quốc tế. TPP cũng làm giảm gánh nặng quy chế lên các tổ chức, công ty nước ngoài tìm cách xuất khẩu các dịch vụ của họ. Ví dụ, TPP cho phép các tổ chức tài chính chuyển thông tin và dữ liệu vào và ra khỏi lãnh thổ để tiến hành xử lý với chi phí tối ưu nhất. Như thế, TPP sẽ làm gia tăng đáng kể mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính ngân hàng ở Việt Nam, tạo thêm áp lực lên doanh thu và lợi nhuận cho các ngân hàng và tổ chức tài chính nội địa. Nhưng ngược lại, trên cùng một mặt bằng bình đẳng, các ngân hàng và tổ chức tài chính Việt Nam cũng sẽ có thêm cơ hội để mở rộng hoạt động của mình ra các nước thành viên TPP, nắm bắt những cơ hội mà họ có lợi thế riêng để tiếp cận.
Cuối cùng, TPP cũng làm giới hạn đáng kể quyền lực của các cơ quan quản lý chức năng của Việt Nam như NHNN trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, dẫn đến rủi ro cao hơn cho những bất ổn trong hệ thống tài chính ngân hàng của Việt Nam. Cụ thể hơn, TPP không cho phép sự giới hạn quy mô của các tổ chức tài chính ngân hàng ở Việt Nam (là một nguyên tắc để bảo đảm không bị rơi vào tình trạng “quá lớn để cho phá sản”), cấm áp đặt các vách ngăn (về lĩnh vực hoạt động) giữa các loại hình tổ chức tài chính (ngân hàng, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm), không cho phép cấm các sản phẩm tài chính độc hại nào đó, và cấm áp dụng các biện pháp kiểm soát lưu chuyển vốn vào ra khỏi lãnh thổ Việt Nam vốn có tác dụng ngăn chặn các cuộc khủng hoảng tài chính.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).