Saturday 7 November 2015

Tác động của TPP nhìn từ chương Đối xử quốc gia và Tiếp cận thị trường hàng hóa (Bài đăng trên CafeF, 7/11/2015)


http://cafef.vn/vi-mo-dau-tu/tac-dong-cua-tpp-nhin-tu-chuong-doi-xu-quoc-gia-va-tiep-can-thi-truong-hang-hoa-20151107161259889.chn


TPP hướng tới tạo lập một sân chơi bình đẳng cho doanh nghiệp và người lao động của mỗi nước thành viên trên thị trường các nước thành viên khác. Bằng việc xóa bỏ thuế nhập khẩu và xuất khẩu (hoặc cắt giảm theo lộ trình) cho các hàng hóa lưu thông giữa các nước thành viên, TPP được kỳ vọng sẽ đảm bảo mọi chủ thể kinh tế từ nông dân đến chủ trang trại, nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ, và các doanh nghiệp nhỏ ở mỗi quốc gia thành viên đều có cơ hội cạnh tranh bình đẳng với các đối thủ ở các nước thành viên khác trên một thị trường cực kỳ rộng lớn gồm 12 nước thành viên của khu vực kinh tế Châu Á Thái Bình Dương năng động.


Nếu cạnh tranh thành công ở một hay nhiều nhóm hàng hóa nào đó thì các quốc gia thành viên sẽ có điều kiện mở rộng sự hiện diện của các nhóm hàng hóa đóng mác “Made in...” ở nước mình ra toàn bộ khu vực TPP và nhờ đó tạo thêm công ăn việc làm và thu nhập cho công dân của mình. Nói cách khác, TPP sẽ tạo ra cái thế “Win-Win” (cùng thắng) cho tất cả các thành viên. Vậy ai sẽ là người thua thiệt? Đó là nhà xuất khẩu ở các nước phi thành viên TPP vốn đang xuất khẩu vào khu vực TPP. Khi TPP hình thành và xóa bỏ hàng rào thuế quan nội khối, hàng hóa xuất khẩu của các nước bên ngoài khối đột nhiên trở nên bất lợi so với hàng hóa tương đương sản xuất trong nội khối dẫn đến sụt giảm khối lượng và kim ngạch xuất khẩu vào thị trường TPP.


Ngược lại, nếu yếu thế, nhiều mặt hàng hiện đang được sản xuất và được bảo hộ bởi hàng rào thuế quan cao trong mỗi nước thành viên sẽ phải đối mặt với nguy cơ bị đào thải bởi hàng nhập khẩu từ các nước thành viên khác. Do đó, công ăn việc làm và thu nhập của các ngành và doanh nghiệp tương ứng sẽ bị ảnh hưởng nặng nề. Bởi vậy, có thể nói TPP (hay bất cứ một thỏa thuận thương mại tự do – FTA – nào khác, ở mức độ thấp hơn) buộc các nước thành viên phải tái cấu lại nền kinh tế của họ, và họ có phát triển được hay không là nhờ có phát huy những thế mạnh của mình hay không.


Với Việt Nam, lợi thế có thể thấy ngay khi TPP có hiệu lực là nó sẽ xóa bỏ ngay hàng rào thuế quan hiện đang ở mức tương đối cao cho một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào các nước thành viên TPP.  Theo một tính toán của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách phối hợp với JICA thì những mặt hàng này là gạo (có mức thuế suất trung bình 33,5% vào năm 2011), sản phẩm sữa (22,3%), sản phẩm giày dép (14,6%), quần áo (10,8%) và dệt (8,4%). Khi chưa có TPP, ảnh hưởng bất lợi của những mức thuế suất cao như vậy lên những hàng hóa xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào thị trường trong khối càng được khuyếch đại hơn khi nhiều nước trong khối có những FTA với các nước và khu vực khác, trong và ngoài TPP, ví dụ như NAFTA, và nhờ đó hàng hóa xuất khẩu giữa các nước thành viên của các FTA này đã và đang được hưởng thuế suất 0% tạo nên ưu thế áp đảo so với hàng xuất khẩu của Việt Nam.


Tương tự như vậy trên phương diện nhập khẩu. Khi TPP có hiệu lực, Việt Nam sẽ phải xóa bỏ ngay hàng rào thuế quan cho một số nhóm hàng hóa nhập khẩu từ các nước thành viên hiện đang có thuế suất nhập khẩu cao như gạo (trung bình là 24,4% vào năm 2011, cũng theo nguồn tính toán nêu trên), thịt gia súc (13,6%), các loại thịt khác (17,5%), thực phẩm chế biến (12,1%), quần áo (13,2%), sản phẩm gỗ (6,1%) và các hàng hóa chế tạo khác (6,5%)...


TPP đã dành hẳn một chương, Đối xử quốc gia và Tiếp cận thị trường (gọi tắt là chương Hàng hóa), quy định những nghĩa vụ cơ bản cho các nước thành viên TPP xóa bỏ thuế quan cho những hàng hóa nhập khẩu từ nội khối đáp ứng điều kiện hưởng thuế 0% và đối xử với các hàng hóa này như với hàng hóa sản xuất trong nước (đối xử quốc gia). Việc xóa bỏ hàng rào thuế quan sẽ diễn ra ngay lập tức với phần lớn hàng hóa nhập khẩu, và theo lộ trình với một số hàng hóa khác.


Để ngăn chặn tình trạng “lách luật” bởi các nước thành viên khi họ một mặt xóa bỏ hàng rào thuế quan nhưng mặt khác lại tìm cách duy trì hay mở rộng hàng rào bảo hộ phi thuế quan, chương Hàng hóa áp dụng các nghĩa vụ về hạn chế xuất nhập khẩu của WTO. Thêm vào đó, chương này cấm việc cấp giấy phép nhập khẩu có điều kiện theo tình trạng hoạt động (ví dụ, để được nhập khẩu với thuế suất 0% thì nhà nhập khẩu phải sử dụng hàng hóa hay dịch vụ trong nước ở mức nào đó, hoặc phải xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ ở mức nào đó), hoặc nhà xuất khẩu phải có quan hệ hợp đồng với nhà phân phối trong nước của nước thành viên đó.


Vì việc cấp phép nhập khẩu là một quá trình tốn kém và là một trở ngại cho nhà xuất khẩu, do đó có thể trở thành một rào cản phi thuế quan nên chương Hàng hóa quy định các nước thành viên phải thông báo và cập nhật cho các thành viên khác về quy trình cấp phép nhập khẩu cụ thể. Họ cũng không thể tự ý áp dụng giấy phép nhập khẩu nếu không thông báo về nó và lý do tại sao lại áp dụng nó cho các thành viên khác.


Chương Hàng hóa cũng yêu cầu các nước thành viên miễn thuế cho các hàng hóa tái nhập khẩu sau khi được xuất khẩu để sửa chữa, thay đổi; hàng hóa tạm nhập như dụng cụ chuyên dụng, mẫu vật trưng bầy, dụng cụ thể thao, sản phẩm in ấn để quảng cáo... nhằm giảm chi phí cho các hoạt động thương mại, gồm dịch vụ chuyên môn trong nội khối.
Để xóa bỏ một trong những biện pháp bóp méo thương mại nông sản mạnh nhất – trợ cấp xuất khẩu nông sản – các thành viên cam kết trong chương Hàng hóa xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu nông sản cho mọi nông sản xuất khẩu trong thị trường nội khối. Như vậy, những biện pháp trợ cấp điển hình như hoàn thuế xuất khẩu sẽ không còn được áp dụng bởi các nước thành viên nếu họ muốn xuất khẩu nông sản vào thị trường các thành viên khác. Các thành viên cũng thỏa thuận tiếp tục xây dựng các nguyên tắc đa phương về tín dụng xuất khẩu, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, và các chương trình bảo hiểm xuất khẩu... trong một nỗ lực cải cách thương mại nông sản toàn diện.


Về những hạn chế xuất khẩu lương thực, thực phẩm, vốn có thể gây tác động tiêu cực đến nguồn cung trên thị trường nội khối, đặc biệt với những nước nghèo hơn, làm gia tăng lạm phát cũng như khủng hoảng cung ở những nước này, chương Hàng hóa chỉ cho phép các thành viên hạn chế xuất khẩu các mặt hàng này trong vòng 6 tháng và phải thông báo trước cho các thành viên khác, đồng thời phải tham vấn với các thành viên liên quan có nhập khẩu những mặt hàng này nếu những hạn chế này được kéo dài trên 12 tháng.


Để hạn chế những bất lợi cho dòng chảy thương mại trong khối từ các hành vi lũng đoạn của các doanh nghiệp thương mại nhà nước, các thành viên thỏa thuận trong chương Hàng hóa hướng đến bãi bỏ đặc quyền được xuất khẩu nông sản và tiếp cận nguồn tài chính ưu đãi của các doanh nghiệp thương mại nhà nước, cũng như yêu cầu các thành viên minh bạch hơn trong hoạt động của và việc duy trì các doanh nghiệp thương mại nhà nước.


Ngoài những quy định chính trên, chương Hàng hóa còn có một số quy định mới khác như về hàng hóa tái/phục chế (ví dụ hàng hóa đã qua sử dụng nhưng được làm lại như mới), theo đó các thành viên không được cấm nhập khẩu các hàng hóa đã qua sử dụng nhưng được nhập khẩu cho mục đích phục chế, miễn là những hàng hóa sau phục chế phải thỏa mãn một số điều kiện để được coi là hàng như mới. Hoặc quy định về quy trình cấp phép xuất khẩu, theo đó quy trình này phải công khai, minh bạch và cụ thể hóa để nó không bị lạm dụng bởi một nước thành viên nào đó nhằm hạn chế xuất khẩu những hàng hóa và nguyên liệu thiết yếu để lũng đoạn giá của chúng trên thị trường khu vực và thế giới, cũng như tạo lợi thế bất công bằng cho những doanh nghiệp chế biến nội địa sử dụng những hàng hóa và nguyên liệu này so với những doanh nghiệp tương tự ở các nước phải nhập khẩu khác.


Tóm lại, chương Hàng hóa, một cấu thành thiết yếu của TPP, sẽ tạo ra nền tảng mới và vững chắc để các nước thành viên khai thác một thị trường tự do lớn nhất trên thế giới đồng thời hạn chế những hành vi và tập quán cạnh tranh không lành mạnh, đảm bảo cơ hội thịnh vượng công bằng cho mọi đối tượng ở mọi quốc gia thành viên.


Với Việt Nam, cơ hội là rất lớn nếu biết tận dụng việc xóa bỏ hàng rào thương mại và phi thương mại lên hàng hóa xuất khẩu của mình ở thị trường các nước thành viên. Ngược lại, Việt Nam cũng sẽ phải thực hiện các cam kết tương tự, nhất là các cam kết liên quan đến hàng rào phi thuế quan. Cho đến nay, ít hay nhiều thì hầu như Việt Nam đã và đang áp dụng các biện pháp như nêu ở trên, ví dụ như giấy phép xuất nhập khẩu, trợ cấp xuất khẩu, hạn chế xuất khẩu, ưu đãi các doanh nghiệp thương mại nhà nước v.v... Việc phải thay đổi hay từ bỏ những biện pháp này chắc chắn bước đầu sẽ tạo thêm áp lực và khó khăn cho nhiều ngành và chủ thể kinh tế trong nước.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).