Saturday 26 December 2015

Cuộc chiến tỷ giá: NHNN không còn mấy lựa chọn (Bài đăng trên TBKTSG, 26/12/2015, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/140207/Ty-gia-khong-con-may-lua-chon.html

Tối ngày 17/12, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tuyên bố hạ lãi suất tiền gửi USD của cá nhân xuống còn 0%/năm từ mức 0,25%/năm với mục đích là để tiếp tục thực hiện các giải pháp đồng bộ nhằm thực hiện chủ trương chống đô la hóa của Chính phủ, chuyển từ quan hệ huy động - cho vay bằng ngoại tệ sang quan hệ mua - bán bằng ngoại tệ. Nhưng vì hành động này xảy ra ngay sau khi Fed quyết định nâng lãi suất USD lên thêm 0,25 điểm phần trăm nên có thể hiểu rằng thực chất của hành động này là nhằm tăng giãn cách lãi suất tiền gửi giữa VND và USD ở Việt Nam thêm một bước nữa để giúp giảm áp lực lên tỷ giá VND vốn đã kịch trần từ mấy hôm trước đó.
Không mấy tác dụng

Điều đáng chú ý là NHNN đã tiến hành giảm lãi suất tiền gửi USD của tổ chức và cá nhân trước đó từ ngày 28/9 (lãi suất tiền gửi USD của tổ chức từ 0,25% xuống còn 0%, của cá nhân từ 0,75% xuống còn 0,25%) trước áp lực phá giá dồn nén đến từ việc Trung Quốc liên tục phá giá đồng NDT. Nhưng hành động này trên thực tế cho thấy hầu như không có tác dụng vì tỷ giá VND vẫn đứng ở mức cao, thậm chí còn chạm trần nhiều lần sau đó. Cũng dễ hiểu chuyện này vì thực ra không chỉ mức độ hạ lãi suất tiền gửi USD là tương đối nhỏ (0,25 và 0,5 điểm phần trăm tương ứng cho doanh nghiệp và cá nhân), mà còn vì trong số người nắm giữ USD chỉ có một phần nhỏ là những người nắm vì mục đích hưởng lãi suất USD và trở nên nhạy cảm với biên độ tăng giảm nhỏ như vậy. Đa phần cá nhân và tổ chức nắm giữ USD trong bối cảnh lãi suất thấp là vì hoặc họ kỳ vọng VND sẽ bị mất giá trong tương lai gần ở mức độ lớn hơn nhiều, hơn cả mức chênh lệch lãi suất tiền gửi giữa VND và USD, hoặc vì họ có nhu cầu thực sự với USD như để thanh toán trong tương lai, cũng như do nhu cầu phòng ngừa rủi ro lạm phát (so với nếu giữ tài sản dưới dạng VND)…
So với những mục đích trên thì có thể thấy việc cắt giảm lãi suất tiền gửi USD 0,25-0,5 điểm phần trăm hồi tháng 9 và thêm 0,25 điểm phần trăm như trong tuần qua là hoàn toàn không đủ kích thích hoặc buộc được các cá nhân và tổ chức có USD chuyển đổi số USD nắm giữ của mình sang VND. Cụ thể hơn, nếu, ví dụ, người ta kỳ vọng rằng VND sẽ bị mất giá thêm ít nhất 2% nữa trong những ngày cuối năm nay hoặc sang tháng 1 năm sau thì có lẽ không mấy ai lại nhanh chóng chuyển đổi số USD nắm giữ của mình sang VND ngay thời điểm hiện tại rồi gửi vào ngân hàng hưởng lãi cho dù ở mức lãi suất quy ra là 0,6%/tháng.

Không còn nhiều lựa chọn và dư địa
Đến đây, một câu hỏi được đặt ra là vậy tại sao NHNN vẫn quyết định tiến hành những bước đi như vậy (giảm lãi suất tiền gửi USD) cho dù họ có thể biết rõ rằng hiệu quả sẽ không đáng kể? Lý do có thể là có còn hơn không và NHNN thực ra cũng không còn mấy công cụ nào hữu hiệu (hơn).

Như trên đã nói, cho dù có thể chỉ là một phần nhỏ, nhưng vẫn có một số cá nhân và tổ chức nắm giữ USD với mục đích là hưởng lãi suất USD trong một thời gian nào đó. Do đó, khi lãi suất tiền gửi USD bị hạ xuống 0% thì một số trong bộ phận những cá nhân và tổ chức này sẽ cân nhắc việc chuyển đổi USD nắm giữ sang các loại hình tài sản khác, trong đó có tài sản bằng VND. Như vậy, việc hạ lãi suất tiền gửi USD vẫn có tác dụng ở một mức độ nào đó dù có thể là không đáng kể, và nếu “tích tiểu thành đại”, sử dụng “đồng bộ” nhiều biện pháp khác thì NHNN hy vọng bàn tay can thiệp của mình sẽ có trọng lượng hơn. Quan trọng hơn, ngoài công cụ kinh tế liên quan đến lãi suất như thế này, NHNN không còn mấy lựa chọn khác, hoặc không còn mấy dư địa cho những lựa chọn đó.
Về những lựa chọn mang tính kinh tế, để bảo vệ tỷ giá thì NHNN có thể nâng lãi suất tiền gửi VND, một biện pháp cũng có tác dụng như hạ lãi suất tiền gửi USD ở góc độ là sẽ tăng giãn cách lãi suất VND và USD để tăng mức hấp dẫn tương đối của VND so với USD. Nhưng việc nâng lãi suất VND trong bối cảnh hiện tại là không thể, chí ít vì lãi suất VND đã ở mức cao và đang có xu hướng tăng cao hơn, làm cho lãi suất ở Việt Nam cao hơn rất nhiều so với khu vực và thế giới và mức lạm phát ở Việt Nam.

Một lựa chọn mang tính kinh tế khác là NHNN bán USD để bảo vệ tỷ giá. Nhưng lựa chọn này cũng đã tỏ ra là không còn mấy dư địa cho NHNN khi dự trữ ngoại hối của NHNN đã sụt giảm mạnh trong những tháng qua khi NHNN phải can thiệp hỗ trợ tỷ giá.
Do đó, để có thể khuyến khích, chính xác ra là ép những đối tượng đang nắm giữ USD chuyển đổi từ USD sang VND thì cần phải có những biện pháp mạnh hơn, phần nhiều mang tính hành chính cưỡng chế. Ví dụ, NHNN có thể ra một chỉ thị yêu cầu các tổ chức tín dụng khi nhận tiền gửi USD của tổ chức và cá nhân thì không những không trả lãi mà còn thu phí quản lý ngoại tệ, với mục đích làm cho người nắm giữ USD sẽ chỉ còn cách cất USD dưới dạng tiền mặt ở trong két sắt tại gia nếu muốn đầu cơ hay nắm giữ USD cho chi tiêu sau này. Nhưng thực tế cho thấy vẫn có nhiều ngân hàng sẵn sàng chấp nhận “đi đêm” với khách hàng có USD để huy động được USD. Nên dù NHNN có hạ lãi suất hay bắt phải tính phí gửi USD thì cả ngân hàng và khách hàng vẫn tìm được tiếng nói chung ngoài tầm kiểm soát của NHNN.

Hoặc NHNN cũng có thể tăng cường biện pháp kết hối, buộc cá nhân và tổ chức có nguồn thu USD qua hệ thống ngân hàng phải bán ngay số ngoại tệ đó cho ngân hàng với tỷ giá quy định. Biện pháp này đã được thực hiện trước đây nhưng cũng tỏ ra không có mấy tác dụng vì nó sẽ kích thích sự phát triển của hệ thống ngân hàng ngầm chuyển tiền vào ra khỏi Việt Nam.
Tóm lại, NHNN đang ngày càng gặp khó khăn trong cuộc chiến tỷ giá ở Việt Nam chống lại hai “thế lực” lớn từ nước ngoài là lãi suất USD tăng ở Mỹ và NDT tiếp tục bị phá giá ở Trung Quốc. Cuộc chiến không cân sức này có lẽ sắp đến hồi kết khi các lựa chọn chính sách có thể sử dụng của NHNN hoặc đã được sử dụng hoặc không còn mấy dư địa. Trong bối cảnh này, NHNN nên chủ động tính toán để chọn thời điểm “buông” sao cho có lợi nhất không chỉ cho uy tín còn lại của NHNN mà còn giảm thiểu thiệt hại cho nền kinh tế.

Tuesday 22 December 2015

Những chuyển động ngầm quanh chuyện hạ lãi suất tiền gửi USD (Bài đăng trên CafeF, 22/12/2015, bản gốc)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/nhung-chuyen-dong-ngam-quanh-chuyen-ha-lai-suat-tien-gui-usd-20151221164419555.chn
Sau hai đợt Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quyết định hạ lãi suất tiền gửi USD của tổ chức và cá nhân hồi tháng 9 và trong tuần qua về 0%, trong nước lại đang râm ran bàn nhau về việc nếu gửi USD ở các ngân hàng trong nước thì chỉ được hưởng lãi suất 0%, trong khi chỉ cần mang số USD qua biên giới sang Lào gửi tại một số ngân hàng Việt Nam tại đó thì được hưởng lãi suất tới gần 5-6%/năm.
Về phía ngân hàng thương mại Việt Nam, trong khi họ huy động USD tiền gửi từ tổ chức và cá nhân với lãi suất 0% thì nếu chỉ cần đem cho vay lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng ít thì cũng được 0,19%/năm với các khoản cho vay qua đêm và lên tới hơn 2% với kỳ hạn cho vay 6 tháng. Như vậy, dư luận cho rằng các ngân hàng bỗng dưng trở thành “ngư ông đắc lợi” nhờ biện pháp chính sách hạ lãi suất tiền gửi USD về 0% của NHNN trong khi đối tượng bị thiệt hại là các tổ chức và cá nhân nắm giữ USD và có nhu cầu gửi tiền vào hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
Vấn đề này thực ra không hoàn toàn đơn giản như vậy.
Đối với cá nhân và tổ chức có tiền gửi USD, khi lãi suất tiền gửi bị hạ xuống 0% từ mức 0,25%/năm trước đó sẽ vẫn có một bộ phận tiếp tục gửi USD vào hệ thống ngân hàng cho những mục đích như thanh toán, chi trả trong tương lai, hoặc đơn giản chỉ là để đợi thời cơ VND bị phá giá thêm trong thời gian sắp tới. Với bộ phận cá nhân và tổ chức này (tạm gọi là nhóm 1), vì mục đích gửi tiền USD của họ không phải là hưởng lãi tiết kiệm nên dù lãi suất tiền gửi thấp, hoặc thậm chí về 0% thì họ vẫn tiếp tục gửi USD hơn là mang về để trong két hoặc dưới chiếu. Do đó, cái sự thiệt hơn gây ra bởi NHNN không mấy liên quan với những đối tượng này.

Với cá nhân và tổ chức thực sự nhạy cảm với lãi suất tiền gửi USD tại Việt Nam (tạm gọi là nhóm 2), thì đúng là về danh nghĩa họ sẽ phản ứng ngay với chính sách lãi suất tiền gửi USD mới của NHNN và có thể sẽ rút lại các khoản tiền gửi USD khi đến hạn hoặc không gửi các khoản tiền gửi mới nữa. Nhưng cũng chính vì mục đích là để tìm kiếm lãi suất tiền gửi cao như vậy nên cho dù nếu NHNN không hạ lãi suất tiền gửi xuống 0% như vừa qua thì mức quy định 0,25% vẫn đã là quá thấp, không mấy hấp dẫn những đối tượng này, và do đó mà các ngân hàng thương mại cũng khó mà thu hút được nhiều USD. Cũng vì thế mà việc hạ lãi suất tiền gửi USD của NHNN xuống 0% cũng không có nhiều ý nghĩa với, không làm hại đáng kể những đối tượng này.

Và sẽ có một nhóm đối tượng thứ 3 có thuộc tính của cả nhóm 1 và 2. Nhóm này vừa muốn gửi tiền bằng USD, vừa muốn hưởng lãi suất tiền gửi USD cao. Nên rất có thể nhóm này đã tìm cách mang USD qua khỏi biên giới để gửi ở nước ngoài với lãi suất cao hơn hẳn như dư luận đã đề cập đến. Nhưng hành động này không phải là hoàn toàn “ngon ăn” như mô tả. Nhóm 3 này sẽ phải đối mặt với những rủi ro như mang USD qua lại cửa khẩu (cả chiều mang ra và chiều mang về) sẽ bị xử phạt nếu quá hạn mức cho phép và không khai báo, chịu chi phí phát sinh và rủi ro mất mát liên quan đến việc chuyển USD qua biên giới… Nên nếu họ có được hưởng lãi suất tiền gửi cao ở nước ngoài thì điều này là đương nhiên theo nguyên tắc lợi nhuận cao thì rủi ro cao. Thêm nữa, rất có thể lãi suất 5-6% mà dư luận đề cập đến là lãi suất tiền gửi có kỳ hạn tương đối dài nên đương nhiên cũng phải cao hơn lãi suất 0% nhưng là không kỳ hạn ở trong nước (vì không ai dại gì gửi kỳ hạn dài để vẫn chỉ được hưởng lãi suất 0% ở Việt Nam).

Nếu số USD của nhóm 3 có nguồn gốc từ các giao dịch ở nước ngoài và được giữ lại ở nước ngoài chứ không chuyển về nước thì đây cũng chính là một hình thức lách luật của các cá nhân và tổ chức có doanh thu ngoại tệ ở nước ngoài (ví dụ qua xuất khẩu) nhưng họ không chuyển doanh thu về nước (và quy ra VND), mà giữ lại ở nước ngoài vì những lý do như chênh lệch lãi suất tiền gửi USD giữa trong và ngoài nước, vì lo VND bị phá giá. Đây là một khả năng mà một số chuyên gia đã đề cập đến khi bàn về tính hữu hiệu của chính sách lãi suất tiền gửi USD của NHNN thời gian qua.

Về phía các ngân hàng, với nhóm đối tượng 1, các ngân hàng đúng là sẽ giảm chi phí trả lãi huy động USD hơn được một chút (giảm 0,25 điểm phần trăm) trong khi lãi suất cho vay vẫn giữ nguyên nên các ngân hàng sẽ thu lợi hơn. Nhưng mối lợi này chỉ có hạn không chỉ vì mức giảm lãi suất phải trả là nhỏ, mà còn vì như trên đã nói, nhóm đối tượng 1 chỉ là một bộ phận chứ không phải tất cả các cá nhân và tổ chức nắm giữ USD. Hơn nữa, nguồn USD huy động từ nhóm này thường chỉ là không kỳ hạn và có thể bị chủ sở hữu rút ra bất cứ lúc nào nên cho dù các ngân hàng có huy động được một số lượng lớn USD từ nguồn này thì họ cũng không thể dễ bề cho vay ra ở những kỳ hạn dài hơn như 6 tháng, 1 năm để được hưởng lãi suất đến 2%/năm hoặc hơn vì phải chịu rủi ro chênh lệch kỳ hạn.

Với nhóm đối tượng 2, các ngân hàng nếu muốn thu hút được tiền gửi của họ thì buộc phải “đi đêm”, thỏa thuận ngầm với những đối tượng thuộc nhóm này. Nguồn tin riêng cho biết một số ngân hàng đã chấp nhận trả cho người gửi tiền với số lượng lớn và ổn định lãi suất lên tới 1,5% hoặc hơn. Cần phải lưu ý rằng hành động thỏa thuận ngầm này không phải là hiếm, chỉ bây giờ mới có, mà luôn phát sinh và tồn tại mỗi khi NHNN phải áp dụng đến một cái trần nào đó để khống chế một cái gì đó chỉ trực tăng vọt. Như thế thì mức chênh lệch lãi suất thực thu của các ngân hàng sẽ không giống như trên lý thuyết thể hiện bằng một con tính trừ giữa lãi suất cho vay trừ lãi suất huy động danh nghĩa.

Với nhóm 3, bản thân việc các ngân hàng Việt Nam phải chấp nhận trả lãi suất huy động đến 5-6% cho người gửi USD ở Lào cho thấy các ngân hàng đó và cả nhiều ngân hàng khác ở Việt Nam đã không thể huy động được số USD cần thiết, và đây có thể là do hậu quả của chính sách lãi suất của NHNN như nói ở trên. Về bản chất, đây chính là một hành động đi vay nước ngoài của (các doanh nghiệp) Việt Nam, và do đó người đi vay sẽ chịu sự chế tài của các quy định liên quan đến quản lý ngoại hối và vay nợ nước ngoài, đồng thời chịu rủi ro và chi phí liên quan đến huy động và vận chuyển ngoại tệ vào ra khỏi lãnh thổ… nên cũng có thể nói rằng việc họ phải huy động ở nước ngoài với lãi suất cao cũng là việc cực chẳng đã.

Tóm lại, nhìn từ cả 2 phía khách hàng và ngân hàng thì rõ ràng chẳng có bên nào chỉ được lợi và bên nào chỉ bị thiệt hại. Không những vậy, sự phân tích trên còn cho thấy rốt cục 2 bên đã tìm cách qua mặt được NHNN để đến được với nhau bằng những thỏa thuận ngầm nhưng ở mức phí tổn cao hơn cho cả 2 phía. Đây cũng chính là mặt trái của chính sách lãi suất tiền gửi USD của NHNN.

Friday 18 December 2015

Tại sao NHNN phải tiếp tục hạ lãi suất tiền gửi USD của cá nhân? (Bài đăng trên CafeF, 18/12/2015, bản gốc)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/tai-sao-nhnn-phai-tiep-tuc-ha-lai-suat-tien-gui-usd-cua-ca-nhan-20151218084336343.chn

Tối muộn ngày 17/12, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) bất ngờ công bố tiếp tục hạ lãi suất tiền gửi USD của cá nhân xuống còn 0%/năm từ mức 0,25% là mức mới được quyết định từ ngày 28/9 (trước đó là 0,75%). Mục đích của việc này được NHNN tuyên bố là để tiếp tục thực hiện các giải pháp đồng bộ nhằm thực hiện chủ trương chống đô la hóa của Chính phủ, chuyển từ quan hệ huy động - cho vay bằng ngoại tệ sang quan hệ mua - bán bằng ngoại tệ.
Bình thường, nếu để thực hiện đúng như những gì NHNN tuyên bố hôm nay (để chống đô la hóa) thì NHNN đã không cần phải đợi đến bây giờ mới quyết định hạ tiếp lãi suất tiền gửi USD cá nhân sau lần hạ lãi suất tiền gửi USD của tổ chức xuống 0% từ ngày 28/9. Vì vậy, sự việc xảy ra hôm 17/12 chắc chắn có liên quan đến một sự kiện nào đó có ảnh hưởng đến các chính sách của NHNN chứ không thể là một thời điểm ngẫu nhiên hoặc theo lộ trình định trước. Điểm lại bối cảnh hiện nay, điều đáng chú ý là việc hạ lãi suất tiền gửi USD của NHNN xảy ra ngay sau khi Fed quyết định nâng lãi suất USD lên thêm 0,25 điểm phần trăm và (vì thế mà) tỷ giá VND đã chạm đỉnh mấy hôm nay.
Như vậy, có thể liên hệ 2 sự việc này với nhau để thấy được một bức tranh rõ nét hơn. Theo đó, mục đích chính của việc hạ lãi suất tiền gửi USD lần này thực ra không phải là để chống đô la hóa như tuyên bố. Với việc hạ lãi suất tiền gửi USD xuống 0%, NHNN hy vọng rằng nó sẽ giúp họ có thêm dư địa để xì bớt áp lực lên tỷ giá đã kịch trần mấy hôm nay. Theo lý thuyết, khi lãi suất USD bị giảm đi thì tính hấp dẫn của việc nắm giữ USD bị suy giảm, làm cho nhà đầu tư và người có tài sản tiết kiệm sẽ bớt chuyển sang nắm giữ tài sản bằng USD thay vì tài sản bằng VND. Như thế, áp lực mua gom USD ở Việt Nam sẽ giảm bớt đi, dẫn đến sức ép lên tỷ giá VND cũng vì thế mà bớt đi, NHNN sẽ không phải vất vả tiếp tục hỗ trợ cho tỷ giá bằng việc bán thêm USD từ quỹ dự trữ ngoại hối đang hao hụt mạnh.
Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là tính hiệu quả của việc hạ lãi suất tiền gửi USD xuống 0%. Vì mức độ hạ chỉ là 0,25 điểm phần trăm, và như vậy là đã sử dụng hết “room”, nên khó có thể kỳ vọng rằng biện pháp này sẽ tạo ra một chuyển biến đáng kể về diễn biến tỷ giá nay mai theo hướng tích cực hơn (VND bớt bị áp lực phá giá hơn). Điều này cũng đã phần nào được minh họa rõ nét qua lần cắt giảm lãi suất tiền gửi USD của cả tổ chức và cá nhân từ hôm 28/9 trước đây, thậm chí với mức độ cắt giảm còn lớn hơn (lãi suất tiền gửi USD của tổ chức từ 0,25%/năm xuống còn 0% trong khi của cá nhân bị cắt giảm xuống còn 0,25% từ mức 0,75%). Cho dù lãi suất tiền gửi USD bị cắt giảm trên diện rộng hơn và ở mức độ lớn hơn từ ngày 28/9 nhưng diễn biến thực tế cho thấy hầu như biện pháp hạ lãi suất tiền gửi này không phát huy tín dụng trên thực tế vì tỷ giá vẫn “nhấp nhổm” áp sát và đã chính thức kịch trần nhiều lần trong thời gian kể từ sau đó đến nay.
Như vậy, có thể nói rằng lần cắt giảm lãi suất tiền gửi USD lần này là một hành động "tận dụng” những công cụ, những dư địa nào còn sót lại mà NHNN có trong tay để kiên quyết “nói không” với điều chỉnh tỷ giá VND trong thời điểm này. Và tuy rằng sẽ chỉ có tác dụng nhỏ nhưng NHNN vẫn có thể hy vọng rằng hành động hạ lãi suất vào thời điểm này sẽ giúp họ có thêm thời gian cầm cự chờ đợi thời điểm điều chỉnh tỷ giá thích hợp hơn (muộn nhất là) vào ngay đầu năm sau.
Và cũng chính bởi tác dụng có hạn nên ngoài biện pháp hạ lãi suất tiền gửi USD cá nhân, NHNN trong những ngày còn lại của năm nay sẽ rất có thể thực hiện (hoặc củng cố thêm) một vài biện pháp quyết đoán hơn nữa nhằm bóp nghẹt thêm nhu cầu nắm giữ và sở hữu USD trong khi tìm cách tăng thêm nguồn cung USD ở Việt Nam từ doanh nghiệp, mà mục đích cuối cùng là không phải phá giá VND ít nhất ngay trong những ngày còn lại của năm nay. Theo hướng này, thậm chí người có tiền gửi USD (tổ chức và cá nhân) sẽ không chỉ không còn được hưởng lãi suất mà còn phải trả thêm phí cho ngân hàng “giữ hộ” USD cho mình. 

Thursday 17 December 2015

Dự trữ bắt buộc không nên tùy tiện (Bài đăng trên TBKTSG, 17/12/2015, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/139902/De-su-dung-tot-hon-cong-cu-du-tru-bat-buoc.html
 
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới ban hành Thông tư 23/2015/TT-NHNN nhằm “sửa đổi bổ sung một số điều của Quy chế dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng ban hành kèm Quyết định 581 ngày 9-6-2003 của Thống đốc NHNN”. Theo đó, NHNN xem xét điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với một số ngân hàng. Cụ thể, đối với tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt, Thống đốc NHNN sẽ xem xét quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho đến mức tối thiểu 0%. Đối với tổ chức tín dụng đang thực hiện phương án cơ cấu lại đã được phê duyệt, tổ chức tín dụng tham gia cơ cấu lại ngân hàng yếu kém theo chỉ định, Thống đốc xem xét quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cụ thể cho từng tổ chức tín dụng.
Thoạt nhìn, thông tư này là hợp lý và cần thiết khi nó được đưa ra để góp phần hỗ trợ cho công cuộc tái cơ cấu, củng cố hệ thống ngân hàng Việt Nam. Tuy nhiên, nếu được nhìn nhận ở một số khía cạnh khác thì có một số điều đáng nói.

Thứ nhất, việc hạ tỷ lệ tín dụng, cho dù chỉ là một số ngân hàng thuộc diện được “ưu tiên”, về bản chất chinh là nới lỏng chính sách tiền tệ, dẫn đến áp lực lên tỷ giá, vốn đang được NHNN dốc sức bảo vệ. Nếu NHNN không muốn quyết định này có tác dụng phụ là làm gia tăng áp lực lên tỷ giá thì NHNN sẽ phải thắt chặt tiền tệ ở đâu đó, hoặc ở mức tổng thể, thông qua hạn chế tốc độ tăng cung tiền (tổng phương tiện thanh toan, M2). Như vậy, điều này sẽ tạo thêm khó khăn cho các ngân hàng không thuộc diện ưu tiên theo thông tư này. Trong khi đó, nhờ có thông tư này, các ngân hàng được ưu tiên, gồm cả những ngân hàng thương mại lớn có vốn nhà nước, có thêm điều kiện để tăng lãi suất huy động để thu hút vốn tiền gửi từ cá nhân và tổ chức mà không nhất thiết phải tăng lãi suất cho vay để đảm bảo biên độ lợi nhuận vì họ đã giảm được chi phí dưới dạng dự trữ bắt buộc. Việc nâng lãi suất huy động của các ngân hàng này sẽ buộc các ngân hàng không được ưu tiên phải nâng lãi suất huy đông tương ứng nếu không muốn nguồn tiền gửi của minh bị chảy hết sang các ngân hàng được ưu tiên. Kết cục là một cuộc đua lãi suất mới sẽ hình thành, làm tăng lãi suất cho vay cho nền kinh tế, gia tăng thêm khó khăn cho doanh nghiệp và người kinh doanh.
Thứ hai, thông tư này rõ ràng được đưa ra là để tạo điều kiện cho các ngân hàng được ưu tiên có thêm lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ, nhờ đó nhanh chóng gia tăng lợi nhuận nhằm bù đắp cho những tổn thất phát sinh trong quá trinh sát nhập, hợp nhất, mua lại và tái cơ cấu. Tuy nhiên, cái giá phải trả nếu thực hiện như thông tư này, ngoài chuyện tạo thêm khó khăn cho các ngân hàng không được ưu tiên như nói trên đây, và những rủi ro như nói tiếp sau đây, sẽ là tổn thất (một cách gián tiếp) cho ngân sách nhà nước, cho công quỹ ở dưới dạng hụt thu từ dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng được ưu tiên gửi tại NHNN. Nói cách khác, bản thân NHNN sẽ phải “nhường cơm sẻ áo” cho các ngân hàng được ưu tiên theo thông tư này. Và đây cũng sẽ là một bằng chứng làm suy yếu lập luận của giới chức rằng tái cơ cấu ngân hàng không cần phải dùng đến ngân sách, từ đó làm giảm tinh chính đáng của các biện pháp tái cơ cấu ngân hàng trong mắt công luận.

Thứ ba, theo thông tư này thì NHNN vô hình trung đã tạo ra những đối xử bất công với các ngân hàng khác trong hệ thống. Như vậy, ngoài việc đã công khai vi phạm các nguyên tắc cốt lõi trong đối xử tối huệ quốc, đối xử công bằng và không thiên vị mà Việt Nam phải thực hiện trong khuôn khổ WTO và các hiệp định tự do thương mại song phương và đa phương khác, NHNN có thể sẽ phải đối đầu với những khiếu kiện của các tổ chức tín dụng trong và ngoai nước khi TPP có hiệu lực trong tương lai gần. Khi đó, nếu thông tư này vẫn còn hiệu lực thì NHNN chắc chắn sẽ phải sửa đổi, hủy bỏ, hoặc sẽ phải vất vả giải trinh, biện hộ cho sự tồn tại của nó mà cũng chưa chắc đã thành công.
Cuối cùng, NHNN trong thông tư này sẽ tùy nghi đối xử với từng ngân hàng, theo cách thức không mấy minh bạch, tạo ra những khoảng tối, những vận động hành lang theo cơ chế xin cho giữa các tổ chức tín dụng với NHNN, và là kẽ hở cho những hành vi phạm pháp. Đây là điều đi ngược lại xu hướng cải cách và minh bạch hóa nền kinh tế mà Việt Nam đang (buộc phải) thực hiện.

Tóm lại, Thông tư 23 của NHNN có vấn đề về cả “lý” lẫn “tình”. Tuy nó được thiết kế để giúp các ngân hàng tái cơ cấu hoặc tham gia tái cơ cấu nói riêng và hệ thống ngân hàng nói chung lành mạnh hơn nhưng trên thực tế chắc chắn nó sẽ làm suy yếu các ngân hàng khác, và tạo ra những tổn thất và khó khăn cho doanh nghiệp, cho chính NHNN cũng như chính sách lãi suất và tỷ giá của NHNN. Bởi vậy tuy đã được ban hành nhưng có lẽ NHNN không nên vận dụng nó trong thực tế. và, thay vào đó, NHNN nên xem xét đến một vài giải pháp khác phù hợp hơn với hoàn cảnh hội nhập của Việt Nam.

Wednesday 16 December 2015

Cuộc chơi không cân sức của NHNN (Bài đăng trên TBKTSG, 17/12/2015, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/139904/Cuoc-choi-khong-can-suc.html

Trong 2 ngày 15 và 16 tháng này  Fed sẽ nhóm họp đưa ra quyết định về lãi suất cơ bản của Mỹ. Số liệu  việc làm và sự ổn định trở lại của các thị trường tài chính toàn cầu trong những tháng qua là những hậu thuẫn mạnh cho khả năng Fed sẽ tăng lãi suất trong tuần này. Nếu vậy, đây sẽ là lần đầu tiên Fed tăng lãi suất trong vòng 7 năm nay, sau nhiều lần trù trừ, đắn đo trước sự phục hồi không chắc chắn của nền kinh tế Mỹ. Tuy nhiên, do phải cân nhắc đến tác động ngược của lãi suất tăng cao lên nền kinh tế, Fed có khả năng sẽ chỉ tăng lãi suất thành từng bước với biên độ nhỏ mỗi lần tăng, ví dụ như 0,25 điểm phần trăm.
Bên cạnh đó, đồng Nhân dân tệ (RMB) sau khi bị phá giá mạnh từ 6,2 RMB/USD vào ngày 9/8/2015 xuống 6,44 RMB/USD (tức giảm 3,9%) đã hồi phục lên mức 6,3 RMB/USD vào ngày 1/11 để rồi từ đó lại tiếp tục trượt dài xuống còn 6,458 RMB/USD vào ngày 12/12/2015 (tức đã mất gần 4,2% so với ngày 9/8). Sự trượt dốc của RMB diễn ra bất chấp gần đây nó đã được IMF chính thức đưa vào giỏ tiền SDR (quyền rút vốn đặc biệt), kèm với kỳ vọng rằng nhu cầu nắm giữ đồng tiền này bởi các ngân hàng trung ương và các nhà đầu tư quốc tế sẽ tăng mạnh, làm nó tăng giá so với các bản tệ khác. Có lẽ sự sa sút về tăng trưởng của nền kinh tế Trung Quốc đã triệt tiêu hoàn toàn động lực tăng giá RMB từ việc IMF đưa nó vào giỏ SDR, làm cho đồng tiền này vẫn còn xu hướng tiếp tục giảm giá ít nhất trong ngắn hạn. Đáng lưu ý là sự suy yếu của RMB lại là một yếu tố có lợi, thậm chí còn là mong muốn của Trung Quốc vì nó sẽ giúp cho nền kinh tế nước này có thêm động lực tang trưởng nhờ gia tăng xuất khẩu vốn đang trì trệ.
Khi Fed mới chỉ “rập rình” tăng lãi suất, các đồng bản tệ khác trên thế giới đã thi nhau mất giá. Kể cả sự mất giá của RMB được cho là do nền kinh tế Trung Quốc giảm tốc, nhưng cũng không thể phủ nhận rằng khả năng Fed tăng lãi suất USD đã lôi kéo dòng vốn nước ngoài chảy ra khỏi nền kinh tế các nước nói chung và Trung Quốc nói riêng, dẫn đến gia tăng áp lực lên tỷ giá của RMB đến mức Trung Quốc đã phải tiêu tốn đến gần 100 tỷ USD để bảo vệ tỷ giá trong mấy tháng trước đây.
Trong bối cảnh hiện tại, nếu Fed quyết định tăng lãi suất, dù chỉ là 0,25 điểm phần trăm, thì chắc chắn sẽ lôi kéo theo sự mất giá thêm nữa của các bản tệ khác, trong đó có RMB. Ngoài lợi ích tích cực cho tăng trưởng kinh tế nếu RMB tiếp tục suy yếu, RMB nay đã là một đồng tiền dự trữ quốc tế nên Chính phủ Trung Quốc càng không có lý do gì để can thiệp ổn định tỷ giá RMB, trừ khi có những biến động quá lớn làm Trung Quốc e ngại sẽ vượt khỏi tầm kiểm soát của họ. Đây cũng là những yếu tố nằm ngoài dự kiến của nhiều người trong giới chuyên gia và quan chức khi cách đây không lâu còn tin tưởng rằng Trung Quốc sẽ không để RMB suy yếu thêm nên khuyến nghị NHNN không nên điều chỉnh thêm nữa tỷ giá VND. Chưa hết, đến lượt nó, sự mất giá thêm của RMB có khả năng châm ngòi cho một cuộc đua phá giá bản tệ trên thế giới.
Ở Việt Nam, chính sách tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mặc dù vẫn nhấn mạnh quyết tâm ổn định tỷ giá VND/USD nhưng trên thực tế NHNN đã phải lùi bước trước áp lực đến từ bên ngoài, chủ yếu từ sự mất giá của nhiều đồng bản tệ trên thế giới và đặc biệt là RMB, buộc phải tiến hành những đợt điều chỉnh tỷ giá cũng như biên độ biến động của tỷ giá trong năm nay, để VND mất giá khoảng 5% so với USD kể từ đầu năm nay. Tuy vậy, những đợt điều chỉnh này tỏ ra là chưa đủ, thể hiện ở sức ép căng thẳng luôn có xu hướng đẩy tỷ giá lên gần kịch trần bất chấp sự can thiệp bán ngoại tệ của NHNN. Với dự trữ ngoại hối sụt giảm nhanh chóng, NHNN đã phải viện đến các biện pháp hành chính để kiểm soát tỷ giá trong khuôn khổ mục tiêu của mình, như hạ lãi suất tiền gửi USD và thắt chặt điều kiện để mua và vay USD.

Hơn nữa, giả sử rằng mức tỷ giá VND ổn định ở mức gần kịch trần (22.547 VND/USD) như hiện tại là mức cân bằng tạm thời trong bối cảnh Fed chưa tăng lãi suất và RMB không suy yếu thêm kể từ các đợt phá giá hồi tháng 8. Như vậy, với việc Fed chính thức tăng lãi suất và/hoặc RMB suy yếu thêm như đang chứng kiến hiện tại thì rõ ràng các điều kiện cơ bản của cuộc chơi tỷ giá ở Việt Nam đã thay đổi hoàn toàn theo hướng bất lợi cho Việt Nam.

Trước cuộc chơi mới này, NHNN nếu muốn bảo vệ tỷ giá bằng mọi cách thì sẽ phải dốc thêm nữa kho dự trữ ngoại hối mà theo ước tính chỉ còn tương đương khoảng 2 tháng nhập khẩu và tăng cường các biện pháp hành chính để tăng cung (như biện pháp kết hối) và giảm cầu USD (như xiết cho vay và bán USD). Tất cả những biện pháp này hoặc đã đến ngưỡng giới hạn, không còn mấy dư địa, hoặc chỉ là mua thêm thời gian để đổi lấy một sự ổn định trên bề mặt, như kinh nghiệm vật lộn với tỷ giá trong các năm trước đây cho thấy.
Như thế, có thể nói rằng trong cuộc chơi với hai điều kiện quan trọng đã thay đổi là Fed đã tăng lãi suất và RMB tiếp tục mất giá thì Việt Nam đang tỏ ra đuối sức, và mọi sự chống đỡ đều có khả năng tăng thêm rủi ro và bất ổn cho nền kinh tế. Điều này đòi hỏi NHNN phải điều chỉnh tỷ giá ngay càng sớm càng tốt, ở thế chủ động hơn, chứ không nên chống đỡ trong thế bị động để rồi sớm muộn cũng phải buông tay.

Điều duy nhất còn làm NHNN trù trừ, cố gắng chống đỡ tỷ giá có lẽ là do họ đã nhiều lần tuyên bố cương quyết không điều chỉnh tỷ giá thêm trong năm nay và đầu năm sau nên không muốn để lòng tin của thị trường thêm một lần nữa mất mát. Nhưng tình cảnh tiến thoái lưỡng nan hiện nay của NHNN không còn là điều xa lạ gì nữa nên thậm chí một hành động quyết đoán, chủ động phá giá VND của NHNN ngay trong phần còn lại của tháng 12 này lại là một điều được chờ đợi và hoan nghênh bởi thị trường.

Điều gì đang xảy ra với tỷ giá? (Bài đăng trên CafeF, 15/12/2015, bản gốc)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/dieu-gi-dang-xay-ra-voi-ty-gia-20151215161030682.chn

Tỷ giá đã chính thức chạm trần tại các ngân hàng thương mại mấy hôm nay, bất chấp Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã nhiều lần lên tiếng cho đến tận gần đây khẳng định lập trường không điều chỉnh tỷ giá, và rằng những biến động về tỷ giá gần đây chỉ là do tâm lý và đã được phản ánh hết vào những đợt điều chỉnh tỷ giá trước đây.
Cái tâm lý mà NHNN đề cập đến có lẽ là tâm lý đầu cơ, lo sợ, hoặc kỳ vọng rằng Fed vào hôm nay hoặc ngày mai sẽ quyết định nâng lãi suất USD lên lần đầu tiên trong nhiều năm và do đó sẽ kéo theo sự mất giá của VND. Bởi vậy, trước viễn cảnh VND sẽ mất giá như vậy, đương nhiên là người đang nắm giữ tài sản bằng VND mà lại có nợ hay có nhu cầu chi tiêu bằng USD thì lo sợ rằng sau này sẽ phải tốn nhiều VND hơn để mua từng đó USD trả nợ/chi tiêu, còn người không có nợ hay có nhu cầu về USD thì lại phát sinh tâm lý đầu cơ, mua gom USD ngay bây giờ để mấy hôm nữa USD lên giá bán đi sẽ thu được nhiều VND hơn. Hoặc đơn giản hơn là những người lo xa, kỳ vọng VND sẽ mất giá nên sẽ kéo theo lạm phát, làm cho tài sản của mình bằng VND teo tóp theo thời gian, nên muốn đi trước thị trường bằng cách mua USD và coi đó như một tài sản phòng tránh lạm phát ở Việt Nam.
Dù là cái tâm lý nào trong số những phản ứng như trên của các chủ thể của thị trường thì điều cần thừa nhận là những cái tâm lý đó hoàn toàn là duy lý, có lý, hợp pháp, và là điều đương nhiên sẽ phải xảy ra. Và cũng cần phải thừa nhận rằng những phản ứng này không chỉ có ở Việt Nam mà còn ở mọi nơi trên thế giới nếu trong cùng một hoàn cảnh như Việt Nam. Nếu không vậy thì không thể có chuyện nhiều ngân hàng trung ương trên thế giới đã (buộc phải) thuận theo áp lực của thị trường để đồng nội tệ của họ mất giá so với USD mỗi khi có động thái mới từ Fed.
Do đó, Việt Nam cũng đã đến lúc phải nên thừa nhận rằng cái gọi là tâm lý chính là một lực lượng gây ảnh hưởng quan trọng, và thậm chí là rất quan trọng lên định hướng chính sách của NHNN. Đương nhiên là cũng giống như mọi ngân hàng trung ương khác, họ đều muốn có một sự độc lập, tự chủ trong chính sách tiền tệ của mình. Nhưng điều khác biệt là sự độc lập tự chủ này mâu thuẫn ở mức độ nào với xu hướng và đòi hỏi của thị trường, được hậu thuẫn bằng cái gì, mạnh đến đâu. Cho nên, rất nhiều khi các ngân hàng trung ương thế giới, kể cả của những nước lớn như Anh, lúc đầu ra sức đối đầu với thị trường bằng không chỉ lời nói (thuyết phục) mà bằng cả tiềm lực vật chất và các công cụ hành chính của họ, nhưng để rồi họ vẫn phải thừa nhận thua và chấp nhận thả nổi thị trường với tổn thất lớn về vật chất và uy tín.
Trở lại với Việt Nam, ngoài sự hiển nhiên và hợp lý của các loại tâm lý nói trên, điều đáng chú ý là những tâm lý này không phải chỉ mới xuất hiện, cần phải có thời gian thử thách để biết chúng có là tâm lý nhất thời hay không. Thực ra chúng đã tồn tại hơn cả năm nay rồi và chính bởi thế mà NHNN đã phải chấp nhận điều chỉnh tỷ giá vài lần trong năm qua và năm nay, phá vỡ cam kết của mình.
Hơn nữa, bên cạnh tâm lý hình thành từ các động thái của Fed, một loạt các tâm lý tương tự cũng được hình thành dựa trên những bước đi quyết đoán của nhà cầm quyền Trung Quốc liên quan đến tỷ giá Nhân dân tệ (RMB) trong mấy tháng gần đây. Chính NHNN cũng đã phải thừa nhận việc họ điều chỉnh tỷ giá hồi tháng 8 vừa qua là do Trung Quốc phá giá RMB. Cho dù mức độ điều chỉnh tỷ giá của NHNN là vẫn chưa đủ, nhưng đã có một số chuyên gia và quan chức Việt Nam mau mắn lên tiếng khẳng định rằng Trung Quốc sẽ không phá giá RMB nữa, và có lẽ đây cũng là một phần cho lý do đằng sau khẳng định lặp đi lặp lại của NHNN về chuyện không điều chỉnh tỷ giá VND đến cả đầu năm sau.
Nhưng thực tế đã diễn biến quá nhanh và phức tạp so với kỳ vọng của những người trong cuộc. Trung Quốc lại liên tục phá giá RMB dù ở biên độ nhỏ bất chấp nó mới được công nhận chính thức đưa vào rổ tiền tệ dự trữ quốc tế SDR của IMF. Do nền kinh tế của Trung Quốc tiếp tục giảm tốc nên sự mất giá của RMB có lẽ sẽ không dừng lại ở mức hiện tại.
Trong bối cảnh cùng lúc chịu 2 “mũi công” trong khi tiềm lực vật chất (kho dự trữ ngoại hối) của NHNN đã giảm đáng kể thì tương quan lực lượng như thế nào đã trở nên rõ ràng hơn nhiều so với mấy tháng trước đây. Công cụ chính sách còn lại mà NHNN có thể trông chờ vào là công cụ hành chính, như chống đầu cơ, găm giữ ngoại tệ. Nhưng phần vì một phần trong số các biện pháp hành chính đã được thực hiện, phần vì tính hai mặt của các biện pháp này (sẽ gây khó khăn và đảo lộn môi trường kinh doanh của doanh nghiệp và người dân) nên tính hữu dụng của các biện pháp hành chính cũng chỉ có hạn, không thể lạm dụng thêm và cũng không thể trông mong hơn được, như kinh nghiệm của các nước phải vật lộn với thâm hụt cán cân thương mại và thanh toán, và ngay của Việt Nam trước đây.
Thị trường hiểu rõ tình thế của NHNN và nhìn trước được kết cục sẽ xảy ra không lâu nữa nên tỷ giá VND cứ thế mà kịch trần, và rồi sẽ đội trần trong những giao dịch ngầm được hợp pháp hóa như tư vấn, vay vốn v.v... Trong hoàn cảnh này điều mà NHNN có thể làm là hy vọng Fed sẽ hoãn vô thời hạn việc tăng lãi suất USD và Trung Quốc thôi không phá giá RMB nữa. Lúc đó tỷ giá có thể quay về dưới mức trần, và thị trường lại được một phen nữa làm cho tin rằng chẳng có lý do gì để phá giá vì mọi thứ vẫn ổn (FDI và kiều hối vẫn chảy vào mạnh, cán cân thanh toán vẫn thặng dư...).
Nhưng NHNN sẽ có phương án gì ngoài chuyện phá giá VND nếu những hy vọng trên không xảy ra? Và vì ý nghĩa/mục đích gì mà cố gắng cầm cự không phá giá VND ngay trong tháng 12 này để rồi rất có thể sẽ phải phá vào đầu tháng 1 năm sau? Có lẽ NHNN cũng nên để thị trường hiểu rõ hơn về những vấn đề này thì mới có thể tăng thêm sức nặng cho mỗi hành động của mình.

Wednesday 9 December 2015

Những “lỗ đen” ngân sách (Bài đăng trên TBKTSG, 10/12/2015, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/139603/Nhung-lo-den-ngan-sach.html


Việc những cơ quan công quyền sống bằng ngân sách vung tay quá trán đến mức hết cả tiền trả lương và thanh toán các khoản nợ như ở Ủy ban Nhân dân Cà Mau và Thành ủy Bạc Liêu đã bộc lộ thêm những góc khuất trong chi tiêu ngân sách. Khái quát hóa, với tình trạng chi tiêu vô nguyên tắc, và thậm chí cũng chẳng “đúng quy trình”, như thế này ở quy mô cả nước thì ngân sách nhà nước không thâm hụt mới là chuyện lạ.

Lấy trường hợp của Thành ủy Bạc Liêu để minh họa. Theo báo Tiền Phong thuật lại thì khi bàn giao giữa lãnh đạo cũ và lãnh đạo mới, trên sổ sách ghi còn 2,748 tỷ đồng quỹ nhưng thực tế không còn tiền. Như vậy, chỉ có 3 khả năng xảy ra ở đây. Khả năng thứ nhất, việc theo dõi, ghi nhận thu chi (công tác kế toán) đã có những bút toán gian dối. Khả năng thứ hai là thủ quỹ đã thụt két (nếu khả năng đầu là sai). Hoặc khả năng cuối cùng là cả công tác kế toán lẫn thủ quỹ đều có vấn đề, gian dối. Đến khi vụ việc vỡ lở thì chỉ thấy nhắc đến rằng Ủy ban Kiểm tra tỉnh ủy Bạc Liêu “cho người đi kiểm tra”. Như vậy, dù là khả năng nào xảy ra thì điều có thể rút ra được ở đây là công tác giám sát tài chính của những cơ quan công quyền như thế này là cực kỳ yếu kém, hầu như trên thực tế không có cơ quan chức năng nào chịu trách nhiệm ngoài chính người trong cuộc là các cơ quan công quyền đó, có lẽ vì không ai dám động đến họ, hoặc theo kiểu không ai tự ghè đá vào chân mình. Do đó, các cơ quan công quyền như Tỉnh ủy Bạc Liêu trên thực tế đã biến thành những lỗ đen về chi tiêu ngân sách và chẳng ai biết điều gì đang xảy ra trong đó, trừ những người có trách nhiệm của chúng, bất chấp sự tồn tại của hàng rừng thủ tục và quy trình về chi tiêu ngân sách cũng như hàng loạt cơ quan thanh tra, kiểm tra, giám sát.

Ngoài vấn đề gian dối, vô nguyên tắc, chuyện chi tiêu của Tỉnh ủy Bạc Liêu hay của Ủy ban Nhân dân tỉnh Cà Mau còn làm toát lên một tinh thần “bất khuất” ở cái chỗ là mặc dù biết rằng đã có nợ đọng từ các năm trước chuyển sang nhưng việc chi tiêu vẫn cứ được đẩy mạnh để rồi không những nợ đọng chưa được giải quyết mà còn phát sinh thêm nợ mới.
Nghĩ đi nghĩ lại thì chỉ thấy có 2 lý do có thể giải thích cho tình trạng này. Thứ nhất, những người trong cuộc đã và đang ý thức rất rõ là họ tiêu tiền của người khác nên chẳng việc gì phải chi tiêu theo kiểu vun vén như từ túi tiền của bản thân. Mà để hợp thức hóa những khoản chi tiêu sao cho “đúng quy trình” thì không ai giỏi hơn họ. Thứ hai, họ cho rằng những cơ quan như của họ không thể bị cho phá sản hay đóng cửa hoặc “phạt vạ” như với doanh nghiệp tư nhân, nên kiểu gì thì những khoản nợ đọng sẽ được ngân sách cứu giúp. Nếu đúng vậy thì chừng nào Việt Nam chưa khống chế được 2 loại rủi ro đạo đức này (tiêu tiền của người khác, và quá quan trọng để bị cho đóng cửa) thì chừng đó ngân sách sẽ còn bị chịu áp lực bội chi ngày càng gia tăng.

Nhìn rộng ra trên thế giới, không chỉ ở Việt Nam mà hầu như mọi nước đều có những vấn đề và những rủi ro liên quan đến chi tiêu công như vậy. Điều khác biệt ở một số nước có chính sách tài khóa lành mạnh là chi tiêu ngân sách được bạch hóa, gắn với trách nhiệm giải trình và theo dõi của dư luận. Thêm nữa, kỷ luật chi tiêu được chế tài rõ ràng, nếu vi phạm thì cứ chiểu theo luật mà xử lý.

Khi việc chi tiêu được bạch hóa thì người có quyền lập và thực hiện chi tiêu sẽ không còn tự ý “vẽ” ra các khoản chi và muốn chi bao nhiêu thì chi. Họ sẽ trở nên có trách nhiệm hơn với việc chi tiêu như là từ tiền túi của mình, dù là từ tiền ngân sách, nếu không muốn bị chất vấn, bị phê phán trên các phương tiện thông tin đại chúng để rồi bị mất chức. Nhưng việc bạch hóa này sẽ khó thực hiện ở Việt Nam vì vẫn còn nhiều lỗ đen mà công luận không được phép dòm ngó đến.

Nếu kỷ luật chi tiêu được chế tài và xử lý nghiêm chỉnh thì thậm chí chính quyền phải đóng cửa hoạt động nếu để thâm hụt ngân sách đến mức độ không còn tiền để duy trì các hoạt động thường xuyên – chuyện xảy ra ở Mỹ hồi mấy năm trước. Ở đây chẳng có chuyện quá quan trọng để bị đóng cửa. Nhưng ở Việt Nam thì đến việc đóng cửa, cho phá sản doanh nghiệp nhà nước đã là cả một câu chuyện dài chưa có hồi kết, nói chi đến các cơ quan công quyền.

Và nếu kỷ luật chi tiêu được chế tài và xử lý nghiêm thì sẽ khó có chuyện mấy tỷ đồng bốc hơi đi đâu mà không ai biết trong cả một thời gian dài, cho đến khi phải bàn giao sang nhiệm kỳ mới thì mới lộ tẩy như ở Bạc Liêu. Những cá nhân và cơ quan liên đới đến chuyện này chắc chắn sẽ bị những hình phạt thích đáng của pháp luật ở các nước khác chứ không có chuyện cảnh cáo rồi... hòa như ở Việt Nam.

Nói tóm lại, nhìn từ Bạc Liêu và Cà Mau, chuyện lạm chi ngân sách và gia tăng nợ công sẽ khó hy vọng một bước chuyển biến tích cực ở Việt Nam nếu các giải pháp chỉ tập trung vào bổ sung và hoàn thiện các quy trình hay kêu gọi nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cá nhân và tổ chức liên đới. Điều thiếu vắng và cần phải làm ngay là phải minh bạch hóa tối đa chi tiêu ngân sách ở tất cả các cấp (và cũng qua đây công luận sẽ thấy rõ cơ quan nào, tổ chức nào xứng đáng được hưởng bầu sữa ngân sách, và cơ quan nào, tổ chức nào là ăn bám, vô dụng), giảm thiểu các lỗ đen mặc nhiên được thừa nhận cho đến nay, và thay những biện pháp chế tài có như không (như cảnh cáo, phê bình...) bằng những chế tài mang tính trừng phạt mạnh và nghiêm khắc vào các cá nhân và tổ chức vi phạm.

Tuesday 8 December 2015

Tác động của việc đưa Nhân dân tệ vào giỏ tiền tệ SDR lên Việt Nam (Bài đăng trên CafeF, 7/12/2015)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/hai-tac-dong-cua-viec-dua-nhan-dan-te-vao-gio-tien-te-sdr-len-viet-nam-20151208082855765.chn

Ngày 30/11, IMF công bố rằng đồng tiền Trung Quốc Nhân dân tệ (RMB) đã thỏa mãn được 2 tiêu chí để được đưa vào giỏ tiền tệ dự trữ SDR – Quyền rút vốn đặc biệt. 2 tiêu chí này là nước phát hành đồng tiền đó phải là một nước xuất khẩu lớn, và đồng tiền đó phải được tự do sử dụng (IMF chỉ rõ là tự do sử dụng chứ không phải là tự do chuyển đổi).
Theo đó, kể từ ngày 1/10/2016, RMB sẽ trở thành đồng tiền thứ 5 trong giỏ SDR bên cạnh USD, Euro, Yên Nhật và bảng Anh, với tỷ trọng tương ứng lần lượt là 42% (USD), 31% (euro), 11% (RMB), 8% (yên) và 8% (bảng Anh).

Việc IMF đưa RMB vào giỏ SDR chắc chắn sẽ có tác động ở một mức độ nào đó lên thị trường tài chính và tiền tệ của Việt Nam, không chỉ vì Trung Quốc là một quốc gia ngay sát nách Việt Nam và là một trong những bạn hàng lớn nhất của Việt Nam, mà còn vì việc này sẽ ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp lên luồng vốn ngoại tệ vào và ra khỏi Việt Nam, và, do đó, lên lãi suất nội tệ và ngoại tệ cũng như tỷ giá ở Việt Nam.

Tác động đầu tiên có thể kể đến là tác động lên dự trữ ngoại hối. Việc IMF đưa RMB vào giỏ SDR có nghĩa là RMB đã được công nhận chính thức là một đồng tiền dự trữ quốc tế, bất chấp việc Trung Quốc vẫn duy trì kiểm soát lưu chuyển vốn trên diện rộng (có nghĩa là không được tự do chuyển đổi). Tuy RMB chưa thể cạnh tranh và đe dọa vị trí thống trị của USD với tư cách là đồng tiền dự trữ quốc tế trong ngắn hạn và trung hạn, nhưng đây là một cú hích khích lệ các ngân hàng trung ương trên thế giới đưa thêm (nhiều hơn) RMB vào trong giỏ tiền tệ dự trữ của mình. Như vậy có thể nhìn thấy trước triển vọng là nhu cầu RMB sẽ tăng lên trong tương lai gần làm tăng áp lực lên giá của RMB.

Nếu RMB lên giá thì Việt Nam sẽ được hưởng một vài lợi ích như áp lực nhập siêu từ Trung Quốc sẽ giảm đi vì xuất khẩu của Trung Quốc sang Việt Nam trở nên kém cạnh tranh hơn trước. Tỷ giá VND vì thế sẽ chịu bớt áp lực điều chinh theo hướng VND bị phá giá hơn trước đây, giúp NHNN có thêm dư địa để ổn định tỷ giá, và, do đó, ổn định lãi suất ở Việt Nam.

Tác động thứ hai là các ngân hàng trung ương và các nhà đầu tư quốc tế sẽ tăng cường mua nhiều hơn trái phiếu chính phủ và các tài sản giấy tờ có giá bằng RMB. Điều này trên lý thuyết sẽ làm tăng nhu cầu về RMB và đo dó làm tăng giá RMB. Đồng thời, các giấy tờ có giá của Trung Quốc trên thị trường tiền tệ quốc tế cũng có xu hướng tăng giá do nhu cầu về chúng sẽ tăng lên, tạo thêm áp lực cạnh tranh cho các quốc gia muốn phát hành các loại giấy tờ có giá để huy động vốn trên thị trường quốc tế. Như thế, trong khi được hưởng lợi nhờ một đồng RMB mạnh hơn như nói ở trên, Việt Nam sẽ có khả năng phải trả một lãi suất cao hơn cho các loại trái phiếu chính phủ và doanh nghiệp quốc tế phát hành trong nay mai.

Tuy nhiên, có những yếu tố quan trọng sẽ làm giảm áp lực tăng giá lên RMB của 2 tác động trên. Yếu tố cần nhắc tới trước tiên là xu hướng tăng chậm lại của nền kinh tế Trung Quốc hiện nay và sẽ kéo dài trong nhiều năm tới, kết hợp với một đồng bản tệ RMB được coi là đã bị định giá quá cao. Một khi RMB được công nhận là đồng tiền dự trữ quốc tế thì Trung Quốc đã chính thức được công nhận là đã (và bị bắt buộc phải) để cho lãi suất và tỷ giá của đồng tiền của mình do thị trường quyết định.

Như thế khả năng RMB bị mất giá mạnh theo xu hướng của những bản tệ khác trên thế giới mà Chính phủ Trung Quốc không thể can thiệp như hồi mấy tháng trước (đã phải bỏ ra đến 100 tỷ USD để nâng đỡ giá RMB) là đáng kể. Do đó, áp lực tăng giá RMB do các ngân hàng trung ương và nhà đầu tư quốc tế tăng cường nắm giữ như nói trên sẽ bị dung hòa phần nào bởi áp lực mất giá RMB đến từ triển vọng không mấy tích cực của nền kinh tế thực của Trung Quốc.

Một yếu tố khác cần nhắc đến khi phân tích tác động của việc quốc tế hóa của RMB là một thực tế rằng hiện tại các ngân hàng trung ương trên thế giới đã nắm giữ khoảng 5% tài sản dự trữ ngoại hối là những tài sản bằng RMB. Bởi vậy, cho dù nếu các ngân hàng trung ương có tăng tỷ lệ tài sản bằng RMB lên cao hơn, ví dụ 10%, thì con số gia tăng thêm về nhu cầu RMB cũng chỉ có hạn ở nhiều nước. Hơn nữa, những nước bạn hàng chính của Trung Quốc có thể đã nắm giữ tài sản bằng RMB ở mức này hoặc thậm chí còn cao hơn nữa, và, do đó, càng làm giảm bớt mức tăng cầu RMB trên thực tế.

Ngoài ra, liên quan đến việc các nhà đầu tư quốc tế mua các giấy tờ có giá của Trung Quốc bằng RMB trên lãnh thổ Trung Quốc, hiện Trung Quốc vẫn đang áp dụng một số các hạn chế nên cho dù nhu cầu và khẩu vị cho tài sản của Trung Quốc có tăng lên nhưng chừng nào các hạn chế này chưa được gỡ bỏ hay nới rộng thì việc phổ cập của các loại tài sản này trên thị tường tài chính thế giới còn bị hạn chế, và do đó cũng không tạo thêm mấy áp lực cạnh tranh lên lãi suất phát hành bởi các nước khác như Việt Nam. Tuy nhiên về trung và dài hạn, các hạn chế này chắc chắn sẽ dần được bãi bỏ.

Tóm lại, có thể thấy trong ngắn hạn, việc IMF đưa RMB vào trong giỏ SDR sẽ không gây ra tác động lớn đến giá trị của RMB trong tương quan chung với các bản tệ khác, trong đó có tiền đồng của Việt Nam. Nhưng về trung và dài hạn, RMB có thể sẽ lên giá dần dần cùng với đà quốc tế hóa và sự thông dụng ngày càng tăng của RMB trên các thị trường tài chính quốc tế.

Saturday 5 December 2015

Không thể “câu giờ” hơn nữa với các DNNN (TBKTSG,`5/12/2015)

http://www.thesaigontimes.vn/139269/Khong-the-cau-gio-hon-nua-voi-cac-DNNN.html

(TBKTSG) - Trong “Báo cáo tình hình tài chính và kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh năm 2014 của các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp của Nhà nước” do Chính phủ báo cáo Quốc hội, có những con số “khổng lồ” về quy mô nợ phải thu và nợ phải trả.

Cụ thể, nợ phải trả của 119 doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là các tập đoàn, tổng công ty và công ty mẹ lên tới 1.567.063 tỉ đồng tính đến năm 2014 (tăng 8% so với năm 2013). Ngoài ra, 662 DNNN là các công ty TNHH một thành viên độc lập với tổng nợ phải trả là 173.312 tỉ đồng (tăng 74% so với năm 2013). Như vậy, tổng nợ phải trả của 781 doanh nghiệp Nhà nước nắm 100% vốn điều lệ này đã lên tới 1.740.375 tỉ đồng, tăng 12,2% so với năm 2013.

Với nhiều người, các con số ngàn và triệu tỉ đồng này hơi khó đọc và khó hình dung vì chúng có quá nhiều chữ số. Nhưng chỉ cần biết rằng con số 1.740.375 tỉ đồng tổng nợ phải trả này tương đương với 44,2% GDP tính bằng tiền đồng theo giá hiện hành của Việt Nam năm 2014 là cũng đã đủ thấy quy mô của gánh nặng nợ này lớn đến đâu.

Còn để biết được khả năng trả nợ thì so con số tổng nợ này với lợi nhuận trước thuế cộng gộp của 781 doanh nghiệp (187.699 tỉ đồng). Tổng số nợ phải trả lớn gấp 9,3 lần tổng lợi nhuận trước thuế! Như vậy, dù có dùng toàn bộ lợi nhuận thu được (chưa trừ tiền thuế thu nhập doanh nghiệp và lợi tức phân phối cho cổ đông, tức ngân sách) thì các DNNN sẽ phải mất gần 10 năm chỉ để trả hết nợ, giả sử tình hình sản xuất kinh doanh không thay đổi và doanh nghiệp không phải vay nợ thêm trong thời gian đó.

Chưa hết, theo báo cáo trên, tổng số nợ phải thu chỉ riêng của 119 DNNN là các tập đoàn, tổng công ty và công ty mẹ - công ty con là 293.617 tỉ đồng (trong đó đến 13.570 tỉ đồng được xác định là nợ phải thu khó đòi, tức hầu như là mất vốn). Nếu tình hình sản xuất kinh doanh vẫn tiếp tục gặp khó khăn, tình hình chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các DNNN và giữa DNNN với các doanh nghiệp phi nhà nước vẫn tiếp tục gia tăng thì chất lượng tài sản của các DNNN sẽ tiếp tục đi xuống và, ngược lại, gánh nặng nợ phải trả sẽ càng nặng thêm.

Xét về cơ cấu nợ, 119 DNNN nói trên có tổng nợ nước ngoài là 381.419 tỉ đồng, bằng 24,3% tổng nợ phải trả của chúng (tương đương hơn 17 tỉ đô la Mỹ theo tỷ giá hiện hành, hoặc khoảng phân nửa dự trữ ngoại hối của Việt Nam).

Tuy báo cáo không cho biết tốc độ gia tăng nợ nước ngoài so với các năm trước nên khó đánh giá được mức độ gia tăng rủi ro về cơ cấu đồng tiền trả nợ, nhưng ít ra cũng có thể nói rằng con số 24,3% này không phải là con số nhỏ, đặc biệt khi xét đến cơ cấu nguồn thu của các DNNN có một tỷ trọng chi phối là bằng tiền đồng.

Một trong những lý do chắc chắn cho tình trạng vay nợ nước ngoài nhiều như vậy là vay nước ngoài dễ hơn (vay qua Chính phủ, do Chính phủ bảo lãnh) và với lãi suất thấp hơn đi vay trong nước. Như vậy, lợi ích mà các DNNN được hưởng này đã trở thành gánh nặng cho Ngân hàng Nhà nước khi phải đảm bảo nguồn cung ngoại tệ cho các DNNN trả nợ vay nước ngoài, và điều này là một trong những nguyên nhân cho sự chao đảo về tỷ giá trong những năm qua kéo dài đến hiện nay và sẽ tiếp diễn trong thời gian tới (ở quy mô lớn hơn).

Cũng cần lưu ý rằng tuy báo cáo mới chỉ nêu về vay nợ nước ngoài do Chính phủ bảo lãnh của các tập đoàn và tổng công ty nhưng con số này cũng đã là 124.104 tỉ đồng (không tính phần bảo lãnh cho Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy - SBIC vì trong báo cáo này không tính số liệu của SBIC), tức tương đương hơn 5,5 tỉ đô la Mỹ. So ra mới thấy rằng việc Chính phủ định phát hành 3 tỉ đô la Mỹ trái phiếu nước ngoài chỉ như một ngụm nước nhỏ giải cơn khát, chưa kể đến những nghĩa vụ bảo lãnh ngầm định khác của Chính phủ (ví dụ, không để cho DNNN phá sản, mất khả năng trả nợ, như với Vinashin).

Như vậy, mặc dù số liệu chưa đầy đủ, không đồng bộ nhưng báo cáo của Chính phủ cũng đã cho thấy các DNNN đang vay nợ quá nhiều, đặc biệt so với khả năng trả nợ. Vấn đề nợ còn trở nên nguy cấp hơn khi xét đến nghĩa vụ bảo lãnh trực tiếp và gián tiếp của Chính phủ, và tỷ trọng nợ nước ngoài trong tổng nợ của DNNN ở mức đáng quan ngại, trong khi bản thân Chính phủ cũng đang phải vật lộn với khối nợ công trong và ngoài nước lên đến trên 60% GDP (mới chỉ tính đến nghĩa vụ bảo lãnh trực tiếp cho DNNN).

Như vậy, an ninh tài chính quốc gia đang cùng lúc chịu sức ép ngày càng gia tăng đến từ không chỉ gánh nặng nợ công mà còn từ các DNNN. Do đó, điều cần phải khẩn cấp thực hiện ngay từ bây giờ là cắt giảm ngay tổng số vay nợ của khối DNNN nếu không muốn phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng nợ công hay nợ nước ngoài trong tương lai gần.

Vấn đề hiệu quả hoạt động kém, nợ nần lớn và đáng lo ngại của các DNNN không phải là vấn đề mới nảy sinh mà đã được biết đến từ vài năm trước, qua những báo cáo tương tự. Nhưng cung cách Nhà nước xử lý vấn đề cho đến nay chủ yếu vẫn chỉ là tiếp tục rót thêm vốn, bảo lãnh vay vốn, tạo thêm ưu tiên, ưu đãi, hoặc chỉ đạo hệ thống ngân hàng cho các DNNN vay. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp cực kỳ yếu kém, trên thực tế đã chết lâm sàng, để mua thêm thời gian, giúp chúng tồn tại vật vờ với hy vọng mơ hồ rằng thời thế sẽ thay đổi và nhờ phép mầu nhiệm nào đó chúng sẽ sống lại một cách khỏe mạnh (để có thể bán đi).

Như vậy, không có gì ngạc nhiên là tổng nợ của các DNNN cứ tăng mạnh hàng năm trong khi mức độ đóng góp của khu vực này vào ngân sách ngày càng giảm, hoặc nếu có tăng thì cũng không tương xứng. Xét trong bối cảnh một vài năm tới, cả trong và ngoài nước, càng không có lý do gì để hy vọng rằng các DNNN sẽ lột xác, thay da đổi thịt và hồng hào trở lại, nên sự tiếp tục đổ tiền của vào cho các DNNN đa phần sẽ là ném tiền qua cửa sổ.

Vấn đề cần nói thêm ở đây là làm thế nào để cắt giảm ngay được khối nợ của các DNNN. Chính phủ cần phải dũng cảm để nhiều DNNN phá sản và bán một phần hoặc bán toàn bộ DNNN với giá thậm chí 0 đồng mà không nên lấn cấn với những lo ngại cũ mòn như công ăn việc làm và đời sống của gia đình công nhân viên trong DNNN bị ảnh hưởng, hay nếu bán ngay thì phải bán với giá rẻ và sẽ làm “ngập lụt”thị trường, gây thất thoát tài sản nhà nước, hoặc thậm chí nếu để phá sản DNNN thì uy tín Nhà nước sẽ bị ảnh hưởng...

 Nếu vì lo lắng cho đời sống của gia đình vài chục ngàn công nhân viên trong các DNNN cần bị tái cơ cấu thì cũng cần phải cân nhắc đến đời sống của hàng triệu người dân khác sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp nếu ngân sách nhà nước vẫn phải trực tiếp và gián tiếp bỏ ra nhiều trăm ngàn tỉ đồng để nuôi và trả nợ thay cho các DNNN này (để rồi vẫn vô vọng).


Còn chuyện lo bán vội thì phải bán với giá rẻ, gây thất thoát tài sản nhà nước, đây phần lớn chỉ là cái cớ vì một khi DNNN đã công nợ ngập đầu thì có ai đó mua với giá 0 đồng cũng đã là quá tốt, còn hơn là Nhà nước phải tiếp tục đứng ra è cổ trả nợ thay (trong thời gian dài không xác định).

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).