Thursday 26 November 2015

Sức khỏe hệ thống ngân hàng: Không hẳn như đã nghe, đã thấy (Bài không được báo đăng vì thuộc phạm vi bị Bộ 4T cấm)

Gần đây có một số ý kiến đánh giá tích cực về công cuộc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong giai đoạn 2011-15. NHNN đã đạt được những thành quả lớn như sáp nhập một số ngân hàng yếu kém và mua lại một số ngân hàng với giá 0 đồng mà không phải dùng đến ngân sách nhà nước; hạ mặt bằng lãi suất từ 20%-30% hoặc hơn nữa trong những năm trước xuống còn trên dưới 10% hiện nay, giúp doanh nghiệp hạ giá thành sản xuất và nâng cao sức cạnh tranh; hạ mạnh tỷ lệ nợ xấu từ 15%-17% tổng dư nợ những năm trước xuống còn 3% năm nay nhờ những giải pháp quyết liệt và sáng tạo, trong đó có việc thành lập VAMC. Những giải pháp quyết liệt của NHNN đã củng cố sức khỏe hệ thống ngân hàng và ổn định hóa thị trường tài chính tiền tệ và kinh tế vĩ mô.

Tuy nhiên, nếu khách quan mà nhìn nhận thì tình hình không hẳn hoàn toàn tích cực như vậy.

Thứ nhất, xét về việc sáp nhập và mua lại một số ngân hàng mà được cho rằng không phải dùng đến ngân sách nhà nước. Trong báo cáo Báo cáo Tình hình thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về hoạt động giám sát chuyên đề, hoạt động chất vấn từ đầu nhiệm kỳ khóa XIII đến năm 2015 liên quan đến hoạt động ngân hàng”, Thống đốc NHNN cho biết “NHNN đã tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng (TCTD) tăng vốn điều lệ; sáp nhập, hợp nhất, mua lại TCTD để vừa xử lý TCTD yếu kém vừa tăng quy mô và năng lực tài chính. Không rõ sự “tạo điều kiện” của NHNN ở đây cụ thể là gì, như thế nào, nhưng rõ ràng các TCTD đã không thể tăng vốn điều lệ nếu NHNN không “tạo điều kiện”. Nói cách khác, vì tiền không tự “mọc” ra nên tiền để tăng vốn điều lệ của các TCTD chắc chắn có một phần là từ hoặc liên quan đến NHNN. Mà nếu vậy thì cũng khó mà nói rằng sáp nhập, hợp nhất, mua lại các ngân hàng yếu kém đã hoàn toàn không dùng đến ngân sách. Tương tự vậy với biện pháp mua lại một số ngân hàng với giá 0 đồng, khi NHNN tiết lộ đã phải “đưa ra” 40.000 tỷ đồng chỉ riêng cho vụ mua lại Ngân hàng Xây dựng với giá 0 đồng.

Trên hết, cho dù quả thật NHNN đã không phải dùng đến ngân sách nhà nước để tái cơ cấu hệ thống ngân hàng như vừa qua, nhưng mặt khác NHNN thừa nhận: “Quan điểm không sử dụng tiền của ngân sách Nhà nước để cơ cấu lại TCTD và xử lý nợ xấu đã ảnh hưởng nhất định đến tiến độ và sự bền vững của quá trình cơ cấu lại các TCTD và xử lý nợ xấu” và từ đó đề xuất lên Thủ tướng 4 nhóm cơ chế hỗ trợ cho các TCTD thực hiện tái cơ cấu hoặc tham gia tái cơ cấu. Trong 4 nhóm cơ chế hỗ trợ này có hỗ trợ tài chính, là cái có liên quan trực tiếp hoặc gây ảnh hưởng đến ngân sách nhà nước. Kể cả nhóm cơ chế hỗ trợ kỹ thuật thì cũng ít nhiều liên quan đến ngân sách khi phải đài thọ cho việc cung cấp các hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo. Đó là chưa kể đến nhóm các cơ chế hỗ trợ “đặc thù” theo đề nghị của TCTC mà rất có thể là một đòi hỏi về ưu ái, đối xử đặc biệt làm lợi riêng cho TCTD đó. Ngoài ra, nhóm cơ chế hỗ trợ về chính sách (cùng với nhóm cơ chế “đặc thù”), ví dụ như miễn giảm một số điều kiện khi cấp phép mở rộng mạng lưới và hoạt động kinh doanh, cho phép giãn lộ trình thực hiện kiến nghị thanh tra... về thực chất là những nới lỏng quản lý nhà nước với các TCTD này, đồng nghĩa với việc tăng mức độ rủi ro, dễ tổn thương cho hệ thống ngân hàng nói chung. Nói cách khác, công cuộc tái cơ cấu mới chỉ dừng lại ở mặt cơ học khi giảm bớt số lượng ngân hàng yếu kém mà chưa giải quyết được thực chất những vấn đề tồn tại trong hệ thống ngân hàng để từ đó có thể hy vọng củng cố được sức khỏe của cả hệ thống.

Thứ hai, về thành tích hạ lãi suất. Đúng là lãi suất đã được hạ đáng kể từ mức rất cao của những năm 2011-12 xuống như hiện nay. Nhưng đây không hoàn toàn là “công lao” của NHNN khi lãi suất đã giảm theo đà giảm của lạm phát cũng từ mức rất cao đến trên 20%/năm xuống còn 1 con số như hiện tại. Mà lạm phát giảm có một phần khách quan đáng kể là do giá cả thế giới đã tụt giảm trong vài năm nay. Hơn nữa, nếu xét theo quan hệ với lạm phát, việc lãi suất tuy đã giảm mạnh so với các năm 2012-13 nhưng vẫn tiếp tục neo ở mức rất cao trong năm 2015 này so với lạm phát cực thấp như hiện nay và kể cả so với lãi suất của năm 2014, chứng tỏ lãi suất vẫn còn là “thành công dang dở”.
Thứ ba, xét về thành tích giảm nợ xấu. Vấn đề này thực ra đã được chỉ rõ trong nhiều phân tích cho thấy nợ xấu giảm chỉ là trên danh nghĩa vì phần lớn mới chỉ được “gạt” ra khỏi bảng cân đối tài sản của các ngân hàng để rồi chui vào “kho” của VAMC, với chỉ một phần nhỏ trong số này được VAMC thanh lý, xử lý dứt điểm. Sự bế tắc của “sáng kiến” VAMC được thể hiện rõ ở việc NHNN lại kiến nghị với Quốc hội, với Chính phủ có cơ chế “đặc thù” cho VAMC để nó hoạt động hiệu quả hơn như theo thiết kế ban đầu. Ngoài ra, một phần đáng kể nợ xấu cũng được “xử lý” theo kiểu khoanh nợ, treo nợ, trong đó có các món nợ của Vinashin và Bianfisco, góp phần làm đẹp con số nợ xấu tổng thể, trong khi về cơ bản thì vẫn vậy.

Thứ tư, xét về sức khỏe của hệ thống ngân hàng nói chung trên một số chỉ tiêu rất hữu hạn mà NHNN công bố. Theo các thông tin công bố trong “Thống kê một số chỉ tiêu cơ bản của ngành ngân hàng”, tài sản có và vốn (điều lệ, tự có) vẫn tăng hàng năm, và đây là điều hiển nhiên khi nền kinh tế vẫn đang tăng trưởng ở mức khá. Nhưng xét về yếu tố sinh lời thì toàn ngành đang trên đà sa sút. Nếu như chỉ tiêu ROA và ROE vào tháng 10/2012 lần lượt là 0,62% và 6,31% thì chúng tụt giảm xuống còn lần lượt là 0,51% và 5,49% vào tháng 10/2014 và thấp hơn nữa, lần lượt là 0.32% và 3,54% vào tháng 9/2015. Ngược lại, mức độ rủi ro, được phản ánh qua tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn, lại đang trong chiều hướng tăng lên, với con số tương ứng vào các thời điểm 10/2012, 10/2014 và 9/2015 lần lượt là 17,36%, 19,42%, và 28,48%.

Bản thân sức khỏe của NHNN tuy không được tiết lộ nhưng có thể phần nào nhận biết qua những chỉ tiêu như dự trữ ngoại hối. Báo chí trong nước cho thấy dự trữ ngoại hối của NHNN đã có thể tụt giảm nhiều tỷ USD từ con số 37 tỷ USD và 10 tấn vàng tính đến tháng 7/2015 (theo NHNN) do can thiệp ổn định tỷ giá thời gian qua. Lưu ý rằng bản thân con số 37 tỷ USD và 10 tấn vàng này cũng đã thấp hơn con số dự trữ ngoại hối cần có (tương đương 12 tuần nhập khẩu) để đạt được mức an toàn tối thiểu theo tiêu chuẩn quốc tế. Như vậy, tuy NHNN vẫn tiếp tục cam kết sẵn sàng bán ra ngoại tệ để bình ổn tỷ giá thì không những sức nặng của lời cam kết này đã suy giảm nhiều mà mức độ rủi ro cho hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung sẽ tăng lên khi quỹ dự trữ ngoại hối đã mỏng lại càng mỏng hơn nữa.

Tuesday 24 November 2015

TPP làm khó Nhà nước

http://www.thesaigontimes.vn/138636/TPP-lam-kho-Nha-nuoc.html


Nhiều người tưởng ở Việt Nam chỉ có những doanh nghiệp và cá nhân hoạt động trong những ngành kinh tế lâu nay được bảo hộ chặt chẽ bởi hàng rào thuế quan và phi thuế quan thì sẽ bị ảnh hưởng mạnh khi TPP có hiệu lực. Thực ra không chỉ thế. Nhà nước cũng ngại TPP!


Có khá nhiều yêu cầu mà TPP “làm khó” Nhà nước, bài này chỉ “nhặt” ra hai yêu cầu điển hình. Đó là yêu cầu Nhà nước phải minh bạch hóa, công khai hóa các quy trình, thủ tục luật lệ; và Nhà nước không được tùy ý ra quy định, thích ban hành văn bản pháp luật thế nào cũng được.


Đầu tiên là nói đến nguyên tắc minh bạch hóa, công khai hóa, được nhấn mạnh ở hầu hết các chương trong TPP. Lấy ví dụ về chương Quản lý hải quan và thuận lợi hóa thương mại, một trong những “điểm đen” của Việt Nam trong con mắt của các doanh nghiệp, cá nhân cả trong nước lẫn nước ngoài. Chương này quy định các nước thành viên đảm bảo thủ tục hải quan của mình là minh bạch, nhất quán và có thể dự báo được. Theo hướng này, các nước thành viên phải công bố các quy định, luật lệ và thủ tục hải quan trên mạng, và bằng cả tiếng Anh nếu có thể. Họ cũng sẽ phải công bố các đầu mối liên lạc để sẵn sàng giải đáp các vướng mắc của giới doanh nghiệp.
 
Cứ giả thiết rằng Hải quan Việt Nam sẵn sàng tuân thủ một cách tự nguyện, tự giác và tích cực điều khoản này thì ngay chuyện dịch từ tiếng Việt sang tiếng Anh một “rừng” các thủ tục và quy định rồi công bố đầy đủ trên trang web của mình đã và sẽ là việc không dễ. Thử vào trang web của Tổng cục Hải quan, dễ dàng thấy khác biệt lớn về nội dung giữa hai phiên bản tiếng Việt và tiếng Anh (ở những mục, ví dụ, như văn bản pháp luật, trong khi bản tiếng Việt có đến hàng trăm văn bản thì tiếng Anh chỉ có mỗi một văn bản pháp luật ban hành năm 2015).
 
Về đường dây nóng, bản tiếng Việt có cả một danh sách các đường dây nóng về Ban chỉ đạo 389 quốc gia, về chống tiêu cực của đội giám sát kiểm tra, chống gian lận thương mại, hỗ trợ thủ tục, quản lý rủi ro, trong khi bản tiếng Anh thì chỉ có đường dây nóng cho hai vấn đề là gian lận thương mại và quản lý rủi ro (không lẽ đối với người nước ngoài thì không có chuyện tiêu cực hải quan nên không cần đường dây nóng về chống tiêu cực?). Tổng cục Hải quan là nơi mà thông tin bằng tiếng Anh là cực kỳ quan trọng mà tình hình còn như vậy thì không biết ở những cơ quan nhà nước khác thì tình hình sẽ còn tệ đến đâu nữa?
 
Tiếp theo, TPP luôn nhấn mạnh trong nhiều chương các nguyên tắc cốt lõi như đối xử quốc gia, đối xử tối huệ quốc, tiếp cận thị trường, theo đó mọi chủ thể kinh tế trong và ngoài nước đều phải được đối xử công bằng, không thiên vị, không tùy tiện theo ý chí của Nhà nước. Trên các nguyên tắc này, Nhà nước sẽ không còn được tùy ý làm những việc` tưởng như hiển nhiên được làm như đối xử thiên vị, ưu ái riêng cho các doanh nghiệp nhà nước. Chẳng hạn, trong lĩnh vực thương mại, Nhà nước sẽ không còn được phép để cho các tổng công ty lương thực gần như được độc quyền một mình một chợ trong xuất khẩu gạo cả nước, được hưởng những đặc quyền đặc lợi như vay vốn không lãi suất để thu mua lúa, chế biến và xuất khẩu gạo...
 
Trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, Nhà nước cũng sẽ không được ưu ái riêng cho các ngân hàng có vốn nhà nước như được tiếp nhận các nguồn vốn ODA, vốn chính phủ với lãi suất thấp, và những ưu đãi khác, đổi lại Nhà nước sẽ “trưng dụng” các ngân hàng này trong một số “nhiệm vụ chính trị” nào đó như vẫn xảy ra từ trước đến nay.
 
Hay như chuyện NHNN đang kiến nghị Quốc hội và Chính phủ trao thêm nhiều quyền hạn và cơ chế đặc thù cho Công ty Quản lý tài sản Việt Nam (VAMC) để giúp nó thực hiện được tốt chức năng của mình là xử lý và làm giảm nợ xấu trong hệ thống ngân hàng cũng cần phải được xem xét lại vào thời điểm trước thềm TPP như hiện nay. Lý do là, nếu ưu ái riêng cho VAMC những cơ chế và ưu đãi thì đây chính là một hành vi đối xử thiên vị, bất công một cách công khai đối với các tổ chức quản lý tài sản (AMC) khác hiện có và sẽ có của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính vốn cũng đang thực hiện cùng một chức năng là xử lý nợ xấu cho các ngân hàng thương mại.
 
Sự vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc cốt lõi của TPP như thế sẽ có thể là nguyên nhân cho một ai đó có quyền lợi liên đới bị ảnh hưởng bởi hoạt động của VAMC đứng lên khởi kiện Chính phủ Việt Nam ra tòa vì đã phân biệt đối xử.


Tóm lại, với sự “vào cuộc” của TPP thì ngay đến các cơ quan công quyền nhà nước cũng sẽ bị tác động mạnh và buộc phải thay đổi tư duy quản lý, điều hành nền kinh tế, cũng như lề thói làm việc hiện nay để theo kịp những đòi hỏi của TPP nếu không muốn trở thành “nạn nhân” của cái hiệp định thương mại tự do mang tính thế kỷ này.

Saturday 21 November 2015

Xử lý nợ xấu: Không chỉ có mình VAMC! (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân, bản gốc, 22/11/2015)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=76&NewsId=362652

Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tính từ 2013 đến 15/9/2015, Công ty quản lý tài sản Việt Nam (VAMC) đã thực hiện mua được 210.717 tỷ đồng nợ xấu theo giá sổ sách, nhưng chỉ thu hồi nợ được 13.320 tỷ đồng. NHNN thừa nhận, so với thực trạng nợ xấu, tốc độ xử lý nợ xấu còn chậm, kết quả bán nợ, tài sản đảm bảo còn rất khiêm tốn. Nguyên nhân, theo NHNN, là do VAMC đang gặp nhiều khó khăn liên quan đến pháp lý và thủ tục, cũng như nguồn vốn “tiền tươi thóc thật” còn hạn hẹp... Bởi vậy, NHNN kiến nghị Quốc hội ban hành nghị quyết về xử lý nợ xấu hoặc một bộ luật về xử lý nợ xấu có giá trị trong quá trình xử lý nợ xấu từ 3 đến 5 năm.

Như vậy, tuy được biết đến và ca ngợi là sáng kiến độc đáo, là giải pháp sáng tạo của Việt Nam do không dùng đến ngân sách để xử lý nợ xấu, nhưng xem ra VAMC đang gặp bế tắc lớn và cần phải có những cơ chế và ưu ái đặc biệt vượt trên các khuôn khổ luật lệ và quy định pháp lý hiện hành để nó có thể tồn tại và thực hiện tốt được chức năng theo thiết kế là mua về và xử lý hữu hiệu nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Tuy nhiên, nếu thực hiện theo yêu cầu của NHNN thì sẽ phải đối mặt mấy vấn đề về nguyên tắc và pháp lý như sau. Thứ nhất, nếu mục đích theo thiết kế ban đầu là xử lý nợ xấu mà không cần đến, không gây tổn thất cho ngân sách thì những giải pháp như cấp và tăng thêm vốn điều lệ (từ 500 tỷ đồng lên mức đề xuất là 2.000 tỷ đồng hoặc hơn) trước tiên đã phá vỡ cam kết không dùng đến ngân sách, và nếu được chấp thuận một lần thì rất có thể sẽ phải chấp thuận cho tăng vốn những lần sau với lý do là nếu không tăng thì không đủ năng lực để xử lý nợ xấu. Cứ như vậy thì dần dần VAMC sẽ trở thành một cái lỗ đen hút ngân sách trong khi hiệu quả thì chưa và chẳng có gì đảm bảo.

Thứ hai, nếu ưu ái cho VAMC những cơ chế và ưu đãi thì tạo ra một bất công lớn với các tổ chức quản lý tài sản (AMC) khác, của các ngân hàng thương mại, của Bộ Tài chính. Chắc chắn các AMC này cũng đã và đang phải đối mặt với các vấn đề mà VAMC đang đối mặt, vậy mà họ không (thể) kêu ca, phàn nàn, hoặc có thì cũng không ai để ý, tạo điều kiện như với VAMC. Điều này là đặc biệt nguy hiểm khi những ràng buộc quốc tế trong đối xử tối huệ quốc, đối xử bình đẳng quốc gia v.v... trong ngành tài chính mà Việt Nam đã cam kết, đặc biệt là TPP, cho phép nhà đầu tư, các công ty phi nhà nước trong và ngoài nước kiện Chính phủ ra tòa vì đã phân biệt đối xử, và có khả năng Chính phủ sẽ thua cuộc, buộc phải bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn.
Thứ ba, nếu ưu ái riêng cho VAMC thì sẽ vô hình trung lãng phí một lực lượng xử lý nợ xấu lớn, chính là các AMC nói trên. Các AMC này ra đời cũng với cùng một sứ mệnh là để xử lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp nhà nước, nhưng lại được trao ít công cụ và quyền lực hơn VAMC kể cả trước khi VAMC được trao thêm ưu ái sau này. Nếu là vì mục đích để tăng cường xử lý để giảm nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thì tại sao lại không trao thêm quyền lực và cơ chế tương tự như với VAMC cho các AMC? Phải chăng khác biệt và là nguyên nhân duy nhất ở đây chỉ là vì VAMC là “con đẻ” của NHNN?

Tóm lại, để tránh những khả năng bị kiện cáo, đồng thời huy động được mọi nguồn lực hiện có và sẽ có mà không động chạm  gì đến hay gây tổn thất cho ngân sách nhà nước, tốt nhất là hãy tạo ra một sân chơi bình đẳng và thuận lợi hơn cho tất cả các tổ chức xử lý nợ xấu hiện tại và trong tương lai ở Việt Nam, tương tự như những gì sẽ trao cho VAMC.

Friday 20 November 2015

Tác động của TPP nhìn từ chương Viễn thông (Bài đăng trên CafeF, 20/11/2015)

http://cafef.vn/vi-mo-dau-tu/tac-dong-cua-tpp-nhin-tu-chuong-vien-thong-20151120092050999.chn

Mục đích các cam kết trong chương Viễn thông không nằm ngoài mục đích chung của TPP là tạo ra một trường pháp lý minh bạch và ổn định để các công ty cung cấp dịch vụ viễn thông đầu tư và hoạt động thuận lợi trong các nước thành viên. Theo hướng này, chương Viễn thông đảm bảo quyền tiếp cận các phương tiện viễn thông một cách hợp lý và công bằng, cũng như đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh giữa các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông. Chương này cũng khuyến khích các giải pháp sáng tạo mang tính thị trường, thí điểm các công nghệ mới, cho phép các dịch vụ viễn thông được cung cấp một cách nhanh chóng hơn, hiệu quả hơn và với chi phí rẻ hơn dựa trên các quy luật thị trường. Đặc biệt, chương này mở rộng các nguyên tắc cạnh tranh sang các dịch vụ di động, là khu vực có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong ngành viễn thông, đồng thời là điểm mấu chốt trong tiếp cận mạng internet và các dịch vụ liên quan cho con người trong thời gian tới.
Điều cam kết quan trọng đầu tiên trong chương Viễn thông là về nguyên tắc được tiếp cận một cách thỏa đáng mạng lưới viễn thông của các nhà cung cấp khác. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông hiện có không được lạm dụng sự tiếp cận này như là một hình thức cản trở hữu hiệu sự cạnh tranh tiềm năng của đối thủ. Nguyên tắc này được quy định trong các điều khoản về:

-          Sự tiếp cận và sử dụng các dịch vụ viễn thông công cộng trên lãnh thổ hay xuyên biên giới của nước thành viên. Tuy nhiên, các nước thành viên được phép có những biện pháp cần thiết để an ninh, bí mật và sự riêng tư của các thông tin của người sử dụng các mạng hay dịch vụ viễn thông công cộng, miễn là các biện pháp này không tùy tiện và bất công bằng hay là một hình thức để hạn chế thương mại dịch vụ.

-          Các nghĩa vụ liên quan đến nhà cung cấp dịch vụ viễn thông công cộng. Theo đó các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông công cộng của một nước thành viên sẽ phải nối kết với, và cung cấp các lựa chọn kết nối một cách công khai cho các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông công cộng ở nước khác và với mức phí phải chăng. Họ cũng có nghĩa vụ bảo đảm tính khả chuyển của số điện thoại và sự tiếp cận số điện thoại một cách không bị phân biệt từ các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông công cộng của nước khác. Nhà cung cấp dịch vụ viễn thông công cộng lớn của một nước không được đối xử phân biệt các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài so với các nhà cung cấp dịch vụ là công ty con, công ty liên kết hoặc không liên kết của mình trong cùng một hoàn cảnh, một số dịch vụ.

-          Các biện pháp bảo đảm cạnh tranh. Theo đó, các nước cam kết duy trì các biện pháp thích hợp để ngăn chặn một nhà cung cấp dịch vụ viễn thông công cộng lớn của mình có những hành động phi cạnh tranh như bao cấp chéo, sử dụng thông tin thu thập được từ đối thủ để làm lợi bất chính, hay không cung cấp thông tin kỹ thuật và thương mại cần thiết về các thiết bị cơ bản cho nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài để họ có thể hoạt động được.       

-          Việc bán lại dịch vụ viễn thông công cộng. Theo đó, nước thành viên không được cấm hoặc áp đặt những điều kiện bất hợp lý, bất bình đẳng, hoặc hạn chế việc bán lại bất cứ dịch vụ viễn thông công cộng nào của một nhà cung cấp dịch vụ viễn thông công cộng lớn trong nước cho một nhà cung cấp dịch vụ viễn thông nước ngoài, với giá hợp lý.   

-          Sự tiếp cận các cấu thành tách biệt của mạng viễn thông. Nước thành viên phải yêu cầu hãng cung cấp dịch vụ viễn thông lớn của mình cung cấp cho các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông công cộng nước ngoài sự tiếp cận các cấu thành của mạng lưới của mình trên cơ sở tách biệt.

-           Cung cấp và định giá dịch vụ mạch kết nối thuê bao. Các nước phải đảm bảo các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông trong nước cung cấp dịch vụ kết nối thuê bao thuộc dịch vụ viễn thông công cộng cho một nhà cung cấp dịch vụ viễn thông nước ngoài với giá phải chăng, không thiên vị.

-          Thiết lập các trung tâm thiết bị cho thuê cần cho việc kết nối hay tiếp cận các cấu thành tách biệt mạng viễn thông với các điều kiện và điều khoản hợp lý, không phân biệt đối xử, tại nước sở tại, bởi nhà cung cấp dịch vụ viễn thông công cộng lớn của nước sở tại.

-          Tiếp cận cột viễn thông, đường cổng cáp, máng dây, và lộ giới. Nước sở tại phải bảo đảm nhà cung cấp dịch vụ viễn thông lớn của mình cung cấp cho nhà dịch vụ viễn thông nước ngoài sự tiếp cận những yếu tố này với các điều kiện và điều khoản hợp lý, không phân biệt đối xử.

-          Tiếp cận hệ thống cáp viễn thông ngầm quốc tế. Nước sở tại phải bảo đảm nhà cung cấp dịch vụ viễn thông của mình có kiểm soát các trạm tiếp đất của các đường cáp viễn thông quốc tế ngầm dưới biển cung cấp cho nhà cung cấp dịch vụ viễn thông nước ngoài sự tiếp cận các trạm tiếp đất này theo các điều khoản tương ứng trong chương này.

Một cam kết quan trọng khác là về sự tiếp cận thỏa đáng của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài mà không bị phân biệt đối xử đến các nguồn lực do Chính phủ nước sở tại quản lý như tần số, băng thông, lộ giới, và số điện thoại v.v...
Một điểm mới trong chương Viễn thông là cam kết về sự linh hoạt trong sử dụng công nghệ. Theo đó, điều khoản này quy định các nhà cung cấp được tự ý lựa chọn công nghệ sử dụng để cung cấp dịch vụ của mình. Điều khoản này cũng có nghĩa là cho phép nhà cung cấp dịch vụ viễn thông được tự do đưa ra các giải pháp mới, sáng tạo. Như vậy, điều khoản này sẽ ngăn các nước sở tại lấy tiêu chuẩn kỹ thuật làm công cụ để cản trở sự cạnh tranh của những nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài do họ có thế mạnh về công nghệ và đổi mới so với các đối thủ trong nước.

Để tăng cường môi trường cạnh tranh, nhất là trong lĩnh vực roaming di động quốc tế, chương Viễn thông quy định các nước phải tạo điều kiện cho việc sử dụng các kênh thay thế cho roaming (tức là ngăn nhà cung cấp dịch vụ ngăn cản dịch vụ thoại trên các dịch vụ internet, hay ngắt các dịch vụ wi-fi). Sự hợp tác song phương, đa phương giữa các bên nhằm đảm bảo cho các công ty viễn thông được hưởng các mức phí roaming thấp cũng được khuyến khích.
Nhằm đảm bảo không có mâu thuẫn quyền lợi, theo kiểu “vừa đá bóng, vừa thổi còi”, chương Viễn thông quy định các cơ quan quản lý chức năng viễn thông của Chính phủ nước sở tại phải độc lập và không có quyền lợi liên quan đến bất cứ nhà cung cấp dịch vụ viễn thông nào trong nước. Cơ quan chức năng này cũng không được phép ra các quyết định hay đối xử một cách thiên vị, phân biệt giữa các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông trên lãnh thổ của mình.

Để đảm bảo tính minh bạch cho môi trường hoạt động của các hãng viễn thông, trong trường hợp nước sở tại yêu cầu nhà cung cấp dịch vụ viễn thông phải có giấy phép, nước này phải công bố công khai tất cả tiêu chuẩn, thủ tục, thời gian, các điều kiện và điều khoản liên quan đến xin giấy phép. Hãng nộp đơn xin phép, nếu có yêu cầu, sẽ nhận được trả lời thỏa đáng từ cơ quan cấp phép về các lý do cho việc bị từ chối cấp phép, những điều kiện cụ thể để được cấp phép, thu hồi hay từ chối gia hạn giấy phép... Tương tự, để lấy ý kiến đóng góp cho một dự thảo quy chế nào đó, cơ quan chức năng của nước sở tại phải công khai dự thảo này, với lý do, mục đích, tạo cơ chế và điều kiện để có phản hồi công khai, và phải hồi đáp các phản hồi hợp lý và đáng kể...
Chương Viễn thông cũng có một điều khoản dành riêng cho xử lý các tranh chấp trong lĩnh vực viễn thông. Ví dụ, các hãng viễn thông trước tiên cần làm việc với các cơ quan chức năng sở tại để giải quyết các tranh chấp liên quan đến các biện pháp của nước sở tại trong các điều khoản liên quan của chương này. Nếu cơ quan chức năng của nước sở từ chối có hành động giải quyết tranh chấp này thì họ sẽ phải trả lời bằng văn bản về lý do này khi được yêu cầu, trong thời gian hợp lý. Các hãng viễn thông nước ngoài cũng có thể yêu cầu cơ quan chức năng nước sở tại xem xét giải quyết các tranh chấp giữa họ với nhà cung cấp dịch vụ viễn thông lớn trên lãnh thổ của mình về điều kiện và chi phí của dịch vụ kết nối. Các hãng có quyền lợi bị ảnh hưởng bởi các quyết định của cơ quan chức năng có thể yêu cầu cơ quan chức năng này hay cơ quan chức năng thích hợp khác xem xét lại quyết định của mình và trả lời trong một thời gian hợp lý, nhưng sự xem xét này, nếu có, không nhất thiết được coi là bằng chứng cho sự vi phạm quy định của các quyết định của cơ quan chức năng.

Cuối cùng, chương Viễn thông đề cập đến việc thành lập Ủy ban Viễn thông, nhằm xem xét, giám sát việc thực thi chương này, và thảo luận các vấn đề cùng quan tâm.
Tóm lại, chương Viễn thông có điểm mới là lần đầu tiên trong số các thỏa thuận thương mại tự do (FTA) đã mở rộng, tăng cường sự cạnh tranh sang lĩnh vực dịch vụ viễn thông di động là lĩnh vực vẫn đang tồn tại nhiều tập quán cạnh tranh không lành mạnh ở nhiều nước, và trong lĩnh vực roaming điện thoại di động quốc tế nhằm làm giảm chi phí roaming không chỉ cho điện thoại mà còn cho các dịch vụ dữ liệu, từ đó làm giảm chi phí cho thương mại và du lịch của TPP. 

Friday 13 November 2015

Tác động của TPP nhìn từ chương Quản lý hải quan và Thuận lợi hóa thương mại (Bài đăng trên CafeF, 13/11/2015)

http://cafef.vn/vi-mo-dau-tu/tac-dong-cua-tpp-nhin-tu-chuong-quan-ly-hai-quan-va-thuan-loi-hoa-thuong-mai-2015111308295883.chn

Một trong những chỉ trích mạnh mẽ nhất về TPP cho rằng TPP được thiết kế để làm lợi cho các công ty đa quốc gia lớn và gây hại cho công nhân, người tiêu dùng, môi trường và những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Quá trình đàm phán TPP diễn ra đằng sau những cánh cửa đóng kín với nội dung đàm phán được chuẩn bị bởi (hay có sự tham vấn với) các công ty đa quốc gia mà không được công bố cho đến tận khi việc đàm phán TPP được hoàn tất.
Tuy vậy, chương Quản lý hải quan và Thuận lợi hóa thương mại (ở bài này gọi tắt là chương Hải quan) cho thấy rằng thực ra, nếu nhìn từ góc độ hỗ trợ dòng chảy thương mại đa phương, TPP sẽ giúp ích rất nhiều cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, gồm cả các thương gia, ở các quốc gia thành viên, qua đó góp phần tạo thêm nhiều công ăn việc làm và cải thiện sự thịnh vượng chung cho nước thành viên.

Với các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung, thực hiện các quy trình và thủ tục hải quan luôn là một cơn ác mộng. Do hạn chế về khả năng tài chính và quy mô, họ không có các nhân viên chuyên trách là chuyên gia về hải quan nên luôn phải mò mẫm giữa một rừng các loại thủ tục, yêu cầu với vô số chi phí và thiệt hại cả có tên lẫn không tên phát sinh. Vì vậy, nếu quy trình và thủ tục hải quan được đơn giản hóa, nhanh chóng, thuận tiện, minh bạch, thống nhất với các nước thương mại đối tác... thì hàng hóa thương mại từ nơi sản xuất sẽ được nhanh chóng lưu thông đến các thị trường tiêu dùng với thời gian nhanh nhất và chi phí thấp nhất. Ngược lại, quy trình và thủ tục hải quan thống nhất giữa các nước đối tác cũng sẽ giúp cho việc quản lý hải quan thuận lợi hơn đồng thời bảo đảm tốt an ninh quốc gia và an toàn công cộng.

Nhận thức được rằng tính minh bạch và dễ hiểu của thủ tục hải quan là điều cơ bản để thương mại quốc tế phát triển một cách hữu hiệu nên điều khoản đầu tiên mà các nước thành viên TPP thỏa thuận trong chương Hải quan là quy định về việc các nước thành viên đảm bảo rằng thủ tục hải quan của mình là minh bạch, nhất quán và có thể dự báo được.
Theo hướng này, các nước thành viên phải công bố các quy định, luật lệ và thủ tục hải quan trên mạng, và bằng cảtiếng Anh nếu có thể để bất cứ ai cần có thể tiếp cận được các văn bản này một cách dễ dàng. Họ cũng sẽ phải công bố các đầu mối liên lạc để sẵn sàng giải đáp các vướng mắc của giới doanh nghiệp.

Các nước thành viên thống nhất trong chương Hải quan về giảm thiểu thời gian thông quan, và trong phạm vi có thể, trong vòng 48 giờ sau khi hàng hóa cần thông quan đã đến cửa khẩu. Để tránh bị chậm chễ, trì hoãn... do cán bộ hải quan chưa quyết định được mức thuế và phí phải trả, chương này cho phép hàng hóa được thông quan dựa trên sự ký quỹ và/hoặc thanh toán trước tiền thuế như hải quan yêu cầu (và sau đó được phép yêu cầu cơ quan thẩm quyền của nước nhập khẩu xem xét lại mức thuế này).

Để giảm thiểu bất trắc liên quan đến việc thông quan hàng hóa cho thương gia, chương Hải quan quy định nước nhập khẩu, nếu được yêu cầu bởi thương gia, cung cấp các thông tin trước khi thương gia vận chuyển hàng hóa đến nước nhập khẩu, về mã, chủng loại hàng hóa của thương gia đó, và liệu hàng hóa của họ có đáp ứng được điều kiện để hưởng thuế ưu đãi TPP hay không. Việc cung cấp thông tin này phải được hoàn tất trong vòng 150 ngày kể từ khi nhận được yêu cầu, và thông tin cung cấp phải có giá trị áp dụng trong vòng 3 năm.

Nhận thức được tầm quan trọng của thời gian giao hàng nhanh để nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp, chương Hải quan quy định nước nhập khẩu phải thông quan nhanh và kịp thời với hàng hóa chuyển phát nhanh nhờ giảm thiểu và đơn giản hóa thủ tục thông quan. Vì hàng chuyển phát nhanh đa dạng về giá trị, hình dạng và kích cỡ nên các nước thành viên thỏa thuận xóa bỏ mọi hạn chế hiện có về trọng lượng và giá trị trong việc thông quan hàng chuyển phát nhanh.Nước nhập khẩu cũng không được tính phí phụ trội với hàng hóa chuyển phát nhanh có giá trị nhỏ hơn mức tối thiểu theo quy định để tăng tốc thông quan và giảm bớt thủ tục.

Về việc xử phạt vi phạm hải quan, chương Hải quan quy định việc phạt này phải dự báo được và không ở mức quá đáng (phạt đúng người, đúng (mức độ) vi phạm; mức phạt phải được tính trên cơ sở không có mâu thuẫn quyền lợi trong việc ấn định mức phạt và thu phí phạt; mức phạt phải tính đến mức độ tự giác, thành khẩn của người vi phạm trước khi hành vi vi phạm bị phát giác...).Có thể thấy những nguyên tắc về xử phạt vi phạm hải quan như thế này là một điểm mới của TPP so với các hiệp định thương mại tự do hiện hành. Nhờ đó, các thương gia không bị xử phạt một cách bất công, oan uổng, và quá mức.

Ngoài ra, chương Hải quan cũng đề cập đến công tác phối hợp, trợ giúp hải quan giữa các nước như cung cấp, chia sẻ thông tin khi điều tra các hành động phạm pháp, nhằm đảm bảo hoạt động hải quan hữu hiệu, không để lợi ích của TPP được hưởng lợi một cách bất chính bởi một chủ thể nào đó bên ngoài khối.

Tóm lại, các nghĩa vụ hải quan được quy định trong chương Hải quan của TPP nếu được thực hiện nghiêm túc sẽ thúc đẩy mạnh mẽ luồng chảy thương mại giữa các nước thành viên, và đối tượng hưởng lợi sẽ bao gồm cả doanh nghiệp vừa và nhỏ và công nhân, nông dân khi sản phẩm của mình làm ra sẽ được tiêu thụ nhiều hơn ở các thị trường nhập khẩu trong khối.

Thursday 12 November 2015

Chi ngân sách nhìn từ việc xây trụ sở (Bài đăng trên TBKTSG, 12/11/2015, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/138289/Chi-ngan-sach-nhin-tu-viec-xay-tru-so.html

Ngân sách đã đến hồi gay cấn khi ngay cả đến vay để đảo nợ bù đắp thâm hụt dường như cũng đã trở nên bất khả thi. Thế nhưng, các giải pháp được đưa ra vẫn chỉ là “ăn đong”, giật từ chỗ nọ vá vào chỗ kia trong khi việc cần làm là cắt giảm chi tiêu từ ngân sách thì chẳng thấy có động tĩnh gì mấy, ngoài một vài tiếng nói lạc lõng về chuyện này.
Cắt giảm chi tiêu khó thế ư? Xin trả lời luôn (hoặc xin lặp lại) là không thể, cho dù có thể những người có trách nhiệm rất muốn làm, nếu mọi việc vẫn cứ “đúng quy trình” như hiện tại!

Để minh họa cho kết luận không có gì là mới và giật gân này, không cần lấy ví dụ để nói về “nhiệm vụ bất khả thi” là cắt giảm biên chế, hãy lấy ví dụ về phong trào xây trụ sở làm việc hoặc trụ sở hành chính tập trung. Báo chí đưa tin hiện các địa phương cả nước đang đua nhau xây trụ sở hoành tráng, ít thì vài trăm tỷ, nhiều tỷ cả chục ngàn tỷ. Và như một phản ứng tất nhiên, người ủng hộ phong trào này phần lớn là quan chức, tuy ít về số lượng nhưng ở thế áp đảo vì có bảo bối là “đúng quy trình”, và bởi vậy nên bất chấp bị phản đối thì hàng loạt trụ sở vẫn đã và sẽ thi nhau mọc lên. Còn người phản đối thì áp đảo về số lượng (vì có nhiều dân thường), với lý do phần lớn là ngân sách đang khó khăn thì không nên lãng phí, chưa cần thiết. Lý do này là hợp lý nhưng rất tiếc là không có cái quy trình nào quy định là nếu có những phản đối từ công luận như thế này thì phải dừng/thôi các khoản chi tiêu có thể coi là lãng phí đó đi!
Cũng giống như mọi khoản chi tiêu khác từ ngân sách, để hợp pháp hóa và xin được tiền ngân sách thì việc đầu tiên là phải làm cho việc chi tiêu này trở nên quan trọng, không thể không đừng được. Và việc này đã có cả một quy trình được quy định thành (nhiều văn bản) luật hẳn hoi. Ở cấp lập và xin duyệt dự án xây dựng trụ sở, thế nào trong đơn xin duyệt dự án cũng có những lý do rất thương tâm (và đáng sợ nữa) như trụ sở đã xuống cấp nghiêm trọng, không đảm bảo an toàn (khéo mà sụp đổ sau một ngày mưa nào đó), và/hoặc rất nhân văn, cao cả như để thực hiện một cửa liên thông, để giảm phiền hà cho dân chúng khi làm các thủ tục hành chính v.v...

Quy trình là vậy, nhưng có thể những người làm ra cái quy trình này chưa kịp nghĩ đến việc bổ sung một khiếm khuyết trong cái bước đầu tiên của quy trình này là nếu nhỡ khi có nhiều cái dự án, nhiều việc phải chi, không thể không đừng, cùng một lúc được đưa ra thì sao? Chẳng hạn, nói là trụ sở xuống cấp, không an toàn nên cần phải xây, vậy những địa bàn của địa phương đó có những cái cầu cũ nát, có thể sập bất cứ lúc nào cũng phải xây lại ngay thì sao? Như vậy, trong lúc cái khiếm khuyết này cứ tồn tại sờ sờ ra đó thì rõ ràng việc muốn và xin làm cái gì hoàn toàn là do một số ít quan chức có quyền lực và lợi ích liên quan ở địa phương quyết định, và kết quả của quyết định này không nhất thiết phản ánh quyền lợi, lợi ích của số đông là dân chúng nói chung và ngân sách nói riêng.
Công đoạn tiếp theo trong quy trình đang nói đến là phê duyệt dự án đầu tư bởi cấp cao hơn, lên đến cả các cơ quan bộ và trên đó nữa. Cơ sở để xem xét trước tiên là các quy hoạch, kế hoạch đầu tư dài hạn. Nếu các dự án trụ sở này đã nằm trong quy hoạch, kế hoạch đầu tư, xây dựng cơ bản được duyệt từ những năm trước thì đây là một điểm cộng lớn, xác suất được phê duyệt là rất cao vì đã thỏa mãn một yêu cầu quan trọng trong quy trình. Mà nếu không có thì cũng không là chuyện lớn khi người ta gạch chân những từ trong dự án như “xuống cấp nghiêm trọng” (không cho xây, mà sửa cũng không được, nếu để xảy ra tai nạn chết người thì ai chịu trách nhiệm?), “để thực hiện một cửa liên thông” (không cho xây thì sao mà cải cách hành chính được?).

Bước tiếp theo trong công đoạn xét duyệt cũng quan trọng không kém là xem xét nguồn vốn, khả năng cân đối vốn. Quy trình nêu rõ là chỉ bố trí vốn ngân sách khởi công mới các dự án thật sự cấp bách, đáp ứng điều kiện: nằm trong quy hoạch đã được duyệt, đã xác định rõ nguồn vốn và khả năng cân đối vốn ở từng cấp ngân sách (Thông tư 102/2015 TT-BTC). Theo quy trình này thì dự án xây trụ sở nếu không có trong quy hoạch đã được duyệt sẽ hơi có vấn đề một chút, nhưng quy trình này không loại trừ các dự án được bổ sung vào quy hoạch vì tính cấp bách của nó như nói ở trên. Còn về nguồn vốn và cân đối vốn thì cũng không thành vấn đề vì trong dự án xây trụ sở người lập đã chủ trương “thiếu ngân sách thì đổi đất” (ngụ ý không phải cấu véo nhiều vào những khoản chi cần thiết khác, và vốn thì địa phương lại “nhiều như đất”!).
Đại loại vậy, và nếu cứ đúng quy trình như thế thì cấp có thẩm quyền nào không phê duyệt dự án? Lý do nào để không duyệt? Tầm quan trọng, tính cấp bách thì đã quá rõ, đến vấn đề quan trọng nhất (nhất là thời điểm “nhạy cảm” này) là tiền nong thì vốn của địa phương tự bỏ ra, tự xoay sở mới là chủ yếu cơ mà? Vậy là qua được cửa ải gian nan nhất trong quy trình.

Có điều, người làm ra cái quy trình trên có thể cũng chưa kịp nghĩ đến việc bổ sung một khiếm khuyết khác đó là nếu cứ phê duyệt rồi để cho địa phương “bóc ngắn cắn dài”, “ăn” hết đất thì họ còn trông vào cái gì nữa để có vốn cho những dự án cấp bách khác bây giờ và sau này, không lẽ lại để họ quay ra “ăn vạ” ngân sách trung ương? Khả năng này là lớn, vì có những tỉnh nghèo nhưng vẫn cố xây trụ sở và các công trình hoành tráng như tượng đài, để rồi thường xuyên nhận cứu đói, nhận ngân sách trung ương cho các dự án đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Nếu là một quy trình đúng và tốt thì việc xây trụ sở và tượng đài này sẽ phải xếp hàng chờ cho đến khi tất cả các dự án tốt và cấp bách khác như xây bệnh viện, trường học, hạ tầng nông thôn, dạy nghề và tạo việc làm v.v... được hoàn tất.
Cứ như thế từ ở cấp địa phương, và cứ như thế ở nhiều dự án chi tiêu tương tự dồn lên cấp trung ương, được phê duyệt, hình thành nên dự toán chi ngân sách, và phải được Quốc hội phê duyệt. Đến đây thì cũng có nhiều chỉ trích từ công luận rằng Quốc hội cũng phải có trách nhiệm khi cứ bấm nút phê duyệt khi (biết rằng) ngân sách vẫn bị tiêu xài lãng phí. Nhưng trách thế thì hơi... oan cho đại biểu Quốc hội. Quy trình ngân sách là vậy, và đại biểu cũng đâu có biết làm gì hơn khi Chính phủ trình ra một bản dự toán ngân sách vắn tắt với những hạng mục chi lớn (chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển v.v...) chứ đâu có kèm theo một bản danh sách hàng nghìn, chục nghìn dự án chi tiêu từ địa phương đổ lên trung ương đâu? Và cho dù có chăng nữa thì đại biểu Quốc hội làm sao mà “cãi” lại được cả một quy trình lập và duyệt dự án “chặt chẽ, hiệu quả...., theo đúng các quy định của pháp luật..., quán triệt chủ trương tiết kiệm ngay từ khâu lập dự toán...” (Thông tư 102), như được lấy ví dụ trong các dự án xây trụ sở ở bài này.

Vậy thì điều mà đại biểu có thể làm được chỉ còn là nâng lên đặt xuống con số dự toán này theo tinh thần sao cho càng tiết kiệm, càng thấp càng... đỡ áy náy. Nhưng cách này cũng không ổn vì muốn nâng lên đặt xuống thì cũng phải có cơ sở, không thể nói suông được. Mà cơ sở thì Chính phủ nắm quá chắc, vì đã làm theo đúng quy trình mà chính Quốc hội thông qua.
Lại có điều rằng người làm ra cái quy trình này có thể cũng chưa kịp nghĩ đến việc bổ sung một khiếm khuyết nữa trong quy trình là Quốc hội chẳng cần phải tranh cãi (với Chính phủ) con số thu phải từng này, chi phải từng này, thâm hụt năm tới chỉ được phép là bây nhiêu của GDP v.v... mà chỉ cần quy định rằng Chính phủ chỉ được phép có thâm hụt không quá, ví dụ, 5% GDP; nếu quá thì (ai đó cụ thể trong) Chính phủ phải chịu trách nhiệm (cụ thể như thế nào đó, ví dụ, mất chức), và/hoặc Chính phủ phải đóng cửa hoạt động trong một thời gian (như ở Mỹ chẳng hạn), và không có ngoại lệ, cũng như không có tình trạng chẳng ai bị làm sao cả. Quy trình mà làm được thế thì may ra mới mong có chuyển biến về chi tiêu ngân sách, từ trên (áp) xuống dưới.

Wednesday 11 November 2015

Tác động của TPP nhìn từ chương Dịch vụ tài chính (Bài đăng trên CafeF, 11/11/2015)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/tac-dong-cua-tpp-nhin-tu-chuong-dich-vu-tai-chinh-20151111105348798.chn


Chương Dịch vụ tài chính có các cam kết mới trong ngành dịch vụ tài chính và cũng rất được chào đón bởi các các tổ chức tài chính ở các nước thành viên phát triển như Mỹ, Canada và Úc nơi có ngành tài chính đã phát triển mạnh và đang tích cực tìm kiếm thêm các cơ hội để xâm nhập sâu hơn vào các thị trường trong khu vực có tiềm năng tăng trưởng cao như Malaysia, Việt Nam và Singapore. TPP càng có ý nghĩa với những nước có thế mạnh về dịch vụ tài chính như Canada nhưng lại chưa có một thỏa thuận thương mại tự do song phương nào với Malaysia, Việt Nam và Singapore.


Chương Dịch vụ tài chính lặp lại cam kết của các nước thành viên trong việc tuân thủ các nguyên tắc cốt lõi như đã nêu ở các chương trước, gồm nguyên tắc đối xử quốc gia, đối xử tối huệ quốc, và tiếp cận thị trường.


Về đối tượng tham gia và loại hình dịch vụ tài chính xuyên biên giới, chương này quy định các nước phải cho phép, theo các điều khoản đối xử quốc gia, các nhà cung cấp dịch vụ tài chính xuyên biên giới của một nước thành viên khác cung cấp dịch vụ tài chính trên lãnh thổ của mình. Những dịch vụ tài chính này được quy định trong Phụ lục về Thương mại xuyên biên giới của chương này. Nước thành viên cũng phải cho phép công dân cư trú, không cư trú của mình hay những người đang ở trong lãnh thổ của mình được mua dịch vụ tài chính của các nhà cung cấp dịch vụ tài chính xuyên biên giới ở một nước thành viên khác.


Đối với việc cung cấp dịch vụ tài chính mới, chương này quy định các nước thành viên cũng phải cho phép các tổ chức tài chính của nước thành viên khác cung cấp một dịch vụ tài chính mới như họ cho phép các tổ chức tài chính của mình được cung cấp, trong cùng hoàn cảnh giống nhau, mà không được sửa đổi luật hiện hành hay đưa ra luật mới. Tuy vậy, một nước thành viên được phép quy định hình thái pháp lý và tổ chức qua đó dịch vụ tài chính mới sẽ được cung cấp. Họ cũng được phép yêu cầu các tổ chức tài chính này xin phép cung cấp dịch vụ đó, nhưng chỉ được từ chối cấp phép với những lý do thận trọng (bảo đảm an toàn cho hệ thống tài chính).


Đối với nhân sự quản lý cấp cao và thành viên ban giám đốc, chương Dịch vụ tài chính cấm các nước thành viên ra những quy định như phải là người với quốc tịch nào đó, hay là công dân và/hoặc cư trú tại nước đó.


Về các biện pháp không tương thích, chương này quy định một số nguyên tắc cốt lõi như đối xử quốc gia, tối huệ quốc, thương mại xuyên biên giới và nhân sự cấp cao không áp dụng với các biện pháp không tương thích hiện thời và sự sửa đổi các biện pháp đó theo các quy định trong các phụ lục. Các biện pháp không tương thích quy định ở các chương khác như Đầu tư, Thương mại dịch vụ xuyên biên giới, và Sở hữu trí tuệcó thể khác với các biện pháp không tương thích ở chương này.


Nhằm cân bằng với quyền tự chủ về quy chế trong nước cho chính phủ nước thành viên, chương này đưa ra các loại trừ và nhấn mạnh rằng các nước thành viên được đưa ra và duy trì các biện pháp thận trọng như biện pháp bảo vệ người gửi tiền, nhà đầu tư, người mua bảo hiểm... để bảo đảm an toàn và sự toàn vẹn của hệ thống tài chính. Chương này và một số chương khác cũng không được áp dụng đối với các biện pháp pháp lý được áp dụng chung không mang tính phân biệt đối xử bởi các cơ quan chức năng của nước sở tại nhằm theo đuổi các mục tiêu về tỷ giá, tín dụng, tiền tệ, hay những biện pháp chế tài nhằm bảo đảm sự tuân thủ pháp luật không mâu thuẫn với chương này và không mang tính tùy tiện, phân biệt.


Về sự công nhận, chương này quy định các nước khi áp dụng những biện pháp được quy định trong chương này có thể công nhận các biện pháp thận trọng của một nước khác, và có cơ chế để chia sẻ thông tin giữa các bên.


Về tính minh bạch và việc quản lý một số biện pháp, trong chương này các thành viên cam kết đảm bảo tính minh bạch về quy chế trong các dịch vụ tài chính, đồng thời các biện pháp áp dụng chung sẽ được quản lý hợp lý, khách quan và công bằng.


Về hệ thống thanh toán và thanh toán bù trừ, chương này quy định nước thành viên phải cho phép các tổ chức tài chính của nước thành viên khác tiếp cận các hệ thống thanh toán và thanh toán bù trừ được điều hành bởi cơ quan chức năng của mình, và tiếp cận các nguồn vốn chính thức trong điều kiện kinh doanh bình thường. Tuy nhiên, điều khoản này không đòi hỏi quyền được tiếp cận các nguồn vốn của người cho vay cuối cùng (ví dụ, ngân hàng trung ương) của nước sở tại.


Nhận thức được tầm quan trọng của việc duy trì và phát triển các thủ tục pháp lý giúp các nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm hợp pháp mau chóng được chào bán các dịch vụ bảo hiểm, các bên cam kết trong chương này xây dựng các thủ tục pháp lý: cho phép đưa ra các sản phẩm trừ khi các sản phẩm này bị cấm trong một thời gian hợp lý; không yêu cầu phải có phê duyệt hay cho phép với các loại hình bảo hiểm ngoài loại bảo hiểm bán cho cá nhân hoặc bảo hiểm bắt buộc; hay không áp đặt các giới hạn về số lượng hay tần suất tung ra sản phẩm. Nếu nước thành viên duy trì thủ tục buộc phải có phê duyệt sản phẩm thì nước này phải cố găng để duy trì hay cải tiến các thủ tục này.


Để phối hợp giám sát việc thực thi chương này, cũng như xem xét các vấn đề liên quan đến dịch vụ tài chính mà một bên đưa ra, cũng như tham gia giải quyết các tranh chấp, các bên thống nhất thành lập một ủy ban gọi là Ủy ban dịch vụ tài chính, và mỗi bên cử một quan chức trong lĩnh vực dịch vụ tài chính làm thành viên tham gia ủy ban này.
Về tham vấn, chương này quy định một thành viên có quyền yêu cầu tham vấn bằng văn bản cho một bên khác về một vấn đề liên quan đến dịch vụ tài chính, và bên kia phải tích cực xem xét để có thể tổ chức tham vấn. Kết quả tham vấn sẽ được báo cáo lên Ủy ban dịch vụ tài chính.


Về giải quyết tranh chấp, phần lớn trường hợp tranh chấp sẽ được áp dụng bởi các điều khoản của chương Giải quyết tranh chấp. Chương Dịch vụ tài chính này cũng có các quy định liên quan đến những trường hợp khiếu kiện của một nhà đầu tư trong dịch vụ tài chính, và ai, hay tổ chức nào sẽ phải tiếp nhân, xử lý và đáp ứng, và như thế nào.


Tóm lại, bằng việc hạ thấp các rào cản tiếp cận và phát triển, cho phép chào bán các dịch vụ tài chính mới, tăng cường minh bạch hóa quy chế và luật lệ, tăng cường trao đổi giữa các cơ quan chức năng của các bên, thành lập Ủy ban dịch vụ tài chính để thúc đẩy trao đổi và hợp tác và ngăn chặn và giải quyết các rào cản tiếp cận không cần thiết, bảo vệ nhà đầu tư dịch vụ tài chính trước các nguy cơ như bị trưng thu, bị đối xử phân biệt, và bị hạn chế trong chuyển tiền ra nước ngoài...chương Dịch vụ tài chính sẽ mang đến những cơ hội kinh doanh mới và có thể dự đoán được cho các nhà cung cấp dịch vụ tài chính trong khu vực.


Mặt khác, chương này vẫn bảo đảm quyền của các cơ quan chức năng áp dụng các biện pháp để bảo vệ sự lành mạnh của hệ thống tài chính mà không vi phạm các điều khoản TPP, cũng như đảm bảo tự chủ của các cơ quan chức năng trong việc đặt ra các yêu cầu để hạn chế các tổ chức tài chính chấp nhận rủi ro cao để theo đuổi lợi nhuận, không làm phương hại đến người gửi tiền và duy trì được sự ổn định của hệ thống tài chính của nước thành viên sở tại. Ngoài ra, chương này cũng thiết lập một khuôn khổ hữu hiệu để giải quyết các tranh chấp đặc thù trong ngành dịch vụ tài chính.

Tuesday 10 November 2015

Tác động của TPP lên môi trường đầu tư nhìn từ chương Đầu tư (Bài đăng trên CafeF, 11/11/2015)

http://cafef.vn/vi-mo-dau-tu/tac-dong-cua-tpp-len-moi-truong-dau-tu-nhin-tu-chuong-dau-tu-20151110110313252.chn

Chương Đầu tư trong TPP nhằm mục đích bảo vệ việc đầu tư của các nhà đầu tư của một nước thành viên TPP trên lãnh thổ của một thành viên khác. Chương Đầu tư của TPP có những tương đồng và khác biệt so với các thỏa thuận đầu tư quốc tế song phương và đa phương khác.

Tương đồng

Cũng giống như các thỏa thuận đầu tư quốc tế khác, chương Đầu tư của TPP quy định các nước thành viên sở tại phải tạo lập một môi trường đầu tư hấp dẫn thông qua thực thi các tiêu chuẩn về bảo vệ nhà đầu tư như đối xử bình đẳng và công bằng, và bảo vệ toàn bộ và an toàn cho nhà đầu tư. Các nước thành viên cũng phải bồi thường cho nhà đầu tư khi quốc hữu hóa hoặc trưng thu.

Và cũng giống như cácthỏa thuận đầu tư quốc tế khác, TPP cho phép nhà đầu tư được quyền kiện nhà nước sở tại ra tòa trọng tài quốc tế và trao quyền cho các tòa trọng tài quốc tế ra các phán quyết mang tính ràng buộc về bồi thường cho nhà đầu tư khi các nhà nước sở tại hoặc các tổ chức của họ vi phạm thỏa thuận. Và nhà đầu tư có quyền lựa chọn tham gia phân xử tại Trung tâm quốc tế giải quyết các tranh chấp đầu tư (ICSID) hay các tổ chức và luật lệ phân xử khác.

Chương Đầu tư của TPP có các quy định cơ bản về bảo vệ nhà đầu tư như phần lớn thỏa thuận đầu tư quốc tế khác, bao gồm:
- Đối xử bình đẳng và công bằng, là nguyên tắc đòi hỏi nhà nước sở tại ít nhất không được phép có những hành vi đối với nhà đầu tư mang tính tùy tiện, bất công, bất chính, phân biệt, hoặc những hành vi không “đúng quy trình” hay thiếu minh bạch.
- Đối xử quốc gia và Tối huệ quốc (MFN), là nguyên tắc bảo đảm môi trường bình đẳng cho nhà đầu tư và các khoản đầu tư của họ, và phải được bồi thường khi bị phân biệt đối xử.
-Nhà nước sở tại không những không được phân biệt đối xử nhà đầu tư nước ngoài một cách bất lợi so với nhà đầu tư trong nước mà còn không được phân biệt đối xử  họ với nhà đầu tư nước ngoài đến từ các quốc gia (thành viên) khác.
-Cấm trưng thu mà không vì mục đích công cộng, không theo quy trình và không bồi thường. Bảo vệ toàn bộ và an toàn, là nguyên tắc bảo đảm rằng các tài sản và cá nhân liên quan đến các khoản đầu tư hợp pháp không bị xâm hại ở nước sở tại.
-Cấm “các yêu cầu thực hiện”, ví dụ như yêu cầu về hàm lượng nội địa hóa và tỷ lệ nội địa hóa công nghệ.
-Tự do chuyển tiền liên quan đến một khoản đầu tư, trừ một số trường hợp như nước sở tại muốn kiểm soát sự bất ổn định lưu chuyển vốn và các trường hợp liên quan đến khủng hoảng kinh tế.

Khác biệt

Chương Đầu tư của TPP có phạm vi áp dụng tiêu chuẩn đối xử bình đẳng và công bằng hẹp hơn các thỏa thuận đầu tư quốc tế khác. Thông thường,tiêu chuẩn đối xử bình đẳng và công bằng không đượcđịnh nghĩa rõ nhưngnó vẫn được hiểu là nhà đầu tư được quyền có một khuôn khổ pháp lý và kinh doanh có thể dự đoán được, và quyền này sẽ không cho phép nhà nước sở tại áp dụng luật lệ nào đó không đúng với kỳ vọng hợp lý của nhà đầu tư vào thời điểm họ đầu tư. Như vậy, và trên thực tế, tiêu chuẩn đối xử bình đẳng và công bằng đã trở thành nguyên nhân chính làm nảy sinh những bất đồng giữa nhà đầu tư và nhà nước.

Để tránh rủi ro này, chương Đầu tư của TPP định nghĩa các tiêu chuẩn đối xử bình đẳng và công bằng theo đó nhà đầu tư hợp lệ được quyền đối xử theo tiêu chuẩn tối thiểu của tập quán luật quốc tế. Như vậy, cho dù nhà nước sở tại có áp dụng các luật lệ trái với kỳ vọng hợp lý của nhà đầu tư thì điều này vẫn chưa đủ để cấu thành nên một hành vi vi phạm tiêu chuẩn đối xử bình đẳng và công bằng theo thỏa thuận. Để có cơ sở hơn thì cần có thêm một yếu tố nào đó, như sự tùy tiện hay phân biệt đối xử.

Đáng nói hơn, TPP chú trọng nhiều hơn đến sự bảo đảm cân bằng giữa các điều khoản bảo vệ nhà đầu tư và quyền chế tài của nhà nước sở tại. Có thể thấy điều này khi chương Đầu tư của TPP có một số điều khoản loại trừ nhằm bảo đảm sự tự chủ về quy chế cho nhà nước sở tại trong một số lĩnh vực như y tế công cộng, bảo vệ môi trường, và các tiêu chuẩn lao động.

Tuy TPP cũng cho phép nhà đầu tư là công dân của nước thành viên khác kiện nhà nước sở tại ra các tòa trọng tài quốc tế trong những trường hợp nhà nước sở tại có những biện pháp vi phạm các tiêu chuẩn bảo vệ đầu tư theo thỏa thuận làm phương hại đến đầu tư của nhà đầu tư đó, nhưng chương Đầu tư quy địnhnhững công cụrất hữu hiệu để ngăn chặn những lời khiếu kiện mang tính lạm dụng vàkhông đáng, đồng thời đảm bảo quyền chế tài của các nhà nước sở tại vì lợi ích công cộng, như về y tế, an toàn, và bảo vệ môi trường.

Những công cụ này bao gồm: rà soát nhanh những lời khiếu kiện không đáng, kèm với quyền tòa trọng tài cho bên thắng thế được hưởng phí luật sư; những quy định chi tiết về sự minh bạch, yêu cầu tòa trọng tài phân xử công khai và công bố tất cả các biên bảnliên quan đến phiên tòa; khả năng cho phép một bên thứ ba thân hữu với tòa (ví dụ như một tổ chức phi chính phủ) cho ý kiến phân xử; bồi thường thiệt hại (giới hạn ở bồi thường tổn thất về tiền, tức là tòa không được ra phán quyết phục hồi lại, yêu cầu nhà nước sở tại phục hồi lại một chính sách, thể chế pháp lý nào đó hay thay đổi một quy chế và luật lệ nào đó; xem xét lại phán quyết hoặc bằng các tòa trong nước hoặc bằng một ban xem xét quốc tế; các diễn giải chung mang tính ràng buộc của các điều khoản trong chương Đầu tư của TPP cũng mang tính ràng buộc trong một tòa án; và quyền của tòa trọng tài sử dụng các kết quả tố tụng trong các vụ kiện nảy sinh trong cùng một hoàn cảnh hay sự việc để tránh phải xử lại.

Điểm khác biệt khác nữa là, chương Đầu tư quy định các nước thành viên phải cung cấp thông tin chi tiết về đạo đức của trọng tài, sự trung lập và không thiên vị của họ, một vấn đề ngày càng được nhắc đến sau một loạt các vụ phân xử đầy tai tiếng bởi cáo buộc về đạo đức có vấn đề của trọng tài. Các thành viên tham gia đàm phán TPP tin tưởng rằng chương Đầu tư của TPP sẽ lập nên một “tiêu chuẩn vàng” trong lĩnh vực luật đầu tư quốc tế trên cơ sở các bài học rút ra từ các phiên tòa trong khuôn khổ các thỏa thuận đầu tư quốc tế hiện tại. Tuy vậy, công dụng thực tế của TPP trong việc bảo vệ hữu hiệu nhà đầu tư cần có thời gian kiểm chứng.

Monday 9 November 2015

Tác động của TPP nhìn từ chương Dệt may (Bài đăng trên CafeF, 9/11/2015)

http://cafef.vn/vi-mo-dau-tu/tac-dong-cua-tpp-nhin-tu-chuong-det-may-20151109083847623.chn


Không phải ngẫu nhiên mà TPP dành riêng một chương quy định cho một mặt hàng cụ thể, hàng dệt may, trong số vô vàn chủng loại hàng hóa được sản xuất và trao đổi thương mại trong khu vực.

Và cũng không phải ngẫu nhiên mà chương này được xếp ngay sau những chương quan trọng bậc nhất trong thỏa thuận TPP như chương Hàng hóa và chương Xuất xứ.


Điều này là do bởi tầm quan trọng của hàng dệt may đối với nền kinh tế của một số nước thành viên. Với Mỹ, tuy là một thị trường nhập khẩu ròng hàng dệt may nhưng đồng thời ngành này cũng tạo ra nhiều trăm nghìn việc làm trong lòng nước Mỹ với giá trị sản lượng lên tới nhiều chục tỷ USD, và đóng góp hàng chục tỷ USD kim ngạch xuất khẩu hàng năm.
Mỹ còn nhắm đến lợi ích mang lại từ những nước thành viên TPP như Việt Nam, công xưởng gia công chủ yếu hàng dệt may cho toàn khu vực, thông qua quy tắc xuất xứ “Từ sợi trở đi” để khuyến khích Việt Nam nếu muốn gia tăng xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ và các thị trường thành viên khác thì phải sử dụng các sản phẩm đầu vào cho ngành dệt may như bông, sợi, đặc biệt những mặt hàng có công nghệ cao (như vật liệu tổng hợp và sợi carbon), cũng như các sản phẩm công nghệ và dịch vụ trong ngành này... vốn là thế mạnh của Mỹ (nhất là sau khi tính thêm yếu tố thuế suất 0% so với mức thuế nhập khẩu cao đánh vào các sản phẩm đầu vào nhập khẩu ngoại khối).


Ngược lại, ngành này cũng là một mỏ vàng tiềm năng cho Việt Nam, và cũng là một trong những lý do chính để Việt Nam quyết tâm đàm phán và gia nhập TPP.


Chương Dệt may quy định việc xóa bỏ ngay lập tức thuế quan khi TPP có hiệu lực lên hàng dệt may nhập khẩu vào một nước thành viên từ các nước thành viên khác, trừ một số mặt hàng thuộc diện nhạy cảm cần có lộ trình xóa bỏ thuế theo thỏa thuận giữa các thành viên.
Điều kiện để được hưởng ưu đãi này là phải đáp ứng được quy tắc “Từ sợi trở đi”, yêu cầu hàng dệt may xuất khẩu trong khối phải sử dụng sợi và vải nội khối để được hưởng thuế suất ưu đãi TPP. Quy tắc này cũng là một bước cụ thể hóa quy tắc xuất xứ nói chung của TPP nhằm khuyến khích các nhà sản xuất thiết lập chuỗi cung ứng và sản xuất trong nội khối để tạo công ăn việc làm và thu nhập cho các chủ thể kinh tế liên quan trong các nước thành viên.


Có một số trường hợp loại trừ với quy tắc này khi nguồn cung cho một chủng loại sợi và vải nào đó từ nội khối không đủ cho nhu cầu sản xuất hàng may mặc trong nội khối. Khi đó, “Danh sách nguồn cung thiếu hụt” cho phép các nhà sản xuất sử dụng những sản phẩm tương ứng theo quy định có nguồn gốc từ bên ngoài khối mà vẫn được hưởng thuế suất ưu đãi TPP.


Với Việt Nam, có thể nói điều khoản về “Danh sách nguồn cung thiếu hụt” là một điều cứu rỗi lớn. Bởi, điểm yếu của ngành dệt may Việt Nam là ngành sản xuất sản phẩm thượng nguồn như sơ, tơ, sợi và vải rất kém phát triển so với ngành sản xuất hạ nguồn – may. Phần lớn sợi và vải cho ngành may mặc Việt Nam do đó được nhập khẩu, chủ yếu từ các nước phi thành viên TPP. Nếu cứ cứng nhắc áp dụng quy tắc “Từ sợi trở đi” thì dù thuế suất nhập khẩu đánh lên hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam là 0% thì Việt Nam cũng khó có thể tăng mạnh xuất khẩu sang các thị trường nội khối do hạn chế nguồn cung đầu vào sợi và vải có nguồn gốc nội khối.


Tuy vậy, sự cứu rỗi này không phải là vĩnh viễn. “Danh sách nguồn cung thiếu hụt” này chỉ có giá trị trong vòng 5 năm kể từ ngày TPP có hiệu lực, và là thời gian bắt buộc Việt Nam phải phát triển được một chuỗi sản xuất và cung ứng sản phẩm thượng nguồn ở quy mô lớn, thay thế phần lớn hàng nhập khẩu ngoại khối như tình trạng hiện tại, nếu muốn tối đa hóa lợi ích cho ngành này từ việc gia nhập TPP.


Trên thực tế, một phần đáng kể lợi ích tiềm năng từ việc gia tăng xuất khẩu vào thị trường TPP sẽ bị gặt hái bởi các doanh nghiệp FDI mà phần lớn đến từ những nước phi thành viên TPP như Trung Quốc, hiện đang tích cực đầu tư vào ngành sản xuất thượng nguồn ở Việt Nam. Nhưng về tổng thể, các nước thành viên TPP nhìn chung vẫn có lợi hơn so với khi chưa có TPP vì không chỉ người tiêu dùng của họ được dùng hàng dệt may với giá rẻ hơn (nhờ thuế suất nhập khẩu 0%) mà các doanh nghiệp dệt may của họ, trong đó có Việt Nam, vẫn giành thêm được một phần của chiếc bánh dệt may khi nguồn cung ngoại khối bị làm khó hơn bởi quy tắc “Từ sợi trở đi”.


Chương Dệt may cũng nhấn mạnh đến chuyện phối hợp hải quan giữa các nước thành viên và các nước thành viênđược thực thi những hành động thích ứng để phòng chống gian lận trong thương mại dệt may như buôn lậu, trốn thuế, hay gian lận về xuất xứ... nhằm hưởng lợi bất chính từ ưu đãi thuế quan TPP. Ngoài việc trao quyền cho hải quan của nước nhập khẩu làm việc với hải quan các nước thành viên đối tác, những hành động thích ứng có thể là yêu cầu nước thành viên đối tác cung cấp thông tin khi hải quan nước nhập khẩu có bằng chứng gian lận thương mại, và yêu cầu này phải được đáp ứng bởi nước đối tác, hoặc cũng có thể là cử nhân viên hải quan đến tận cơ sở của nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất tại nước thành viên xuất khẩu để kiểm tra xem có đúng là hàng hóa đó là hàng hóa TPP để hưởng thuế suất ưu đãi hay không...


Cũng giống như với mọi hiệp định thương mại tự do (FTA) khác, chương Dệt may cũng có những quy định về phòng vệ thương mại để một nước thành viên bảo vệ lợi ích quốc gia khi ngành dệt may của họ bị đe dọa nghiêm trọng bởi hàng nhập khẩu từ một nước thành viên khác. Trong những trường hợp như vậy thì nước thành viên bị thiệt hại có quyền khôi phục hoặc áp thuế suất nhập khẩu cao hơn để ngăn chặn hàng nhập khẩu. Hiển nhiên là điều khoản này có lợi nhất cho những nước thành viên nhập khẩu ròng lớn các sản phẩm dệt may, chủ yếu là các nước phát triển như Mỹ và Nhật, đồng thời là một mối đe dọa tiềm tàng cho những nước thành viên xuất khẩu ròng chủ chốt như Việt Nam.


Tóm lại, những điểm mới của chương Dệt may là có thêm quy định về “Danh sách nguồn cung thiếu hụt” tạo ra sự linh hoạt cần thiết trong việc đáp ứng quy tắc xuất xứ đồng thời vẫn thúc đẩy chuỗi sản xuất và cung ứng nội khối, và những quy định về phòng chống gian lận thương mạidựa trên những bài học rút ra từ các FTA khác, tạo điều kiện cho hải quan các nước ngăn chặn hữu hiệu các hành động trục lợi phi pháptrong ngành dệt may.

Tác động của TPP nhìn từ chương Quy tắc xuất xứ và Quy trình xác định xuất xứ (Bài đăng trên CafeF, 8/11/2015)

http://cafef.vn/vi-mo-dau-tu/tac-dong-cua-tpp-nhin-tu-chuong-quy-tac-xuat-xu-va-quy-trinh-xac-dinh-xuat-xu-20151108172021034.chn


Chương Quy định về xuất xứ  và Quy trình xác định xuất xứ (trong bài này được gọi tắt là chương Xuất xứ) trong TPP có các quy định về xuất xứ, xác định rõ thế nào là một hàng hóa có xuất xứ từ một thành viên TPP để được hưởng những lợi ích của TPP. Chương này cũng tạo ra một cơ chế để thực thi những quy định này. Nói cách khác, chương Xuất xứ này đảm bảo rằng mọi lợi ích của TPP chỉ dành cho các thành viên của nó. Bởi vậy, đây cũng là một chương rất quan trọng, mang tính cơ sở thiết yếu của TPP.


Trước tiên, chương Xuất xứ quy định một cách phổ quát rằng chỉ có những hàng hóa nào có xuất xứ từ, tức là được sản xuất một cách thực chất tại các nước thành viên, mới được hưởng mức thuế ưu đãi của TPP. Với mỗi loại hàng hóa cụ thể thì có quy định riêng về xuất xứ và quy trình cần thực hiện để chứng minh xuất xứ của hàng hóa đó là từ nước thành viên TPP.


Chương này nêu ra 3 định nghĩa dùng làm cơ sở để xác định một hàng hóa nào đó có phải là được sản xuất tại nước thành viên hay không. Theo định nghĩa thứ nhất, một hàng hóa được coi là có xuất xứ nội khối nếu nó được nuôi trồng, thu hái, hay đánh bắt được trong các nước thành viên. Theo đó, các sản phẩm như nông sản nuôi trồng hay cá đánh bắt được trên những con tầu của các nước thành viên sẽ được coi là có xuất xứ nội khối.


Với định nghĩa thứ hai, những hàng hóa nào được sản xuất bằng nguyên vật liệu có xuất xứ từ nội khối hoặc nguyên vật liệu thỏa mãn điều kiện về xuất xứ theo quy định để được hưởng ưu đãi thuế quan TPP thì cũng sẽ được coi là hàng hóa có xuất xứ nội khối. Định nghĩa thứ ba công nhận rằng hàng hóa nào thỏa mãn được điều kiện về xuất xứ áp dụng riêng cho hàng hóa đó như chủng loại và tỷ trọng nguyên vật liệu không có xuất xứ nội khối được sử dụng để sản xuất ra hàng hóa đó (hoặc những nguyên vật liệu này đã được gia công đáng kể để, về cơ bản, trở thành “hàng hóa TPP”) thì cũng sẽ được coi là hàng hóa có xuất xứ nội khối.


Chương Xuất xứ quy định các nước thành viên công nhận và đối xử như nhau với các nguyên vật liệu từ một thành viên nào đó như từ các thành viên khác khi những nguyên vật liệu này được dùng để sản xuất “hàng hóa TPP”. Như vậy, quy định này, còn được gọi là quy định về cộng gộp, có tác dụng khuyến khích các doanh nghiệp trong tổ chức chuỗi sản xuất và cung ứng nội khối thay vì sản xuất tại và sử dụng nguyên vật liệu được cung cấp từ bên ngoài khối.


Để tạo thêm công ăn việc làm và bảo vệ môi trường, chương Xuất xứ dành một điều khoản quy định và công nhận những vật liệu tái sử dụng có xuất xứ từ các nước thành viên và được dùng trong sản xuất một hàng hóa dưới dạng phục chế, tân trang như mới nào đó là vật liệu có xuất xứ nội khối để khuyến khích việc sản xuất nhiều hơn nữa các loại hàng hóa phục chế, tân trang này. Nhờ quy định này, các nhà sản xuất nội khối sẽ tăng cường sản xuất hàng phục chế, tân trang này thay vì đi nhập khẩu các vật liệu và linh kiện từ bên ngoài khối để sản xuất hàng mới tương ứng, làm lợi chung cho nền kinh tế của khối.


Do đặc thù về địa lý của các thành viên TPP, theo đó hàng hóa phải được trung chuyển qua một số địa điểm có thể nằm ngoài khu vực TPP trước khi đến tay người tiêu dùng nội khối, nên chương Xuất xứ có điều khoản quy định rằng các thành viên phải công nhận xuất xứ nội khối của hàng hóa nội khối kể cả khi hàng hóa này đã được trung chuyển qua một hay vài nước phi thành viên khác. Một số điều kiện kèm theo cho sự công nhận này là hàng hóa đó vẫn phải nằm trong kho ngoại quan của nước trung chuyển phi thành viên, không được gia công chế biến gì thêm ngoài những công đoạn như dỡ hàng, chất hàng lên tàu, nhập kho, dán nhãn và đóng dấu xuất xứ theo yêu cầu của nước nhập khẩu, hoặc các công đoạn bảo quản v.v...


Về quy trình xác định xuất xứ nội khối, nhằm giảm thiểu chi phí, thời gian và sự phức tạp trong khâu xác nhận xuất xứ cho các doanh nghiệp, đặc biệt cho những doanh nghiệp vừa và nhỏ, chương Xuất xứ đưa ra một hệ thống chung áp dụng trong toàn khối về việc chứng minh và kiểm chứng xuất xứ nội khối của hàng hóa để tạo thuận lợi cho nhà nhập khẩu được hưởng thuế ưu đãi TPP khi có đầy đủ chứng từ theo quy định. Về phía cơ quan hải quan của nước nhập khẩu thành viên, họ được sử dụng các công cụ quy định trong chương Xuất xứ theo cách thích hợp nhất để kiểm chứng xuất xứ hàng hóa nhập khẩu, như yêu cầu cung cấp thông tin từ nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu, nhà sản xuất hay được đến thị sát cơ sở của nhà xuất khẩu hay sản xuất hàng hóa đó.


Ngoài ra, nhìn trước khả năng sẽ có thay đổi trong tương lai về dây chuyền cung ứng và quy trình sản xuất, chương Xuất xứ quy định các nước thành viên sẽ nhóm họp thường xuyên để đưa ra các cải thiện về công tác quản lý xuất xứ hàng hóa cho phù hợp với thực tiễn.


Tóm lại, một trong những điểm mới trong quy định về xuất xứ trong khuôn khổ TPP là việc công nhận sự cộng gộp các công đoạn sản xuất hay nguyên vật liệu được tạo ra và sử dụng tại các nước thành viên trong cấu thành của một hàng hóa nào đó là các công đoạn hay vật liệu nội khối để hàng hóa đó được hưởng ưu đãi thuế quan TPP tại nước nhập khẩu trong khối. Quy định này sẽ khuyến khích và giữ chân các nhà sản xuất của các thành viên TPP tổ chức dây chuyền sản xuất và cung ứng ngay tại khối thay vì sản xuất hoặc nhập khẩu nguyên vật liệu bên ngoài khối, từ đó tạo thêm công ăn việc làm và thu nhập cho các ngành sản xuất hàng hóa này ở các nước thành viên.


Một điểm mới khác trong chương Xuất xứ là quy định rõ một quy trình đơn giản và minh bạch để chứng minh xuất xứ nhằm hưởng ưu đãi thuế quan TPP. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng và là khác biệt lớn với các hiệp định thương mại tự do (FTA) có các nước thành viên cũng đồng thời là thành viên của các FTA khác với những quy định khác biệt về xuất xứ. Sự khác biệt trong quy định về xuất xứ này nhiều lúc gây khó khăn cho việc xin hưởng ưu đãi thuế FTA của nhà nhập khẩu, ví dụ, với những hàng hóa trải qua các công đoạn chế biến tại các nước thành viên của các FTA khác, không có liên quan với nhau. Khắc phụ được trở ngại về chứng minh xuất xứ này sẽ là động lực lớn thúc đẩy dòng chảy sản xuất và thương mại và nhờ đó tăng cường thịnh vượng trong khối TPP.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).