Thursday 24 March 2016

Bức tranh ngân hàng Việt Nam 10 năm qua – Bất ổn tự tạo! (Bài đăng trên TBKTSG, ngày 24/3/2016, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/143967/Buc-tranh-ngan-hang-Viet-Nam-10-nam-qua-Bat-on-tu-tao.html

Tác giả Nguyễn Xuân Thành, Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright gần đây đã công bố một bản thảo báo cáo với tựa đề: “Ngân hàng thương mại Việt Nam: Từ những thay đổi về luật và chính sách giai đoạn 2006-2010 đến các sự kiện tái cơ cấu giai đoạn 2011-2015”.
Đây là một báo cáo được soạn thảo rất công phu, đầy ắp dữ liệu và sự kiện, được sắp xếp hợp lý theo trình tự thời gian và mạch chủ đề. Trong phần lớn báo cáo, tác giả đã tập trung mô tả chi tiết và sống động toàn bộ bức tranh của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong 10 năm qua, đồng thời khéo léo gửi gắm những phân tích và nhận định riêng của mình vào trong những câu hỏi bỏ ngỏ ở phần đầu mỗi chương, mỗi phần của bài viết, mà hầu như đã được trả lời hộ bởi tác giả căn cứ theo cách đặt và nội dung của câu hỏi.
Tuy vậy, một trong những nhược điểm trong phương pháp phân tích bằng cách đặt ra những câu hỏi bỏ ngỏ cho từng vấn đề ở từng chương như của tác giả là nó đã vô tình bẻ gẫy tính liên kết giữa các chương, các phần, các nội dung trong bài, làm người đọc khó xâu chuỗi được các sự kiện và hiểu rõ được những vấn đề có tính khái quát hơn, chẳng hạn điều gì đã tạo ra, đã dẫn đến một hệ thống ngân hàng như hiện nay, và cần làm gì để tránh “vết xe đổ” trong quá khứ?
Trong bài viết này chúng ta sẽ bổ sung thêm một số luận điểm và phân tích dựa theo các vấn đề mà tác giả đặt ra để đi đến một số khái quát hóa về hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua và những năm sắp tới.
Vấn đề đầu tiên mà tác giả đặt ra là việc cho phép thành lập các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) nông thôn quy mô nhỏ thành NHTMCP đô thị hoạt động trên phạm vi toàn quốc là chính sách đúng để thúc đẩy phát triển tài chính hay là nguyên nhân dẫn tới tình trạng nhiều ngân hàng trong số này trở thành yếu kém và mất khả năng chi trả?
Công bằng mà nói, bản thân việc cho phép thành lập các NHTMCP nông thôn thành NHTMCP đô thị không phải là sai, thậm chí còn là một điều kiện cần nếu muốn có các ngân hàng thương mại có đầy đủ chức năng hoạt động thông thường từ những ngân hàng hiện có mà không phải mất thời gian, công sức xây mới từ đầu. Tất nhiên, sự yếu kém sau này của chúng là có thật, nhưng đó là bởi những lý do khác, mà sau này mới bộc lộ ra, ví dụ, qua vấn đề sở hữu chéo.
Vấn đề thứ hai mà tác giả đề cập đến là quy định bắt buộc tăng vốn điều lệ (VĐL) lên 3.000 tỷ đồng trong vòng 4 năm liệu có phải là quyết định đúng để tăng cường sự vững mạnh của các NHTM hay là nguyên nhân dẫn tới tình trạng vốn chủ sở hữu ảo và sở hữu chéo, từ đó làm suy yếu hệ thống ngân hàng Việt Nam?
Đến đây, ta đã bắt đầu thấy được sự liên kết giữa việc thành lập hàng loạt NHTMCP đô thị và việc tăng vốn bắt buộc. Nêu lại diễn biến quá trình tăng VĐL khá chật vật trong giai đoạn 2006-2010, dường như tác giả muốn chỉ ra rằng việc cấp phép ồ ạt thành lập hàng loạt ngân hàng từ một cơ sở yếu kém cộng với việc bắt buộc các ngân hàng này phải đạt được VĐL lớn hơn quy mô vốn thực có của chúng nhiều lần đã đẩy các ngân hàng vào con đường “làm liều” sau này.
Tuy vậy, cũng phải công bằng mà nhìn nhận rằng việc bắt buộc phải tăng VĐL tất nhiên có thể là không cần thiết, không luôn đồng nghĩa với tăng cường sự vững mạnh của các NHTM nhưng nó cũng không phải là sai, chỉ có ở Việt Nam, vì tác giả cũng đồng ý rằng cũng có nhiều quốc gia quy định NHTM phải có VĐL ở một mức tối thiểu nào đó. Như vậy, chuyện đáng nói hơn là cách thức nào để các NHTM này gia tăng được VĐL và nó có phù hợp với luật pháp và mong muốn của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hay không. Điều này được giải đáp phần nào ở chương nói về sở hữu, cho vay và đầu tư chéo như là một cách thức giúp các NHTM tăng được VĐL như quy định.
Cũng theo tác giả, NHNN một mặt đã đánh giá được vấn đề trầm trọng của sở hữu chéo giữa các tổ chức tín dụng (TCTD), nhưng, mặt khác, NHNN lại cho rằng: “Việc kiểm tra phát hiện sở hữu chéo là rất khó khăn do thiếu bằng chứng pháp lý”. Như thế, có thể nói sự bất cập trong thanh tra, giám sát và khả năng xử lý vấn đề của NHNN, chứ không phải bản thân việc cho phép thành lập hàng loạt NHTMCP cũng như quy định bắt buộc tăng VĐL là hai trong những nguyên nhân chính gây ra tình trạng sở hữu chéo tràn lan, càng làm suy yếu hệ thống ngân hàng. Nói cách khác, giả sử NHNN làm tốt và làm nghiêm thì đã không xảy ra tình trạng sở hữu và đầu tư chéo tràn lan, và sẽ chỉ có những NHTM nào có khả năng tăng VĐL một cách lành mạnh mới được phép tồn tại, nhờ đó tạo ra một hệ thống ngân hàng có chất lượng cao hơn.
Vai trò và trách nhiệm của NHNN còn được làm rõ hơn nữa trong chương nói về việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN. Với những dữ liệu và sự kiện được tác giả bố trí theo trình tự thời gian từ năm 2007 đến 2011 và theo chủ đề, bắt đầu từ chính sách tiền tệ nới lỏng năm 2007, chuyển sang chính sách tiền tệ thắt chặt năm 2008, rồi lại một lần nữa chuyển thành chính sách tiền tệ nới lỏng năm 2009-2010 để rồi kết thúc ở chính sách tiền tệ thắt chặt năm 2011, người đọc sẽ thấy một cách rõ ràng các chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ nói chung và NHNN nói riêng đã có những sai lầm, lại bị thay đổi thường xuyên và đột ngột ở mức độ cấp tập, với quy mô “quyết liệt”.
Bùng nổ tín dụng năm 2007 có nguyên nhân trực tiếp từ sai lầm chính sách ngoại hối khi NHNN mua vào một phần lớn trong số vốn nước ngoài chảy vào Việt Nam năm đó lên tới 17,7 tỷ USD mà không trung hòa đúng mức lượng tiền đồng đối ứng tung ra nền kinh tế. Cung tiền mở rộng quá mức đã trực tiếp thổi bùng tăng trưởng tín dụng dẫn đến bong bóng chứng khoán và bất động sản, làm tăng nợ xấu trong hệ thống ngân hàng. Và, cũng như tác giả chỉ ra, tuy NHNN cũng phần nào ý thức được mối nguy hiểm của mở rộng cung tiền ồ ạt nhưng biện pháp thắt chặt tiền tệ duy nhất lúc đó chỉ là nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi kỳ hạn dưới 12 tháng của các NHTM từ 5% lên 10%, một biện pháp xem ra là quá muộn và không đủ độ hữu hiệu cần thiết.
Sang đến năm 2008, để kiềm chế lạm phát đã vọt lên trên 20%/năm trong bối cảnh cung tiền mở rộng quá mức NHNN đã buộc phải thắt chặt cung tiền, và phải thắt chặt gấp và mạnh nhằm đưa nó trở lại mức tăng trưởng bình thường. Việc này đã gây ra hậu quả nghiêm trọng khi bong bóng tài sản xì hơi, dẫn đến làm giảm mạnh chất lượng bảng cân đối tài sản của các ngân hàng thương mại do nợ xấu tăng đột ngột. Tuy là việc cần thiết phải làm để sửa sai cho chính sách nới lỏng tín dụng quá bất cẩn của chính mình năm 2007 nhưng có lẽ NHNN đã quá cấp tập trong những bước đi chính sách của mình làm thị trường bị “phanh gấp” mà không kịp điều chỉnh.
Ở chiều hướng đối nghịch hoàn toàn, chính sách tiền tệ trong thời kỳ 2009-2010 lại được mở ra một cách cũng hết sức cấp tập, và “quyết liệt” (trừ việc tăng một điểm phần trăm các loại lãi suất của NHNN cuối năm 2009), với mục đích mà, theo như tác giả nhận định, là để “hỗ trợ tăng trưởng và ổn định vĩ mô”. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ nới lỏng cấp tập như vậy thì đương nhiên chỉ có tác dụng “hỗ trợ tăng trưởng” chứ không thể “ổn định vĩ mô” được, nếu hiểu ổn định vĩ mô là phải có lạm phát thấp, ổn định. Cũng vì nới lỏng cấp tập như vậy nên lại dẫn đến sự bùng nổ của thị trường tài chính với sự trở lại của các bong bóng tài sản, để rồi giai đoạn sau đó lại phải thắt chặt chính sách tiền tệ, dẫn đến sự suy sụp của thị trường tài chính và hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, sự mở rộng cấp tập và quá mức của chính sách tài khóa, thể hiện ra ở chính sách kích cầu, hỗ trợ lãi suất, an sinh xã hội, đầu tư cơ sở hạ tầng và nhà ở xã hội… cũng là một nguyên nhân cho sự bất ổn vĩ mô và sự trồi sụp của thị trường tài chính.
Tóm lại, nếu xâu chuỗi lại các sự kiện và các con số trong báo cáo trên thì sẽ thấy rõ các bất ổn đã và đang tồn tại hiện nay trong hệ thống ngân hàng là bất ổn tự tạo, xuất phát từ những sai lầm và yếu kém trong hoạch định và thực thi các chính sách của Chính phủ, của NHNN, với các chính sách thay đổi đột ngột và thường xuyên, từ thái cực này sang thái cực khác, mang tính tình thế, “chữa cháy” là nhiều hơn.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).