Friday 18 December 2015

Tại sao NHNN phải tiếp tục hạ lãi suất tiền gửi USD của cá nhân? (Bài đăng trên CafeF, 18/12/2015, bản gốc)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/tai-sao-nhnn-phai-tiep-tuc-ha-lai-suat-tien-gui-usd-cua-ca-nhan-20151218084336343.chn

Tối muộn ngày 17/12, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) bất ngờ công bố tiếp tục hạ lãi suất tiền gửi USD của cá nhân xuống còn 0%/năm từ mức 0,25% là mức mới được quyết định từ ngày 28/9 (trước đó là 0,75%). Mục đích của việc này được NHNN tuyên bố là để tiếp tục thực hiện các giải pháp đồng bộ nhằm thực hiện chủ trương chống đô la hóa của Chính phủ, chuyển từ quan hệ huy động - cho vay bằng ngoại tệ sang quan hệ mua - bán bằng ngoại tệ.
Bình thường, nếu để thực hiện đúng như những gì NHNN tuyên bố hôm nay (để chống đô la hóa) thì NHNN đã không cần phải đợi đến bây giờ mới quyết định hạ tiếp lãi suất tiền gửi USD cá nhân sau lần hạ lãi suất tiền gửi USD của tổ chức xuống 0% từ ngày 28/9. Vì vậy, sự việc xảy ra hôm 17/12 chắc chắn có liên quan đến một sự kiện nào đó có ảnh hưởng đến các chính sách của NHNN chứ không thể là một thời điểm ngẫu nhiên hoặc theo lộ trình định trước. Điểm lại bối cảnh hiện nay, điều đáng chú ý là việc hạ lãi suất tiền gửi USD của NHNN xảy ra ngay sau khi Fed quyết định nâng lãi suất USD lên thêm 0,25 điểm phần trăm và (vì thế mà) tỷ giá VND đã chạm đỉnh mấy hôm nay.
Như vậy, có thể liên hệ 2 sự việc này với nhau để thấy được một bức tranh rõ nét hơn. Theo đó, mục đích chính của việc hạ lãi suất tiền gửi USD lần này thực ra không phải là để chống đô la hóa như tuyên bố. Với việc hạ lãi suất tiền gửi USD xuống 0%, NHNN hy vọng rằng nó sẽ giúp họ có thêm dư địa để xì bớt áp lực lên tỷ giá đã kịch trần mấy hôm nay. Theo lý thuyết, khi lãi suất USD bị giảm đi thì tính hấp dẫn của việc nắm giữ USD bị suy giảm, làm cho nhà đầu tư và người có tài sản tiết kiệm sẽ bớt chuyển sang nắm giữ tài sản bằng USD thay vì tài sản bằng VND. Như thế, áp lực mua gom USD ở Việt Nam sẽ giảm bớt đi, dẫn đến sức ép lên tỷ giá VND cũng vì thế mà bớt đi, NHNN sẽ không phải vất vả tiếp tục hỗ trợ cho tỷ giá bằng việc bán thêm USD từ quỹ dự trữ ngoại hối đang hao hụt mạnh.
Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là tính hiệu quả của việc hạ lãi suất tiền gửi USD xuống 0%. Vì mức độ hạ chỉ là 0,25 điểm phần trăm, và như vậy là đã sử dụng hết “room”, nên khó có thể kỳ vọng rằng biện pháp này sẽ tạo ra một chuyển biến đáng kể về diễn biến tỷ giá nay mai theo hướng tích cực hơn (VND bớt bị áp lực phá giá hơn). Điều này cũng đã phần nào được minh họa rõ nét qua lần cắt giảm lãi suất tiền gửi USD của cả tổ chức và cá nhân từ hôm 28/9 trước đây, thậm chí với mức độ cắt giảm còn lớn hơn (lãi suất tiền gửi USD của tổ chức từ 0,25%/năm xuống còn 0% trong khi của cá nhân bị cắt giảm xuống còn 0,25% từ mức 0,75%). Cho dù lãi suất tiền gửi USD bị cắt giảm trên diện rộng hơn và ở mức độ lớn hơn từ ngày 28/9 nhưng diễn biến thực tế cho thấy hầu như biện pháp hạ lãi suất tiền gửi này không phát huy tín dụng trên thực tế vì tỷ giá vẫn “nhấp nhổm” áp sát và đã chính thức kịch trần nhiều lần trong thời gian kể từ sau đó đến nay.
Như vậy, có thể nói rằng lần cắt giảm lãi suất tiền gửi USD lần này là một hành động "tận dụng” những công cụ, những dư địa nào còn sót lại mà NHNN có trong tay để kiên quyết “nói không” với điều chỉnh tỷ giá VND trong thời điểm này. Và tuy rằng sẽ chỉ có tác dụng nhỏ nhưng NHNN vẫn có thể hy vọng rằng hành động hạ lãi suất vào thời điểm này sẽ giúp họ có thêm thời gian cầm cự chờ đợi thời điểm điều chỉnh tỷ giá thích hợp hơn (muộn nhất là) vào ngay đầu năm sau.
Và cũng chính bởi tác dụng có hạn nên ngoài biện pháp hạ lãi suất tiền gửi USD cá nhân, NHNN trong những ngày còn lại của năm nay sẽ rất có thể thực hiện (hoặc củng cố thêm) một vài biện pháp quyết đoán hơn nữa nhằm bóp nghẹt thêm nhu cầu nắm giữ và sở hữu USD trong khi tìm cách tăng thêm nguồn cung USD ở Việt Nam từ doanh nghiệp, mà mục đích cuối cùng là không phải phá giá VND ít nhất ngay trong những ngày còn lại của năm nay. Theo hướng này, thậm chí người có tiền gửi USD (tổ chức và cá nhân) sẽ không chỉ không còn được hưởng lãi suất mà còn phải trả thêm phí cho ngân hàng “giữ hộ” USD cho mình. 

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).