Thursday 12 November 2015

Chi ngân sách nhìn từ việc xây trụ sở (Bài đăng trên TBKTSG, 12/11/2015, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/138289/Chi-ngan-sach-nhin-tu-viec-xay-tru-so.html

Ngân sách đã đến hồi gay cấn khi ngay cả đến vay để đảo nợ bù đắp thâm hụt dường như cũng đã trở nên bất khả thi. Thế nhưng, các giải pháp được đưa ra vẫn chỉ là “ăn đong”, giật từ chỗ nọ vá vào chỗ kia trong khi việc cần làm là cắt giảm chi tiêu từ ngân sách thì chẳng thấy có động tĩnh gì mấy, ngoài một vài tiếng nói lạc lõng về chuyện này.
Cắt giảm chi tiêu khó thế ư? Xin trả lời luôn (hoặc xin lặp lại) là không thể, cho dù có thể những người có trách nhiệm rất muốn làm, nếu mọi việc vẫn cứ “đúng quy trình” như hiện tại!

Để minh họa cho kết luận không có gì là mới và giật gân này, không cần lấy ví dụ để nói về “nhiệm vụ bất khả thi” là cắt giảm biên chế, hãy lấy ví dụ về phong trào xây trụ sở làm việc hoặc trụ sở hành chính tập trung. Báo chí đưa tin hiện các địa phương cả nước đang đua nhau xây trụ sở hoành tráng, ít thì vài trăm tỷ, nhiều tỷ cả chục ngàn tỷ. Và như một phản ứng tất nhiên, người ủng hộ phong trào này phần lớn là quan chức, tuy ít về số lượng nhưng ở thế áp đảo vì có bảo bối là “đúng quy trình”, và bởi vậy nên bất chấp bị phản đối thì hàng loạt trụ sở vẫn đã và sẽ thi nhau mọc lên. Còn người phản đối thì áp đảo về số lượng (vì có nhiều dân thường), với lý do phần lớn là ngân sách đang khó khăn thì không nên lãng phí, chưa cần thiết. Lý do này là hợp lý nhưng rất tiếc là không có cái quy trình nào quy định là nếu có những phản đối từ công luận như thế này thì phải dừng/thôi các khoản chi tiêu có thể coi là lãng phí đó đi!
Cũng giống như mọi khoản chi tiêu khác từ ngân sách, để hợp pháp hóa và xin được tiền ngân sách thì việc đầu tiên là phải làm cho việc chi tiêu này trở nên quan trọng, không thể không đừng được. Và việc này đã có cả một quy trình được quy định thành (nhiều văn bản) luật hẳn hoi. Ở cấp lập và xin duyệt dự án xây dựng trụ sở, thế nào trong đơn xin duyệt dự án cũng có những lý do rất thương tâm (và đáng sợ nữa) như trụ sở đã xuống cấp nghiêm trọng, không đảm bảo an toàn (khéo mà sụp đổ sau một ngày mưa nào đó), và/hoặc rất nhân văn, cao cả như để thực hiện một cửa liên thông, để giảm phiền hà cho dân chúng khi làm các thủ tục hành chính v.v...

Quy trình là vậy, nhưng có thể những người làm ra cái quy trình này chưa kịp nghĩ đến việc bổ sung một khiếm khuyết trong cái bước đầu tiên của quy trình này là nếu nhỡ khi có nhiều cái dự án, nhiều việc phải chi, không thể không đừng, cùng một lúc được đưa ra thì sao? Chẳng hạn, nói là trụ sở xuống cấp, không an toàn nên cần phải xây, vậy những địa bàn của địa phương đó có những cái cầu cũ nát, có thể sập bất cứ lúc nào cũng phải xây lại ngay thì sao? Như vậy, trong lúc cái khiếm khuyết này cứ tồn tại sờ sờ ra đó thì rõ ràng việc muốn và xin làm cái gì hoàn toàn là do một số ít quan chức có quyền lực và lợi ích liên quan ở địa phương quyết định, và kết quả của quyết định này không nhất thiết phản ánh quyền lợi, lợi ích của số đông là dân chúng nói chung và ngân sách nói riêng.
Công đoạn tiếp theo trong quy trình đang nói đến là phê duyệt dự án đầu tư bởi cấp cao hơn, lên đến cả các cơ quan bộ và trên đó nữa. Cơ sở để xem xét trước tiên là các quy hoạch, kế hoạch đầu tư dài hạn. Nếu các dự án trụ sở này đã nằm trong quy hoạch, kế hoạch đầu tư, xây dựng cơ bản được duyệt từ những năm trước thì đây là một điểm cộng lớn, xác suất được phê duyệt là rất cao vì đã thỏa mãn một yêu cầu quan trọng trong quy trình. Mà nếu không có thì cũng không là chuyện lớn khi người ta gạch chân những từ trong dự án như “xuống cấp nghiêm trọng” (không cho xây, mà sửa cũng không được, nếu để xảy ra tai nạn chết người thì ai chịu trách nhiệm?), “để thực hiện một cửa liên thông” (không cho xây thì sao mà cải cách hành chính được?).

Bước tiếp theo trong công đoạn xét duyệt cũng quan trọng không kém là xem xét nguồn vốn, khả năng cân đối vốn. Quy trình nêu rõ là chỉ bố trí vốn ngân sách khởi công mới các dự án thật sự cấp bách, đáp ứng điều kiện: nằm trong quy hoạch đã được duyệt, đã xác định rõ nguồn vốn và khả năng cân đối vốn ở từng cấp ngân sách (Thông tư 102/2015 TT-BTC). Theo quy trình này thì dự án xây trụ sở nếu không có trong quy hoạch đã được duyệt sẽ hơi có vấn đề một chút, nhưng quy trình này không loại trừ các dự án được bổ sung vào quy hoạch vì tính cấp bách của nó như nói ở trên. Còn về nguồn vốn và cân đối vốn thì cũng không thành vấn đề vì trong dự án xây trụ sở người lập đã chủ trương “thiếu ngân sách thì đổi đất” (ngụ ý không phải cấu véo nhiều vào những khoản chi cần thiết khác, và vốn thì địa phương lại “nhiều như đất”!).
Đại loại vậy, và nếu cứ đúng quy trình như thế thì cấp có thẩm quyền nào không phê duyệt dự án? Lý do nào để không duyệt? Tầm quan trọng, tính cấp bách thì đã quá rõ, đến vấn đề quan trọng nhất (nhất là thời điểm “nhạy cảm” này) là tiền nong thì vốn của địa phương tự bỏ ra, tự xoay sở mới là chủ yếu cơ mà? Vậy là qua được cửa ải gian nan nhất trong quy trình.

Có điều, người làm ra cái quy trình trên có thể cũng chưa kịp nghĩ đến việc bổ sung một khiếm khuyết khác đó là nếu cứ phê duyệt rồi để cho địa phương “bóc ngắn cắn dài”, “ăn” hết đất thì họ còn trông vào cái gì nữa để có vốn cho những dự án cấp bách khác bây giờ và sau này, không lẽ lại để họ quay ra “ăn vạ” ngân sách trung ương? Khả năng này là lớn, vì có những tỉnh nghèo nhưng vẫn cố xây trụ sở và các công trình hoành tráng như tượng đài, để rồi thường xuyên nhận cứu đói, nhận ngân sách trung ương cho các dự án đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Nếu là một quy trình đúng và tốt thì việc xây trụ sở và tượng đài này sẽ phải xếp hàng chờ cho đến khi tất cả các dự án tốt và cấp bách khác như xây bệnh viện, trường học, hạ tầng nông thôn, dạy nghề và tạo việc làm v.v... được hoàn tất.
Cứ như thế từ ở cấp địa phương, và cứ như thế ở nhiều dự án chi tiêu tương tự dồn lên cấp trung ương, được phê duyệt, hình thành nên dự toán chi ngân sách, và phải được Quốc hội phê duyệt. Đến đây thì cũng có nhiều chỉ trích từ công luận rằng Quốc hội cũng phải có trách nhiệm khi cứ bấm nút phê duyệt khi (biết rằng) ngân sách vẫn bị tiêu xài lãng phí. Nhưng trách thế thì hơi... oan cho đại biểu Quốc hội. Quy trình ngân sách là vậy, và đại biểu cũng đâu có biết làm gì hơn khi Chính phủ trình ra một bản dự toán ngân sách vắn tắt với những hạng mục chi lớn (chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển v.v...) chứ đâu có kèm theo một bản danh sách hàng nghìn, chục nghìn dự án chi tiêu từ địa phương đổ lên trung ương đâu? Và cho dù có chăng nữa thì đại biểu Quốc hội làm sao mà “cãi” lại được cả một quy trình lập và duyệt dự án “chặt chẽ, hiệu quả...., theo đúng các quy định của pháp luật..., quán triệt chủ trương tiết kiệm ngay từ khâu lập dự toán...” (Thông tư 102), như được lấy ví dụ trong các dự án xây trụ sở ở bài này.

Vậy thì điều mà đại biểu có thể làm được chỉ còn là nâng lên đặt xuống con số dự toán này theo tinh thần sao cho càng tiết kiệm, càng thấp càng... đỡ áy náy. Nhưng cách này cũng không ổn vì muốn nâng lên đặt xuống thì cũng phải có cơ sở, không thể nói suông được. Mà cơ sở thì Chính phủ nắm quá chắc, vì đã làm theo đúng quy trình mà chính Quốc hội thông qua.
Lại có điều rằng người làm ra cái quy trình này có thể cũng chưa kịp nghĩ đến việc bổ sung một khiếm khuyết nữa trong quy trình là Quốc hội chẳng cần phải tranh cãi (với Chính phủ) con số thu phải từng này, chi phải từng này, thâm hụt năm tới chỉ được phép là bây nhiêu của GDP v.v... mà chỉ cần quy định rằng Chính phủ chỉ được phép có thâm hụt không quá, ví dụ, 5% GDP; nếu quá thì (ai đó cụ thể trong) Chính phủ phải chịu trách nhiệm (cụ thể như thế nào đó, ví dụ, mất chức), và/hoặc Chính phủ phải đóng cửa hoạt động trong một thời gian (như ở Mỹ chẳng hạn), và không có ngoại lệ, cũng như không có tình trạng chẳng ai bị làm sao cả. Quy trình mà làm được thế thì may ra mới mong có chuyển biến về chi tiêu ngân sách, từ trên (áp) xuống dưới.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).