Saturday 21 November 2015

Xử lý nợ xấu: Không chỉ có mình VAMC! (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân, bản gốc, 22/11/2015)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=76&NewsId=362652

Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tính từ 2013 đến 15/9/2015, Công ty quản lý tài sản Việt Nam (VAMC) đã thực hiện mua được 210.717 tỷ đồng nợ xấu theo giá sổ sách, nhưng chỉ thu hồi nợ được 13.320 tỷ đồng. NHNN thừa nhận, so với thực trạng nợ xấu, tốc độ xử lý nợ xấu còn chậm, kết quả bán nợ, tài sản đảm bảo còn rất khiêm tốn. Nguyên nhân, theo NHNN, là do VAMC đang gặp nhiều khó khăn liên quan đến pháp lý và thủ tục, cũng như nguồn vốn “tiền tươi thóc thật” còn hạn hẹp... Bởi vậy, NHNN kiến nghị Quốc hội ban hành nghị quyết về xử lý nợ xấu hoặc một bộ luật về xử lý nợ xấu có giá trị trong quá trình xử lý nợ xấu từ 3 đến 5 năm.

Như vậy, tuy được biết đến và ca ngợi là sáng kiến độc đáo, là giải pháp sáng tạo của Việt Nam do không dùng đến ngân sách để xử lý nợ xấu, nhưng xem ra VAMC đang gặp bế tắc lớn và cần phải có những cơ chế và ưu ái đặc biệt vượt trên các khuôn khổ luật lệ và quy định pháp lý hiện hành để nó có thể tồn tại và thực hiện tốt được chức năng theo thiết kế là mua về và xử lý hữu hiệu nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Tuy nhiên, nếu thực hiện theo yêu cầu của NHNN thì sẽ phải đối mặt mấy vấn đề về nguyên tắc và pháp lý như sau. Thứ nhất, nếu mục đích theo thiết kế ban đầu là xử lý nợ xấu mà không cần đến, không gây tổn thất cho ngân sách thì những giải pháp như cấp và tăng thêm vốn điều lệ (từ 500 tỷ đồng lên mức đề xuất là 2.000 tỷ đồng hoặc hơn) trước tiên đã phá vỡ cam kết không dùng đến ngân sách, và nếu được chấp thuận một lần thì rất có thể sẽ phải chấp thuận cho tăng vốn những lần sau với lý do là nếu không tăng thì không đủ năng lực để xử lý nợ xấu. Cứ như vậy thì dần dần VAMC sẽ trở thành một cái lỗ đen hút ngân sách trong khi hiệu quả thì chưa và chẳng có gì đảm bảo.

Thứ hai, nếu ưu ái cho VAMC những cơ chế và ưu đãi thì tạo ra một bất công lớn với các tổ chức quản lý tài sản (AMC) khác, của các ngân hàng thương mại, của Bộ Tài chính. Chắc chắn các AMC này cũng đã và đang phải đối mặt với các vấn đề mà VAMC đang đối mặt, vậy mà họ không (thể) kêu ca, phàn nàn, hoặc có thì cũng không ai để ý, tạo điều kiện như với VAMC. Điều này là đặc biệt nguy hiểm khi những ràng buộc quốc tế trong đối xử tối huệ quốc, đối xử bình đẳng quốc gia v.v... trong ngành tài chính mà Việt Nam đã cam kết, đặc biệt là TPP, cho phép nhà đầu tư, các công ty phi nhà nước trong và ngoài nước kiện Chính phủ ra tòa vì đã phân biệt đối xử, và có khả năng Chính phủ sẽ thua cuộc, buộc phải bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn.
Thứ ba, nếu ưu ái riêng cho VAMC thì sẽ vô hình trung lãng phí một lực lượng xử lý nợ xấu lớn, chính là các AMC nói trên. Các AMC này ra đời cũng với cùng một sứ mệnh là để xử lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp nhà nước, nhưng lại được trao ít công cụ và quyền lực hơn VAMC kể cả trước khi VAMC được trao thêm ưu ái sau này. Nếu là vì mục đích để tăng cường xử lý để giảm nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thì tại sao lại không trao thêm quyền lực và cơ chế tương tự như với VAMC cho các AMC? Phải chăng khác biệt và là nguyên nhân duy nhất ở đây chỉ là vì VAMC là “con đẻ” của NHNN?

Tóm lại, để tránh những khả năng bị kiện cáo, đồng thời huy động được mọi nguồn lực hiện có và sẽ có mà không động chạm  gì đến hay gây tổn thất cho ngân sách nhà nước, tốt nhất là hãy tạo ra một sân chơi bình đẳng và thuận lợi hơn cho tất cả các tổ chức xử lý nợ xấu hiện tại và trong tương lai ở Việt Nam, tương tự như những gì sẽ trao cho VAMC.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).